Saturday, December 30, 2017

MÙA ĐÔNG. TRONG KHI CHỜ UẤT KIM HƯƠNG VÀ THỦY TIÊN NỞ


nguyễn xuân thiệp

Tulips & Daffodils

Mùa đông thường là bức tranh màu xám,  mang hình dáng một bà phù thủy trong chuyện cổ tích. Tuy nhiên, mùa đông cũng có thể đem đến cho chúng ta đôi chút ấm áp, nếu có một ngọn lửa thắp lên. Hoặc là có tín hiệu những bông hoa sẽ mọc lên từ lòng đất giá băng. Hay một tiếng chim trong buổi sáng trời hửng nắng.
Sau đây, Nguyễn xin gởi đến các bạn một vài suy nghĩ  trong khi chờ uất kim hương và thủy tiên nở.

   Mùa này thủy tiên và uất kim hương còn ngủ yên trong lòng đất. Tôi biết phải còn khá lâu nữa tôi mới được thấy lại những bông hoa mùa trước -như dogwood, bluebonnet, primroses, tulip, hyacinth, cúc trắng cúc vàng, thủy tiên, và đỗ quyên azalea... Trong khi chờ hoa nở, ngồi trong đêm mùa đông, ngóng chờ một tín hiệu vui, như tiếng chuông điện thoại của người ở rất xa rất xa..., tôi chợt nhớ tới câu chuyện đã đọc được từ lâu lắm trên Reader's Digest. Chuyện kể, một ông bố rất thương con gái, ngày ngày thường sang thăm con và chơi với hai cháu nhỏ, có khi tới đêm mới trở về lại ngôi nhà của mình ở cách đó một con phố ngắn. Một hôm, vào độ đầu đông, ông bố cũng sang chơi nhà con gái nhưng không ở trong nhà mà quanh quẩn ngoài vườn. Cô con gái hé bức blind cửa sổ ra xem, thấy bố đang dùng xẻng loay hoay đào bới một khoảnh đất quanh gốc sồi già. Hình như ông đang vùi cái gì đó vào lòng đất. Tuy nhiên, cô bận sửa soạn đi làm nên không kịp hỏi. Thế rồi, ít lâu sau, ông bố lâm trọng bệnh qua đời. Nỗi tiếc thương sầu khổ làm cô quên hết hiện thực chung quanh. Rồi mùa đông băng giá qua đi, mùa xuân trở về cùng với những đàn chim xa. Một buổi sáng, cô con gái mở cửa ra ngoài nắng ấm. Bỗng cô ngạc nhiên đến bàng hoàng: trên khoảnh đất quanh gốc sồi già, chỗ bố cô lúi húi đào xới hôm nào, mọc lên những bông thủy tiên vàng rợi và tulip đỏ thắm, tưởng như có sự nhiệm mầu nào đó làm cho đất nở hoa. Cô biết, đây là tặng phẩm của bố cô, và với lòng yêu thương, bố đã gởi cho cô một thông điệp tuyệt vời.
   Thưa bạn đọc thân mến, thi sĩ đến giữa đời cho dẫu chỉ ca hát những mối tình sầu hay kể chuyện buồn vui thiên hạ, thì phải chăng anh ta cũng đã làm cái công việc của người bố kia, là gởi lại cho đời sau một lời chúc tốt lành. Giản dị và khiêm tốn thế thôi, nhưng trong đó có ẩn sắc màu của những loài hoa quý. Trong cái nhìn và hy vọng đó, những điều Nguyễn cùng bạn bè viết ngày hôm nay có thể được xem là những củ uất kim hương và thủy tiên chôn vào lòng đất, đợi mùa xuân nắng ấm trở về.
NXT

Friday, December 29, 2017

HỒNG


Vương Ngọc Minh

Nhà văn Thuận. Hình Internet

tôi đang ngẫm- ngày tan
tháng sắp lụn
năm sẽ tàn
và lạ nghen
ai đời đi gớm chết  

nhát- cũng do từ sự dốt nát
stupid
sinh ra
mà chỉ có thể thấy ở việt nam

thôi
hiện giờ
ấy- bởi tôi không muốn nói tục tỉu
vào cái hội đấy (hội nhà văn việt nam)
hành trình đi tìm giọng nói riêng
phải để người ta tự đi

cá nhân
tôi
vẫn tiếp tục

kịch viết để đọc không để diễn
chẳng dễ chút nào
quả
bọn nhiễu sự ở đâu
thời nào
chúng vẫn chỉ bọn chả hiểu đâu sâu
đâu xa

chuyện ở đây
tôi muốn nói cô Anh Thuan Doan
tức nhà văn thuận
giả
cô ấy nhận giải về dịch thuật
của hội nhà văn việt nam trao
mới hay
mới phải đáng nói
giải bày

chứ còn (phủi đít) không nhận
chẳng gì đáng nói cả

ối- hình ảnh loại bò cái đít to
các comment
bình luận (dư luận viên) nó cứ hiện lên tường
FB
trước mắt tôi
lại nói “tranh con nít vẽ đáng xem hơn
bọn lớn vẽ
anh à
đời người ngắn lắm
lên amazon tìm mua cái bẫy chuột
giá bèo cực
chỉ phó- mát đắc!”

