Tuesday, September 30, 2025

ĐỖ HỒNG NGỌC VÀ CHUYỆN HỒI ĐÓ

Trần Thị Nguyệt Mai
 
Đỗ Hồng Ngọc. Tác phẩm
 
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến ông, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”
Nhưng cuối cùng, ông đã không viết hồi ký, mà chọn cách viết “Chuyện Hồi Đó” được nói đến trong Chương 1, “là những chuyện xưa, tích cũ, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè... Nó không phải là một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian. Tôi chỉ “nhìn” tôi một chút, rồi nhờ người khác nhìn tôi…
Tôi chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi.
Tôi tri ân những con người, những vùng đất…
Tôi muốn người đọc không vì tò mò.”
Nếu “Tôi Học Phật” thu tóm con đường Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, “Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc” nghiêng về phần văn chương của ông thì “Chuyện Hồi Đó” chia sẻ cuộc đời của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ lúc cất tiếng khóc chào đời ở nhà bảo sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết vào một ngày tháng 8 năm 1940 (Canh Thìn) cho đến tuổi về chiều.
 
MỘT CHÚT VỀ ĐỖ HỒNG NGỌC
Bạn sẽ được biết về thời thơ ấu hồn nhiên hạnh phúc của ông bên ba má trong rừng già Hàm Tân, ngày được vui chơi trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, và đêm thì tuyệt diệu với những lúc văn nghệ ngoài trời mà chú bé ĐHN cũng là một thành viên biết ca hát, diễn kịch. Năm 8 tuổi, chú “được gởi vào học ở một trường đạo, gần nhà thờ trong rừng sâu. Thỉnh thoảng máy bay tới thì thầy trò chạy xuống suối trốn”... Học đến lớp ba trong rừng, và cứ học đi học lại lớp ba mãi vì không có lớp lớn hơn. Đến khi cha mất (1952), mẹ ông đưa 4 con, lớn nhất 12 tuổi (là ĐHN) nhỏ nhất 6 tháng, về tạm ở nhà Ngoại, rồi về Phan Thiết, ở nhà cô Hai trong chùa Hải Nam để có dịp chữa bệnh cho các con và cũng để cho chúng ăn học. Trong thời kỳ rất cơ cực này, ĐHN “bệnh triền miên vì sốt rét, suy dinh dưỡng nặng (12 tuổi mà chỉ cân nặng 25 kg!), vài ngày lại đi đò qua nhà thương thí chích thuốc. Nhà báo Nguiễn Ngu Í là em họ của mẹ ông (chị em con cô cậu ruột), từ Saigon về chùa thăm, thấy cháu thất học, nên dẫn tới gởi cho học ở trường Bạch Vân của người bạn là cô Hồ Thị Tiểu Sính, con gái ông Hồ Tá Bang, một nhà cải cách duy tân Việt Nam thời cận đại. Và cũng chính nhờ ở với cô Hai, người thích đọc sách đã nhờ cháu Ngọc đi mướn về cho đọc đã tạo cho chú bé ĐHN vốn tích lũy văn chương khi chú lén đọc hết cuốn sách dọc đường đi, thậm chí còn tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở học trò, dù bị cấm “vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học”. 
Năm 1954, ông học lớp Đệ Thất Phan Bội Châu (Phan Thiết) thì qua năm 1955 Lagi trở thành thủ phủ của tỉnh Bình Tuy mới lập. Lúc đó, gia đình cô Hai và gia đình ông quyết định dời về Lagi là quê cũ của họ hàng phía nội, khiến ông phải nghỉ học thêm 3 năm nữa vì Lagi chưa có trường trung học. Nơi đây, mẹ ông có tiệm bán hàng xén trong chợ Lagi (Chợ Mới) và ông trở thành một phụ tá đắc lực chuyên đi Sài Gòn bổ hàng về cho mẹ bán để một hôm tình cờ bắt gặp cuốn Kim chỉ nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên vỉa hè. Lật xem vài trang thấy thích, chú bé ĐHN mua ngay và “cuốn sách nhỏ đó làm thay đổi đời chú”. Chú viết thư cho tác giả trình bày hoàn cảnh thực tại của mình phải bỏ học nhiều năm và xin ý kiến về việc có nên học nhảy lớp không? Được ông NHL khuyến khích, chú ‘thực hành theo hướng dẫn của sách, lập chương trình học ôn, ‘học nhảy lớp’ để đuổi kịp bạn bè.  Thấy con học được và cũng nhờ bà con khuyến khích, năm 1960, mẹ ông đã đồng ý cho con “du học” Saigon. Không phụ công và lòng mong đợi của mẹ, cuối năm Đệ Nhất (1962) tại trường Võ Trường Toản Saigon, họ Đỗ được lãnh phần thưởng Danh dự toàn trường và đậu Tú Tài II dễ dàng. Một lần nữa, cậu Tú Ngọc lại tìm đến ông NHL để hỏi về lựa chọn ngành nghề khi băn khoăn đứng trước ngã ba đường: Y khoa, Sư phạm hay Văn khoa. Học giả họ Nguyễn đã cho lời khuyên thật tuyệt vời: “Cháu nên học Y, sau này giúp gia đình, giúp bà con cụ thể hơn, và nếu học giỏi có thể dạy học và khi hành nghề y chừng mươi năm, có kinh nghiệm sống, trải nhiều cảnh đời, nếu có tâm hồn và năng khiếu thì sẽ viết lách được, vì không thiếu gì những thầy thuốc là nhà văn như Tchekhov, Somerset Maugham, Cronin, Lỗ Tấn… ĐHN làm đúng như vậy và ông đã nổi tiếng trên cả ba lãnh vực này.
 
TUỔI THANH NIÊN & NGHỀ Y
ĐHN đứng thứ tám trong số những người đậu khóa thi Dự bị Y khoa đầu tiên (Année Pré-Médecine APM) (do trước đây chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học Khoa học thì có thể vào học thẳng Y khoa) được tổ chức năm 1962 với cả ngàn người ghi danh và tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Sau một năm học để lấy chứng chỉ APM ở Đại học Khoa học, sinh viên mới chính thức bước vào Y khoa Đại học đường Saigon học thêm 6 năm nữa. Ra trường, họ trở thành bác sĩ, và sau khi trình luận án sẽ được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia. Bên cạnh đó, ĐHN cũng ghi danh học Việt Hán bên Đại học Văn khoa và sau đó học Xã hội học tại Đại học Vạn Hạnh.
Ấn tượng nhất khi vào năm thứ nhất Y khoa đối với ông là buổi Giáo sư Khoa trưởng, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, gặp gỡ các tân sinh viên đã nhắn nhủ: “Y khoa là một nghề cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn. Bác sĩ là một sinh viên Y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận.” Lời Thầy dạy đã theo ông suốt cuộc đời.
Năm 26 tuổi, bị một tai nạn do bể kiếng gây cườm mắt dẫn tới mắt trái nhìn kém đi, không sao mổ xẻ chính xác được, vả lại ông cũng không thích ngoại khoa, sản khoa mà chỉ thích nhi khoa (Nội nhi), nên ông tập trung học về nhi khoa ngay từ đó. Năm 1968-69 ĐHN là “nội trú ủy nhiệm” ở khoa 2B Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn. Năm 1969, ông ra trường Y và năm 1970 nhận được văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia sau khi trình luận án đề tài Bệnh Sốt rét Cấp tính ở Trẻ em dưới sự hướng dẫn của GS Phan Đình Tuân cũng là Giám đốc BV Nhi Đồng SG. Năm 1971, ông về làm ở Dưỡng Đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, trước nhà thờ Chợ Quán, của Bs Trần Văn Còn; đến năm 1973 lại trở về BV Nhi Đồng. Tại đây, ông đề nghị với Giám đốc - GS Phan Đình Tuân - tổ chức ngay một bộ phận Cấp cứu ở Phòng Khám Ngoại chẩn để cứu chữa kịp thời trẻ con bệnh nặng, khi ổn rồi mới đưa lên trại bệnh, tránh nguy cơ trẻ tử vong do bị lạc vì BV quá rộng, không được đưa đến đúng nơi khám kịp lúc. Đề nghị này được chấp thuận và ông được đề cử làm Trưởng Phòng. Theo thời gian, Phòng Cấp cứu đã chứng tỏ được hiệu quả rất tốt nên ngày càng được phát triển và về sau đã trở thành một Khoa quan trọng của bệnh viện Nhi. Ngoài ra ông có 10 năm (1972 – 1982) giảng dạy tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở Saigon mang những kiến thức y học lẫn cách ứng xử giao tiếp và cả bầu nhiệt huyết trao truyền cho những “Cô Mụ” tương lai nên được học trò quý mến.
ĐHN đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhờ GS David Morley ở Anh gởi tặng cuốn See how they grow, năm 1982 ông thực hiện một Biểu đồ tăng trưởng, giúp trẻ khỏe mạnh, do chính bà mẹ theo dõi và săn sóc con mình, gồm gần như toàn bộ những kiến thức Nuôi con khỏe, chỉ vào trong một phiếu nhỏ, thực hiện được toàn bộ GOBIF mà ông đã Việt hóa thành BUSĂC (Biểu đồ tăng trưởng, Uống bù nước khi tiêu chảy, Sữa mẹ, Ăn dặm, Chủng ngừa) rất tiện dụng. Do nghiên cứu của UNICEF, “nơi nào có nhiều bà mẹ học lớp 5 thì tử lệ trẻ con tử vong thấp hơn nhiều nơi bà mẹ ít học, hay mù chữ”, ông nghĩ “quan trọng nhất không phải là cấp cứu giỏi, điều trị hay trên từng ca bệnh nặng của trẻ con mà phải nâng cao kiến thức bà mẹ, bởi chính bà mẹ mới gần gũi con, chăm sóc con tốt nhất, tránh mê tín dị đoan và biết phòng bệnh cho con...” Từ đó, ông viết các cuốn Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng, Nuôi Con, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc, Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em v.v… với lời lẽ đơn giản, hướng dẫn cụ thể với nhiều hình vẽ…
Sau khi dự Hội thảo của Thụy Điển tại Hà Nội về Primary Child Care (Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu cho Trẻ em) năm 1983, với phương pháp tiếp cận dựa vào Cộng đồng (Community-based approach), ông về thực hiện một Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (SSSKBĐ) cho trẻ em ở Phường 13, Quận 6, Tp HCM, một phường ven đô, nhiều khó khăn thời đó, với sự hỗ trợ của BV Nhi Đồng. Sau 2 năm, đã có nhiều thay đổi, qua hệ thống Nhân viên sức khỏe cộng đồng thực hiện tốt chương trình Giáo dục sức khỏe, phối hợp với trường Phú Định, Y tế cơ sở… Rồi ông rời BV Nhi đồng về làm Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông - Giáo dục sức khỏe Sở Y tế (1985-2005), tham gia trực tiếp làm Trưởng ban Thư ký của Chương trình xây dựng mô hình SSSKBĐ toàn diện của Sở Y tế với BS Dương Quang Trung chủ trì tại xã cù lao Hiệp Phước huyện Nhà Bè từ năm 1986. Đây là một chương trình tổng hợp, với sự tham gia cộng đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, lấy phòng bệnh làm chính, gắn liền sức khỏe với phát triển kinh tế xã hội của địa phương, ít tốn kém lại có hiệu quả cao. Chương trình Hiệp Phước cũng góp phần nền móng xây dựng Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch nhằm đào tạo người thầy thuốc giỏi vừa Lâm sàng vừa Cộng đồng, gắn Sức khỏe và Phát triển. Ngoài ra, ông còn là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y dược TP. HCM (1981-1995), và là Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995-2008). Chức vụ cuối trước khi nghỉ hưu là Cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. HCM (2008-2016). 
 