quả là cái hội ấy
- hội nhà văn việt nam
đểu cáng
chả tử tế gì, cô Thuận!
..
VƯƠNG NGỌC MINH.
đọc nhan bài thơ của Lê.

TRANH TRƯƠNG VŨ


Cuối Năm, Đùa Với Sắc Màu
Acrylic trên bố, 40” x 30”, thực hiện 29 tháng 12, 2017.

KÝ ỨC SƠ SÀI. 30


Nguyễn Anh Khiêm

Tô Thùy Yên. Đinh Cường vẽ

Mấy bữa trước tôi đọc bài của Thận Nhiên nói chuyện hoà hợp hoà giải, bỗng nhớ lại phim "Bất Khuất" (Invictus) - Clint Eastwood đạo diễn, chiếu trên kênh HBO.
Khỏi nói tài diễn xuất của Morgan Freeman và Matt Damon, đặc biệt gương mặt M. Freeman giống Nelson Mandela kỳ lạ, ông như sống lại - các tài tử lớn đều vậy - chớ không phải diễn xuất đoạn đời khó khăn khi Mandela làm tổng thống - sau một cuộc bầu cử lương thiện - một đất nước đang tận cùng chia rẽ vì nạn xung đột sắc tộc.
Ta đều biết ông là lãnh tụ da đen miệt mài, không mệt mỏi chống nạn phân biệt chủng tộc (Apartheid) nhưng phim này lại chỉ kể chuyện tổng thống Mandela can dự trực tiếp giúp đội bóng bầu dục trừ khử nạn chia rẽ màu da, từ thất bại triền miên chẳng mấy chốc vô địch thế giới. Phim làm nổi bật một Mandela đầy cá tính, đức bác ái như thánh nhân, tâm hồn khoan hoà như Phật. Dường như ông quên đi 27 năm khổ nhục bị nhà cầm quyền da trắng đày đoạ trong tù, lúc cầm quyền, vẫn nung nấu quan niệm rằng dân tộc Nam Phi chỉ có một con đường sống và tiến bộ là hoà giải với nhau. Ông luôn nhường nhịn nhưng giữ vững nguyên tắc, xét đoán công bình, đầy tinh thần hoà hợp hoà giải khi lãnh đạo dân chúng Nam Phi, đa phần da màu, vốn căm hận người da trắng thâm căn cố đế. (Ước gì nhà cầm quyền CS xem phim này mà ân hận thấy ra sự đối xử tàn độc, mù quáng với người anh em đồng bào khác chiến tuyến với mình).
Hội thoại trong phim vô cùng tinh tế, thú vị. Tôi không khỏi ngạc nhiên khi ông hỏi một viên chức thuộc quyền:
- Anh có biết những năm tháng bị người da trắng coi mình như thú vật trong tù, tôi vẫn giữ lòng tin mình xứng đáng làm người là nhờ cái gì không? Đó là nhờ tôi luôn đọc những bài thơ, chính những bài thơ nâng đỡ tôi đứng dậy.(Scenario không nói ông đọc thơ ai, nội dung gì, chắc vì giới hạn đặc trưng của điện ảnh).
Ôi, sao mà trùng hợp diệu kỳ. Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh… nương nhờ thơ để tồn tại mà nói lên chí khí. Phùng Quán của chúng ta một đời bị đoạ đày, khủng bố kịch liệt, thi sĩ cũng nói tôi vịn câu thơ mà đứng dậy (làm người). Phùng Quán thì không bị nhốt trong nhà tù nhỏ nhưng tinh thần ông rõ ràng bị giam cầm lâu hơn Mandela! Quả thật thi ca có năng lực giúp những phận người trầm luân vượt qua định mệnh nghiệt ngã của mình.
Nói tới thơ, thơ tù, không cách gì không nhắc tới Tô Thuỳ Yên. Thơ ông nhìn chung viết toàn về phận người cô đơn, đau đớn mà kiêu hãnh:

Hoàng hôn xô bóng ta trên cát
Ta lớn lao và ta cô đơn
Ngưỡng mộ cây xương rồng gắng gượng
Thân trần đứng lẻ giữa đồng trơn.