CHÚT VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA
Vốn mê văn thơ và từ gene di truyền, ĐHN đã là một thi sĩ trước khi trở thành bác sĩ. Có thơ đăng báo từ khi còn học trung học và khi học trường Y, ông cũng là một thành viên của nguyệt san Tình Thương, tờ báo của sinh viên Y khoa Đại học đường Sài Gòn (1964 – 1966).
Khởi viết từ 1960, ông đã có bài đi trên các báo và tạp chí: Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Thanh Niên, Mực Tím, Áo Trắng, Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần, Sài Gòn Tiếp Thị, Kiến Thức Ngày Nay, Văn Hóa Phật Giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán...
Ngoài làm thơ, ông còn viết sách một loạt sách y học bằng lời văn chia sẻ, tâm tình, dễ thấm vào lòng người, lại mang chất thơ, chẳng hạn, “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…”, đã khiến học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì luôn làm cho ta ngạc nhiên một cách thú vị”. Có thể kể: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972), Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng (1974), Chăm Sóc Trẻ Từ Sơ Sinh Đến 3 Tuổi (1978), Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), ...
Bên cạnh đó, ĐHN còn có những cuốn tùy bút, tạp văn chia sẻ những tâm tình và trải nghiệm của mình như Gió Heo May Đã Về (1997), Già Ơi… Chào Bạn! (1999), Thư Gởi Người Bận Rộn I (2005) & II (2011), Chẳng Cũng Khoái Ru? (2008), Nhớ Đến Một Người (2011), Ghi Chép Lang Thang (2014), Già Sao Cho Sướng? (2015), Một Hôm Gặp Lại (2016)...
Ông kể: “Tôi nhớ mình chưa từng học làm thơ. Lúc 16, 17 tuổi, tôi đã bắt đầu viết những câu thơ “trời ơi”. “Thơ” nó cứ tự nhiên đến như thế. Như không thôi đi được. Tôi không nghĩ thơ phải “làm” ra mà tự nhiên thơ tới. Nhiều khi không kịp viết, không kịp nhớ. Hình như nó được hun đúc nuôi dưỡng tự bao giờ...” Bạn đọc sẽ được thưởng thức những chia sẻ rất thú vị về thơ văn ĐHN qua các bài viết của Lê Minh Quốc, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Thị Thanh Nga, Phạm Hiền Mây, Minh Lê, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Trường, Trịnh Y Thư, Thảo Nhiên, Phạm Bảo Kim, Trần Vấn Lệ, Phạm Chu Sa, Phan Chính, Ý Nhi đan xen những tùy bút tâm đắc của ông: Nghĩ trong ngày 30 Tết, Nhớ Tiếng thu giữa Boston, “Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm”, Kể thơ trên xe lửa, Những ngày hưu bận rộn...
 
NHỮNG GẦN GŨI THÂN THIẾT
Nơi đây ông đã ghi lại những thân tình riêng với Học giả Nguyễn Hiến Lê, Nhà báo Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, Giáo sư Trần Văn Khê, Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Bác sĩ Họa sĩ Dương Cẩm Chương, Thầy Thích Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, cùng những chuyến đi thăm thắng cảnh quê hương cùng bà con bạn bè quen biết ở Lagi, Phan Thiết, hay Phú Yên, cũng như ngoài quê hương như xứ sở hoa anh đào, hay kangaroo, hoặc đất Phật Nepal.
 
PHẬT HỌC
BS ĐHN tiết lộ, “Từ gần 30 năm nay, tôi “nghiền ngẫm” kinh sách và “thực hành” những điều Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu với Bát Nhã Tâm Kinh, tôi lần theo “đường dây” từ Tâm Kinh đến Kim Cang, đến Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn Kinh… dĩ nhiên không thể không học và thực hành con đường căn bản từ Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên để chắt trong đó ra những then chốt cốt lõi và luôn luôn đặt những nghi vấn, Tại sao? Có gì hay? Làm cách nào?... Ứng dụng thế nào vào chính bản thân mình trong thời hiện đại, cách xa Phật đến hai ngàn sáu trăm năm...
Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!”
Ông đã xuất bản một số sách sau đây rất được bạn đọc hoan nghênh vì ông viết bằng văn phong rất dễ hiểu, nhẹ nhàng và đẹp như thơ: 1/ Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh Bát Nhã, 2003); 2/ Gươm Báu Trao Tay (về kinh Kim Cang, 2008) và bản dịch Anh ngữ “Handing Down Precious Sword” của Diệu Hạnh Giao Trinh (2015); 3/ Thấp Thoáng Lời Kinh (2012); 4/ Thiền và Sức khỏe (2013); 5/ Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về kinh Pháp Hoa, 2014); 6/ Cõi Phật Đâu Xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016); 7/ Thoảng Hương Sen (2018); 8/ Bông Hồng Cho Mẹ và những cảm nhận học Phật (2022); 9/ Tôi Học Phật (2023).
 
          Trên đây chỉ là những chia sẻ rất tóm tắt của “Chuyện Hồi Đó” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xuất bản và Phanbook phát hành trong tháng 8/2025 vừa qua. Sách được bán ở các tiệm sách hoặc qua link:
https://tiki.vn/chuyen-hoi-do-do-hong-ngoc-phanbook-p278445353.html
TRẦN THỊ NGUYỆT MAI
11.9.2025
 

Saturday, September 27, 2025

T Ô I S Ố N G . N H Ư T H Ơ

nguyễnxuânthiệp
 
Poetry painting. Source: Internet
 
tôi sống như thơ
những hồi ức về em được làm bằng sợi nắng.
             căn phòng mặt trăng. màu của tranh chagall
xa. trong mắt em ngày nào. rực cháy những cánh hải âu. chiều tà
vàng cây. bản serenade. tiễn đưa
vâng. em là mùa thu của trí nhớ
tôi
với chiếc mũ xám. và áo khoác sờn vai. tiếng ho khan
đi trong chiều nhạt nắng
nhớ và quên
 
tàn thu
đông tới
không còn những chiếc lá trên cây
chỉ còn ký ức
của một thời vắng bóng
không còn thấy cổng trường. xưa
không nghe tiếng ve
những bông phượng đã ố. tàn
bức tường rêu. câm
tôi đi tìm tờ báo ướt. có in bài thơ. viết năm mười lăm tuổi
của tôi
không ai còn nhớ nữa
âm. tiếng đàn vĩ cầm của người nhạc sĩ. bệnh ung thư
âm. mùi trà. những cánh tường vi. màu vàng
âm. căn gác của sách báo. cây đàn gỗ chùng dây
và mùi tóc. mùi da. của những sớm mai
tôi muốn khóc
những con chim sẻ. mùa hè. đã chết
về đâu
về đâu
 
NXT
Mùa đông 2015

  

BÊN THỀM NHÀ PASTERNAK

Ý Nhi
Pasternak & Dr. Zhivago
 
Tiếng ồn ào đã lặng
những cơn bão tuyết
những đám cháy hoàng hôn
những rừng cây trơ trụi
những ngọn gió dữ dằn từ thảo nguyên
những hồi chuông báo động
 
Tiếng ồn ào đã lặng
lời ly biệt đắng cay
sự nhục mạ
nỗi buồn thương
năm tháng nặng nề
 
Tiếng ồn ào đã lặng
La Ra* không còn nữa
trong băng giá, cô đơn, tù ngục
nàng không trở lại
 
Màn đã buông
kiếm đã tra vào vỏ
rượu đã cạn ly
sẽ bắt đầu thiên bi kịch khác
YN
 
* Lara: là người tình của thi hào.

  

Wednesday, September 24, 2025

CHÂN MÂY

Vũ Hoàng Thư
 
Tranh Đinh Trường Chinh
 
Nắng vạm vỡ leo bám lưng trưa, Ci sei tu… Em ở đó… Mùa hè nào đã đi qua. Đi qua như một tích tắc đời. Connie Francis Al di là cao vút giữa ngày, gọi nắng xuống cho đầy chiều chưa tới. Khi môi mấp máy điệu hờ tháng 9. Khi màu hoàng hổ trườn trên chiếc lá thu còn sót chút lục xanh. Như môi người còn đọng thanh xuân. Như mọi điều đã đi qua rớt lại mối diên trì.
 
Tháng 9 nhìn mây xa, từng khoanh tròn lững trắng, lượn phớt trời xanh bao la qua bao ngàn lơ đểnh ký ức. Có những người con gái thả lửng mái tóc trong chiều, gió thổi suốt từng cơn, cuốn vài sợi nhỏ đậu vào môi má. Họ sẽ vuốt cho tóc chảy dài thành sóng gợn nối mây trôi. Từ đó có tóc mây và thương nhớ.
 
Nhớ ôm lấy không gian trước mặt để tưởng về một thời gian đã mất xa lâu. Nhớ có màu không nhỉ? Có thể lắm, khi hương mang sắc thanh thanh chuyển đổi qua màu tím ngát. Hương màu xúc tác cho thính giác quyện vào thị giác của Đoàn Phú Thứ trong Màu Thời Gian. Đó là vết quét quyết liệt thi sĩ gieo màu lên bố, vẽ lại Duyên trăm năm đứt đoạn / Tình một thuở còn hương.
 
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
(Màu thời gian, Đoàn Phú Tứ)
 
Không dưng giữa bài thơ hương thời gian ông Đoàn gọi tên Tần phi. Hẳn là có chủ ý, bởi chưng chuyện người xưa, mà lại trùng hợp với hoàn cảnh hôm nay, không thể không nhớ lại, để hâm nóng cõi lòng bây giờ nên Ngàn xưa không lạnh nữa. Giai thoại kể rằng ông yêu thầm kín một nàng thục nữ đoan trang con nhà danh giá chốn Hà thành. Chẳng may nàng bạc mệnh ra đi rất sớm lúc tuổi mới thanh xuân. Thi sĩ muốn gặp mặt lần cuối nhưng nàng không khứng chịu vì đã quá tiều tụy và chỉ muốn giữ mãi hình ảnh xinh đẹp ngày nào trong lòng nhà thơ. Vì vậy Đoàn Phú Thứ ẩn dụ tích xưa của Lý phu nhân, lúc gần mất, không cho vua Hán Võ Đế gặp, sợ trông thấy nét mặt đau yếu của mình vua sẽ hết yêu. Tần phi, có lẽ nhà thơ đặt tên vì lý do đó.(1)
Đoàn Phú Tứ gọi Tần phi vì nhớ chuyện xưa ra chuyện mình, Hàn Dũ thấy mây bay qua ngọn Tần Lĩnh liền khắc nhớ nhà, Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
 
Có liên hệ gì chăng giữa mây bay và nhớ nhung? Khi giấc mộng không trở thành hiện thực, khi bị vây hãm trong tù túng địa lý hay tinh thần, người ngước nhìn đám mây bay và gửi gấm tâm tư. Mây thành hình trạng của tự do, bay bổng không ràng buộc, như ý muốn, như phương tiện thay người hoàn thành ước nguyện.
 
Mây bay ngang có khi dẫn mưa, có khi chỉ làm nền gợi hứng cho thi sĩ mơ mòng. Mây mưa dấy động những ân tình dấu kín, những thời khắc đam mê lãng mạn riêng tư. Bởi thế vua Sở Tương Vương mới ngủ dưới chân núi Vu Sơn say vùi mộng mị cùng thần nữ. Mờ ảo và tan biến phôi pha như mây trời.
 
Mây có tự bao giờ? Theo truyền thuyết, Zeus, vua của muôn loài trong thần thoại Hy Lạp, đã tạo ra Nephele từ một đám mây. Mây vốn vô dạng, một làn khói lớn nổi trôi mượn gió tạo hình, dạng thể lấy hứng khởi từ mông lung và bất chợt. Thế nhưng thấy vậy mà chẳng phải vậy. Thay đổi là nguyên khởi của mọi sự. Vì vậy có lúc mây là áo trắng, một lát sau mây thành hình chó xanh, cho người ngâm nga thơ Đỗ Phủ,
 
“Trên trời mây nổi như áo trắng, phút chốc biến thành chó xanh”
(Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu tư hốt biến vi thương cẩu).
 
Bức tranh vân cẩu vì thế là tấm hình nhiếp ảnh, thu tóm hiện thời, một đương thì hoan hỉ, lật tấm ảnh sang trang liền thấy bi thương thay đổi chẳng vừa ý. Trở lại thần Zeus, là một người yêu vợ, Hera, rất đỗi nên ổng nắn mây, vẽ gió cho nường Nephele mang hình dáng của vợ mình. Mới nghe ta cứ tưởng vì yêu vợ thắm thiết nên ở đâu cũng có em, thật ra có chủ ý tất. Lò cừ nung nấu sự đời là vậy, Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương (2) chẳng phải là chuyện vô cớ không đâu. Số là có một ông vua tên Ixion ngày đêm thầm yêu trộm nhớ hoàng hậu Hera, hơn cả ông Bùi mơ tưởng Kim Cương. Zeus là chúa tể trần gian nên chuyện gì cũng biết, ổng liền tương kế tựu kế phong chức Nephele thành Thần Mây, hư ảo và cám dỗ để quyến rủ vua Ixion. Ixion sa bẫy, giao cấu với đám mây (Nephele) sinh ra Centauros, một loài nhân mã đầu người thân ngựa. Một kết cấu giữa đam mê và cái ác. Vua chúa ngày xưa đều mượn tính vô thường bất chợt của mây để toan tính mây mưa và tính toan những âm mưu tình ái.
 