Thi ca ấy phong phú tới mức ai đọc cũng thấy nhiều ít phận mình trong đó và không khỏi nghĩ mình hạnh phúc, may mắn phần nào hiểu và cảm nhận đươc. Riêng tôi, đọc thơ ông để bớt thấy tuổi già vô vị và thỉnh thoảng quên đi đại hoạ khốn cùng đang xảy ra trên đất nước.

Thời gian dài bất tận bị lưu đày nơi rừng núi:

Mười năm mặt sạm soi khe nước,
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ. (Ta Về)

Hoá ra những chế độ toàn trị khắc nghiệt đều không khác nhau ở chỗ muốn huỷ diệt nhân cách người tù, họ đầy tham vọng biến những con người giá trị thành thú vật, nỗ lực đưa sự đoạ đày tới …nghệ thuật tuyệt luân.
Những câu thơ sau đây của một thi sĩ, người làm chứng những năm tháng khốc liệt nhất, sau chiến tranh mà đau thương vẫn không hề giảm thiểu:

Như tên phù thuỷ già điên loạn,
Lịch sử lên cơn dữ bất thường,
Treo ngược con đen trên lửa đỏ,
Quật mồ thánh đế phi tang xương.

Và ông đã sống trong hoàn cảnh:

Ở đây, địa ngục chin tầng sâu,
Cả giống nòi câm lặng gục đầu,
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt,
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau.

Bước tới, chân không đè đá sắc,
Vai trần chin rạn gánh oan khiên,
Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc,
Sống chẳng khôn cầu được thác thiêng.
(Mùa Hạn)

Và những trải nghiệm kinh hoàng khó tin nhưng chính đó là ẩn dụ thi ca, vốn hiện thực …hơn sự thật:

Cái chết tru rân giờ nguyệt tận…
Máu bung từ mỗi lỗ chân lông,
Mọi người nghe chính mình kêu rú…
Liệu sáng mai còn ai nữa không?

Ta khóc lẻ loi, cười một mình,
Thu hình ẩn náu dưới tâm linh,
Mắt chong kinh hãi đêm hư sử,
Thân loã lồ đau cháy khổ hình.
(Mùa Hạn)
Tôi không muốn trích thêm những câu thơ nói tới sự đoạ đày dưới chế độ lao tù hiện hữu vì làm vậy cũng như đẩy vào cánh cửa đã mở nhưng không quên được những câu thơ

Kẻ mới tới bày toà giữa chợ,
Giải người ra, sỉ mạ ba đời.

Và tàn khốc, quái dị hơn nữa:

Chỉa súng đuổi người ra khỏi đất,
Đày đi biền biệt miệt thiên thu,
Đuổi cả người chết ra khỏi mộ,
Cày nghĩa trang, trả vói thâm thù (Nỗi Đợi)

Và sau đây xin dẫn ít đoạn trong “Nỗi Đợi” và phần cuối bài “Mùa Hạn” gồm 47 khổ thơ thất ngôn (188 câu, dài nhất trong những bài thất ngôn của TTY).
Bao nhiêu năm ròng thân sơ thất sở, (đến nỗi thành vượn!),thi nhân chỉ còn làm chủ được “nỗi đợi”, (mặc cho “ta đợi nghe chừng thiên cổ mỏi”). Trong cô đơn, ông tự an ủi, hoàn cảnh mình âu cũng lẽ thường:

Hỏi ai, ai có là tri kỷ?
Ai có buồn chớp bể mưa nguồn?
Ta khóc, chẳng qua là khóc lại.
Lệ nào, ôi chẳng của tiền nhân? (Nỗi Đợi)

Và thao thức cùng những ước mơ:

Ta nhặt từng trang sách rách toang
Đứa ngu đã xé vứt ra đường,
Ta gom từng hạt cây luân lạc,
Mong mỏi gầy lên một địa đàng.

Ta nghe cánh cửa lâu đời sập,
Những xích xiềng han rỉ đứt tung,
Sấm động một trời u uất vỡ,
Muôn nghìn năm thế giới còn rung.

Tất cả rồi đây sẽ đổi thay,
Đổi thay từ quặng mỏ, mầm cây,
Đổi thay cả mặt người tăm tối,
Những bớt chàm xưa được xoá trôi.

Ở đâu còn cụm mây hư ảo,
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi,
Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp,
Trọn luân hồi ấy, một lần đi.

Ở đâu còn ngọn gió thênh thang,
Thổi mới trần gian mùa rộn ràng,
Tiếng biển lời rừng nao nức giục,
Ta về cho kịp độ xuân sang.