Thế rồi tự muôn thuở, mây vẫn bay bổng và vô định. Dù nàng Nephele không mời gọi, Vu sơn thần nữ chẳng trông chờ. Chỉ có con người mời gọi giấc mơ và trông chờ yêu dấu. Có khi điều không trông đợi lại đến, mang biết bao thú vị. Như em bất ngờ đến một ngày trong mưa xưa, như em vẽ lên một trời mênh mông mộng mị khôn hàn. Như em để lại, hay không trở lại, cho người ngồi trên bến nhớ mênh mông…(3) Nhớ mênh mông, bởi cuộc chờ quá lớn? Hay hướng đợi về một cõi miền bất tận ta đã ôm tự thuở ban đầu? De mi quando…(4) Nói cho tôi biết... Đến bao giờ mới nắm được cái mênh mông? Mênh mông là những lúc chiều xuống thấy ráng đỏ, ráng vàng ở cuối chân trời, chạnh lòng nhớ nghĩ về phía bên ấy đất trời ra sao, người bên ấy đã như thế nào? Hay không còn ai? Người xưa bảo cuối chân mây là nhà, là chốn ở mẹ cha, như ông Địch Nhơn Kiệt đời Đường một hôm lên núi nhìn đám mây đơn lẻ bay qua, bảo cùng đám tùy tùng rằng “nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây đó” rồi bùi ngùi đợi đám mây bay khuất mới chịu về.
 
Mùa thu kháng chiến thế kỷ trước, biết bao chàng trai tráng bỏ dở ước vọng tương lai để lên đường theo tiếng gọi quê hương, giải phóng giang sơn khỏi ách ngoại bang. Mộng đời dang dở, chí nguyện chưa thành, những chiều dừng quân không khỏi chạnh lòng,
 
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?
(Mắt người Sơn Tây, Quang Dũng)
 
Đẹp và lãng mạn biết bao để rồi nhà thơ Quang Dũng bị dập vùi, kết án vì vẫn còn mang “tư tưởng tiểu tư sản”! Thật vô nghĩa khi cái ác và vô cảm luôn hiện diện trong mọi thời đại, khi người ta nhân danh đạo đức, đất nước và mọi danh xưng cao quý nhất để chôn vùi đạo đức, để đưa đất nước đến chỗ lầm than. Có phải mây là khói? Khói cuộn xuống xây thành. Có thành trì và tan biến như dã tràng xe cát. Vào thu khói biếc đã xây thành (Quang Dũng).
 
Tôi ngồi lại bên chiều khi ngày vừa xuống, đắm mình trong ráng chiều rực rỡ ngoài kia. Bây giờ, nắng vàng ánh áo hoàng gia đang rung từng thớ sắc cho quang phổ ngập xuống không gian, cùng màu đỏ tía chen đua như ngời sáng bình minh những ban mai không hẹn. Và xanh thẩm một trời cao của thu tiết, âm rền từng điệu nhớ. Trong thanh hợp của lặng yên, màu nắng đỏ rực diệm sơn hôn phối cùng xanh cerulean da ngời thiên giới cho tim tím khoác áo chân ngày tìm về nhân gian. Người thả hồn trong chiều ngân từng tiếng nước xa xôi bời bời thơ ấu. Bất giác Lệ Thu ngân dài một khúc sầu lệ chảy cho mùa thu kéo về, Chiều tím chiều nhớ thương ai...(5) Chiều tím ấy lịm dần theo hoàng hôn. Và lâng đêm tĩnh lặng. Đẹp như câu thơ Lý Thương Ẩn, Tịch dương vô hạn hảo.
 
Tôi nhắm mắt, mường tượng phía bên kia biển Thái Bình, mũi Chân Mây Đông mờ ẩn khi chiều xuống trong những chuyến hải hành một thời chinh chiến. Tất cả đã không còn, nhưng tôi biết phía ấy, cuối chân mây là nơi chốn tôi gọi nhà...
 
VŨ HOÀNG THƯ
Tháng 9, 2025
--------------------------------------------------------------
(1) Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân
(2) Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều
(3) Người Về Bỗng Nhớ, nhạc Trịnh Công Sơn
(4) Quando, quando, quando, nhạc Tony Renis
(5) Chiều Tím, thơ Đinh Hùng, nhạc Đan Thọ
  

Sunday, September 21, 2025

VIỆT PHẠM, NGƯỜI ‘HÁT XẨM’ VĂN CHƯƠNG

Đinh Yên Thảo

 
Trên một mẩu viết ngắn vài năm trước, anh Phạm Trọng Việt mà bạn bè Facebook vẫn quen thuộc là Việt Phạm đã ví chuyện dịch thơ của anh rằng, "Mượn lời cố GS Nguyễn Ngọc Huy: Tôi dịch thơ cũng như những người hát xẩm ngày xưa đi hát lang thang ở các quán ăn bên vỉa hè Saigon, có bữa đông khách, gặp khi trời mưa thì vắng khách, không ai nghe, nhưng người hát xẩm thì cứ hát". Bên dưới là một bản dịch thơ của anh.
 
THE DEATH OF A SOLDIER
 
Life contracts and death is expected,
As in a season of autumn.
The soldier falls.
 
He does not become a three-days’ personage,
Imposing his separation,
Calling for pomp.
 
Death is absolute and without memorial,
As in a season of autumn,
When the wind stops.
 
When the wind stops and, over the heavens,
The clouds go, nevertheless,
In their direction.
 
***
 
CÁI CHT CA NGƯỜI LÍNH
 
Người lính nằm xuống
mùa thu
lá vàng rơi
đời mong manh
cái chết chẳng tình cờ
 
Ba ngày sau không tái sinh
Người lính ra đi
đừng mong đợi một dương danh
 
Không có nghi lễ gì
chết là hết
như con gió vừa ngưng
giữa mùa thu
 
Gió đã ngưng
mây vẫn bay theo chiều gió
về phía Thiên Đường
 
Wallace Stevens / Việt Phạm dịch
 
Vậy, kể từ ngày vào Facebook sau một lần họp mặt cùng anh em trong nhóm, đâu khoảng 8, 9 năm trước, anh bắt đầu dịch thơ, dịch dăm câu bài hát sang Anh ngữ, bàn dăm câu chuyện văn chương, lịch sử ngắn gọn rồi liên tục đưa lên Facebook như vậy. Một thú vui khác từ sau ngày anh "về Hồng Lĩnh", cách anh nói về việc nghỉ hưu của mình sau trên dưới 40 năm làm việc cho chính phủ Canada. Và đăng ảnh cháu nội ngoại như những ông bà yêu thương con cháu.
 
Tôi vẫn quen với cách viết ngắn gọn, nhẹ nhàng và dí dỏm nhưng rất trí tuệ, am hiểu lịch sử, văn hóa, chính trị, thi ca Việt Nam lẫn phương Tây từ khi biết anh hai mấy, gần ba mươi năm trước. Chúng tôi gọi anh là "thầy bàn" hay "thầy đồ" trong những cuộc bàn luận trong nhóm. Nho nhã, ôn hòa, anh được cả nhóm chúng tôi quý mến. Ắt anh là một trong những thành viên được cả nhóm quý mến nhất sau Phạm Chi Lan, người chủ biên tờ tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng (VHVHNT-LM), tờ báo Việt ngữ điện tử đầu tiên của người Việt, hoặc giả có tờ báo điện tử hay trang mạng online nào ra đời trước năm 1995-1996 mà tôi không biết.
 
Cũng như tôi, anh gia nhập nhóm trễ và được Phạm Chi Lan mời vào nhóm chủ biên, xem như một thành viên chủ chốt của nhóm VHNT-LM bên cạnh vài anh em đã tham gia từ những ngày đầu tiên như nhà văn Phùng Nguyễn, Nguyễn Phước Nguyên, Nguyễn Tiến Dũng, Sung Nguyễn, Đinh Trường Chinh, nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh ... sau một đôi năm hoạt động. Anh ký tên dưới những bài thơ, bài dịch và sáng tác là Phạm Thiên Mạc, tên con trai anh.
 
Đến Canada ở tuổi đôi mươi, anh đã giỏi tiếng Anh so với nhiều người tị nạn bởi năm 75, anh đang là một sinh viên Viện Đại học Đà lạt và đã đạt đến chứng nhận thành thạo Anh ngữ "Proficiency" của Hội Việt Mỹ trước đó đôi ba năm. Thêm vài chục năm sống ở nước ngoài và làm công việc chuyên viên cho chính phủ, dù uyên thâm tiếng Việt nhưng liên lạc riêng tư, anh thường viết bằng tiếng Anh, có lẽ vì sự tiện lợi bàn phím hay trên điện thoại. Tôi nhắc chuyện này bởi anh được nhiều bạn bè Facebook, những nhà thơ, người yêu văn chương biết đến anh như một người dịch thơ tài tử lại rất tài hoa. Anh-Việt lẫn Việt-Anh. Kể cả từ vài bạn trong nhóm chúng tôi, những người đến Mỹ ở tuổi thiếu niên và cũng am hiểu văn chương phương Tây lẫn việc dịch thuật như Phạm Chi Lan, Nguyễn Phước Nguyên, Ian Bùi...
 
Riêng tư hơn thì cụ Ngoại anh là một nhà nho Bắc Hà, đỗ kỳ thi Hương cuối cùng tại Hà Nội và làm quan Tri Huyện Ninh Bình. Còn nhạc phụ của anh là giáo sư Việt văn Nguyễn Cao Đàn, thầy dạy của nhà văn Duyên Anh lẫn nhà văn Lương Thư Trung, có lần anh trích đăng lên Facebook khi nhà văn Lương Thư Trung nhắc đến thầy mình trong cuốn sách "Bến bờ còn lại" của anh. Một gia đình truyền thống với chữ nghĩa.
 
Anh là người đọc rất nhiều lại có trí nhớ siêu phàm và chính xác, trích dẫn thi ca, lịch sử từ cái thời chưa có Google nên bàn luận, trò chuyện với anh luôn thú vị, đầy tính học thuật và chúng tôi luôn học hỏi được đôi điều gì đó từ một người anh chân thành, giản dị và khiêm cung. Có lẽ vì vậy mà anh dễ thân thiết với nhiều người và với riêng tôi, một phần tôi nghĩ có cùng tính cách báo chí và yêu thích lịch sử hơn là chỉ những câu chuyện văn chương. Có thời gian tôi sang làm việc tại Montreal, anh lên thăm tôi đôi lần, cặp theo một chai Martell và anh em uống rượu, trò chuyện đến khuya không dứt chuyện. Và tôi cũng xuống Ottawa thăm anh chị, được anh dắt giới thiệu về thủ phủ Canada với nhiều câu chuyện lịch sử lẫn giai thoại thú vị. Thân tình nên thỉnh thoảng tôi vào đùa dăm câu dưới những mẩu viết của anh trên Facebook là vậy. Anh cộng tác trên Trẻ Magazine với dăm bài viết dưới bút hiệu Phạm Thiên Mạc.
 
Anh gia nhập Facebook để giữ liên lạc cùng bạn bè sau chuyến họp mặt nhỏ và không đầy đủ của nhóm Ô Thước, nhóm văn nghệ của những cựu thành viên VHNT-LM tại Dallas khoảng đâu năm 2016, sau khi nhà văn Thu Thuyền và tôi mời gọi các anh em, bạn bè cũ về họp mặt. Rốt lại chỉ có anh, anh Đỗ Danh Đôn, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo, Trịnh Thanh Thủy bay sang, cùng những thành viên tại Dallas như Ian Bùi, Diễm Tú, Thận Nhiên, Tôn Thất Phương... Chỉ tiếc là anh cùng các bạn không gặp được nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp đang lúc đi xa.
 
Vậy mà cuộc họp mặt lại rất vui, đầy những tràng cười và để lại nhiều kỷ niệm cho mỗi người và tất cả chúng tôi. Kể cả một số thân hữu địa phương cùng dự cũng không giấu được sự cảm động trước mối giao tình thân thiết và tự nhiên của chúng tôi, vì biết chúng tôi dù có gặp nhau đôi ba lần nhưng thân nhau chỉ là qua mạng. Đêm đó, anh đọc bài thơ "Nhà tôi" của nhà thơ Nguyên Thao, sau này được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc "Chuyện giàn thiên lý". Bài thơ vài chục câu mà anh chỉ đọc từ trí nhớ, không mang giấy hay từ điện thoại.
 