Và những hoài niệm chết lòng, thời thanh xuân diễm ảo chỉ còn trong mộng:

Mùa hè, em bới tóc lên cao,
Môi ửng son và má chớm đào,
Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại,
Lòng như con sáo trong ca dao.

Trời cẩm thạch ngời, bông mía trắng
Ngoài đồng dậy tiếng trẻ thơ reo,
Con chuồn chuồn đó thong dong quá,
Mùa hết, còn bay dõi dõi theo.

Em mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khoả nhẹ nhớ thương nào,
Đến nay, lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng nhau.

Bao giờ, cho đến bao giờ nữa,
Em gánh vui về họp chợ đông,
Lòng ngát như hoa còn kịp buổi,
Áo chưa người giữ để xin buông.*

Sau bao nhiêu cay đắng, phẫn nộ, ngậm ngùi, cuối cùng ông viết:

Lòng ta nay vẫn lòng ta trước,
Vẫn chảy về con nước thuở nào,
Sợi tóc mai kia dù có rụng,
Ba sinh còn để nhớ cho nhau.

Ông tự nhủ đồng thời dường như nhắn hỏi người bên kia chiến tuyến:

Cát bụi, sao quên mình cát bụi,
Đành hanh nhau tàn khốc màu xương.
Mấy mươi năm chiến tranh, tù rạc,
Cười rộ vô thường một tiếng suông.
(Nỗi Đợi)

Thấy như “Đất trời không có chi còn mất”, chuyện đã qua như “Vòng ngừng quay, kẻng khựng một mùa chơi”, “coi dâu biển cũng đã rồi dâu biển”, cuối cùng ông quên hờn giận, mở lòng ra “hoà hợp và hoà giải” (khác nào Nelson Mandela):

Những ai hôm trước từng gây tội,
Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình,
Tự tại, thời gian chôn chính nó,
Đời lên lại mãi tựa bình minh.

Sẽ lo chẳng những cho người sống,
Lo cả cho người khuất mặt kia.
Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ,
Chung lời thương tiếc khóc trên bia.

Con ta giờ đã làm cha mẹ,
Lớp lớp truyền lưu máu một dòng,
Không cạn nguồn tình thiên bẩm ấy,
Đời đời nhân loại sống như sông.

Định tâm chỉ viết ít dòng về một phim, thật sự là bom tấn. Xem xong cứ bị ám về tư cách, tài năng của vị cha già (thứ thiêt!) của xứ Nam Phi, (những phim được quảng cáo bom tấn phần nhiều khá nhảm). Nhưng vì một lời thoại của kịch bản dẫn tôi đi xa đến quên đường quay lại.
Lần này tôi chỉ dẫn nội dung thơ ông Tô và tránh nói tới nghệ thuật. Chỉ ra nghệ thuật có người bảo mình dạy đời. Người xưa có nói thơ hay như rượu ngon, chỉ nhấm đã thấy ngon, dễ thấy khác xa rượu dở. Và thơ hay cũng vậy thôi. Người biết đọc – cũng như biết uống – đọc câu đầu đã thấy hay, khác xa thơ dở! Lý do thơ nọ hay vì nó vốn hay, vậy thôi. Ai không thấy hay thì thôi! Xin nói thiệt, 188 câu thơ trong bài Mùa Hạn thì chỉ vài câu không hay chớ không đến nỗi dở.
Đôi lúc chính mình cứ nghĩ ngợi tìm lý do tại sao thơ hay. Thí dụ lần đầu đọc Ta Về, ngay câu đầu tiên đã thấy hay: Ta về, một bóng trên đường lớn. Câu thơ với những thanh trắc rắn rỏi, không chút êm đềm, lãng mạn như “anh về qua xóm nhỏ” chẳng hạn. Nhưng rắn rỏi đâu thích nghi với văn cảnh tác giả đang vui được về nhà? Hay tất cả cái hay nằm trong “từ khoá” một bóng? Rõ ràng từ này khiến hình dung một hành giả cô đơn lầm lũi trên đường, không phải một người mà bóng người, bóng là cái gì không thật, có thể vì tác giả không tin được vế nhà sau bao kiếp nạn quá kinh khiếp. Tôi bỗng nhớ tới khổ thơ này:
Thảo hoa trường tại bế thiếu thất,
Thầm thầm vách lõm bóng ngồi yên…
Giữa khuya có tiếng chim ai oán
Tạt hỏi thăm thần trí bỏ quên.

Bóng ngổi yên chớ không phải người ngồi yên.

Tôi cũng hay ngồi yên vẩn vơ nghĩ tại sao thơ hay, và biết không bao giờ trà lời cho chính mình được.
NAK