Trưa cuối tuần, nhận được tin báo anh ra đi trong nhóm Ô Thước, tôi bàng hoàng, thẫn thờ. Tôi vẫn thấy anh đăng dăm câu dịch, vài mẩu viết ngắn nho nhỏ đôi ngày trước. Tôi đọc bằng mắt nên không dự cảm những ngầm ẩn đó đây của anh trong vài tháng qua. Buổi tối, tôi lại thêm sửng sốt nhận được email từ anh. Té ra sự ra đi đã được tiên liệu, anh bình thản viết sẳn cho tôi bức thư chia tay ngắn, nhờ tôi báo lại anh em, bạn bè, nhờ chị vợ anh gởi cho tôi sau hậu sự.
 
Đêm khuya, tôi ngậm ngùi tìm đọc lại bài thơ anh dịch để an ủi chúng tôi khi nhạc phụ tôi, một người lính-một cựu sĩ quan quân lực VNCH qua đời năm 2012. Đó là nguyên tác lẫn bản dịch của anh đăng lại lên Facebook đâu đôi ba năm trước mà tôi đã dẫn trên đầu, chỉ không ký tên Phạm Thiên Mạc như thuở xưa. Bài thơ không riêng cho người lính mà như để tiễn biệt những người bạn và cho chính anh. Cho những điều chẳng tránh khỏi.
 
"Không có nghi lễ gì
chết là hết
như con gió vừa ngưng
giữa mùa Thu
 
Gió đã ngưng
mây vẫn bay theo chiều gió
về phía Thiên Đường"
(bản dịch Phạm Thiên Mạc)
 
Tháng Chín này, Phạm Chi Lan ra đi đã tròn 16 năm. Nay đến người anh Phạm Trọng Việt hay một Phạm Thiên Mạc tài hoa của chúng tôi. Cần gì những nghi lễ hay nghi thức như anh viết, nhưng tôi không thể không chia sẻ đôi điều về anh để bạn bè, những người bạn Facebook của anh biết thêm về một tâm hồn mẫn cảm với cái đẹp, một người xem mình như kẻ "hát xẩm" văn chương rồi trân trọng chia sẻ nó đến mỗi chúng ta, những người biết anh.
 
Tôi luôn giữ ý định sẽ quay lại Canada thăm anh nhưng mấy ai biết trước sự đặt để của đời sống. "Thời gian có hứa mấy khi, sẽ đem đến trả đúng kỳ". Thôi, xem như một áng mây trắng ngang trời, cứ bay về phía thiên đường hay bất cứ nơi nào thật an nhiên nghe anh Việt.
 
Dallas, 09/2025
ĐINH YÊN THẢO
 
 

Friday, September 19, 2025

MẸ

Huỳnh Liễu Ngạn
 
Bóng mẹ
 
tàn hơi bước về
ngút ngút mây đưa
ta nhớ mẹ già
thắp sáng tim ta
 
Huế 1973
HLN 

Wednesday, September 17, 2025

CHỚM THU

Hoàng Xuân Sơn
 
Vàng quỳ khô
 
Thu [mới chớm]
Vàng quỳ đã nâu khô
Một mai nước cạn ao hồ
Sen bùn đóa hạ buồn trơ thu tàn
HXS 

Tuesday, September 16, 2025

ĐỌC ‘THÁNG NĂM LÀ MỘNG ĐANG ĐI’ CỦA NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH. ĐI GIỮA THỰC VÀ MƠ

San Phi
 
NTKM. Tác phẩm

1.  Khúc Lc Bát T Ơn
   Chữ dậy men hương ngọt còn đọng lại trên vân tay, tôi lạc bước vào thế giới thi ca của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Ở đó, mỗi cảm xúc tinh khôi là một dòng chảy ký ức, kiến tạo nên một vũ trụ nội tâm, nơi thời gian dường như ngưng đọng. Nơi trái tim nghe từng thớ sóng mơ, nơi vầng trăng soi rọi. Chị là một thi sĩ của tình yêu, của nỗi nhớ, và của những điều không thể gọi tên.
   Câu thơ mọc cánh rung động vô hình. Thơ của chị không được viết bằng mực, bằng giấy, mà bằng gió, bằng mây, bằng tia nắng lung linh trên tán lá. Hay những hạt sương đêm còn đọng lại trên cánh hoa, là những giấc mơ lãng đãng, những mối tình như dòng suối chảy lúc êm đềm, khi trào cuộn. 
    Chị thả hồn mình vào từng chữ, những câu chữ nhún nhảy biết nói bài thơ bỗng chốc nở hoa, để niềm vui mong manh trở nên thuần khiết. Chị yêu cái đẹp, dù đó là cái đẹp của hạnh phúc hay cái đẹp của sự tan vỡ.
 
    Lời ngỏ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là một sự tri ân sâu sắc, thể thơ lục bát đã gắn bó từ thuở ấu thơ, thấm đẫm trong tiềm thức và trở thành một phản xạ tự nhiên của cảm xúc. Lục bát được ví như “miếng cơm mớm” nuôi dưỡng tâm hồn, đồng hành cùng chị qua tháng năm.
    Trong lời ngỏ, tác giả cũng khẳng định sức quyến rũ riêng biệt của lục bát, dù mang vẻ đẹp chân phương như ca dao hay thâm trầm, sang trọng trong thi ca. Cuối cùng, tập thơ được gom lại như một món quà từ tấc lòng, tri ân đối với thể thơ truyền thống này.
    Trăng và nắng vẫn đi, “tôi” luyện giọt đời hư không thành lời chân thành. Với tinh thần tràn đầy lòng biết ơn, chị đã khiêm nhường dâng hiến mình cho thơ ca. Đây là một phần đặc biệt, của chùm thơ “Lục Bát Tạ Ơn”, gây ấn tượng mạnh mẽ với giọng điệu nữ tính và nhẹ nhàng. Chị đã dùng những hình ảnh gần gũi đến lạ, từ những điều nhỏ bé, để dệt nên một không gian thơ đầy chất mơ, khiến người đọc như nghe thấy tiếng lòng mình đang gọi.
    Những hình ảnh không cầu kỳ, rất chân thực, như một lời tâm tình nhỏ nhẹ. Mỗi bài thơ là lời cảm tạ chân thành với những điều tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại ý nghĩa vô cùng.
 
*Thiên nhiên: “giấy trắng mây,” “nắng trong,” “hạt sương,” “dòng sông trôi,” “mùa thu trổ sắc vàng.”
*Con người: “nụ cười,” “tiếng cười thân quen,” “vẫy tay,” “bước đi.”
*Quê hương: “thân cò lội,” “tàu lá chuối,” “gói xôi mẹ ủ,” “ruộng gầy,” “câu hò.”
 
    Chị biết ơn cuộc đời, thơ ca, văn học, lịch sử và tri kỷ: “Ơn ngày bao dung,” “Ơn nụ cười,” “Ơn trần gian,” “Ơn thơ,” “Ơn câu lục bát,” “Cảm xúc hóa sinh câu thơ,” “Ơn quê hương,” “Giờ học sử,” “Ơn thân cò lội” hay những bài thơ dành tặng bạn bè, những nhà văn, nhà thơ như Lê Phương Châu, Duyên, Du Tử Lê…
 
    Trong giấc tôi mơ giấc trôi… Hái trăng nhặt bóng nơi nghìn bước chân. Trong thơ chị hình ảnh vừa thực, vừa mơ: “giấc mây,” “mộng chân trời,” “xa gần mơ thực một ta.” Đó là một trạng thái tâm hồn tĩnh tại, lặng thinh giữa đêm sâu, nhưng lại dào dạt cảm xúc với chữ. Những hạt thơ chứa đựng bao mơ hồ, lửng lơ, nhưng lại vô cùng cuốn hút, một tâm hồn thanh tịnh. Điều này gợi nhớ đến lời Phật dạy về “Hiện Pháp Lạc Trú” mà chị đã đề cập: “Mộng đời bặt tiếng bi ai / Ta hay là giọng ngân dài? Hư vô…”
    Uyển chuyển, mềm mại giọng thơ, trang sách nở nụ biếc tơ chuông thầm thì. Tác phẩm lột trần trụi về niêm luật, đôi khi chỉ với 2-3 chữ mỗi câu, ngắt dòng đầy dụng ý như một tiếng thở dài, một khoảng lặng của cảm xúc, ví dụ: “Em đi / Em bước / Vô vàn / Thanh Lương.” Cách viết này tạo nên nhịp điệu riêng, thể hiện sự phóng khoáng trong tâm hồn người làm thơ. Từng con chữ thức giấc như lời thủ thỉ, tâm tình của một người nữ dịu dàng, tinh tế đang chiêm nghiệm cuộc đời, ngắm nhìn bầu trời tự do, cuốn đi những lớp áo lá và tự tìm cho mình câu trả lời.
Hôm qua hạt lệ thâu canh
Sang nay đọng lại trên cành, hạt sương
Hôm qua, lắm mộng đêm trường
Hôm nay ngơ ngác bên đường, bình minh
Hóa ra còn mặt đất xinh…
Hôm qua ngó lên trời xanh
Sợ cái mênh mông làm thành cỏ mộ
Hôm nay nhìn lên lần nữa
Mầu xanh ơi lộng gió lòng tôi
Ăn thua là ở nụ cười…
(Trích “Ơn Nụ Cười”)
    Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh một đêm dài thâu canh đầy nước mắt. Hạt nước cựa mình không tan biến mà đọng lại, hóa thành hạt sương trên cành lá. Nỗi buồn, sự đau khổ của đêm đi qua ánh chiều “lắng lọc” và trở nên tinh khiết, dịu dàng hơn khi ngày mới đến. “Hôm qua” là một đêm dài mệt mỏi với “lắm mộng đêm trường,” nhưng “hôm nay” thì mọi thứ đều nhẹ tênh, bình yên. Ta thấy một sự ngơ ngác đầy bất ngờ trước vẻ đẹp của buổi bình minh, khi mọi lo âu đã tan biến, nhường chỗ cho cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc khi nhận ra “còn mặt đất xinh” biết bao. “Hôm qua” là nỗi sợ hãi về sự mênh mông của trời xanh, sợ sẽ trở thành “cỏ mộ,” một biểu tượng của sự kết thúc. Nhưng “hôm nay,” khi nhìn lại, bầu trời xanh trở nên lộng gió. Và rồi, tất cả những uyển ngữ diệu kỳ dẫn đến một câu kết thật ngắn gọn mà sâu sắc: “Ăn thua là ở nụ cười.” […]
Mộng mị đôi lần cau mặt
Ngờ tang thương hóa bảy sắc cầu vồng
Nhạn chao một tiếng ngàn không
Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương
Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường
Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa
Dặm ngàn đổ lệ tài hoa
Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu…
(Trích “Dặm Thơ”)
 
    Câu thơ “mộng mị đôi lần cau mặt” và sau đó bất ngờ chuyển sang “tang thương hóa bảy sắc cầu vồng” phải chăng là sự chấp nhận, biến nỗi đau thành cái đẹp và hy vọng. Nỗi buồn của kẻ tha hương được lồng vào hình ảnh “nhạn chao một tiếng ngàn không” và “Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương,” gợi lên nỗi buồn sâu lắng của người con xa quê, hoài niệm về những điều đã cũ. Câu thơ “Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường / Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa” thể hiện sự thức tỉnh đột ngột, nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi, không thể quay lại được nữa. “Dặm ngàn đổ lệ tài hoa” và “Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu” là sự mất mát, nuối tiếc cho những điều đã qua, đã mãi mãi đi vào dĩ vãng.
 
Một ngàn sợi nắng vân vi
Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ
Em gọi anh là Giấc Mơ
Em gọi anh là bài thơ cuối cùng
Hỏi xem trời đất mung lung
Có ai ghi chữ thủy chung như vầy
Giấc Mơ là để vòng tay
Ta ôm cho trọn phút giây mộng gần
(Trích “Ơn Tóc Tơ”)
 
    Ngàn sợi nắng làm cho không gian trở nên lung linh. Những điều nhỏ bé và lớn lao đều xoay quanh một chữ “yêu.” “Em gọi anh là ‘Giấc Mơ,’ chỉ vì anh là tất cả mà em có, bởi vì anh là sự kết thúc ngọt ngào cho mọi kiếm tìm.” Anh chính là bến đỗ, là điểm đến cuối cùng. “Một ngàn sợi nắng vân vi / Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ” là một hình ảnh tài tình. Nắng, mây, và tóc tơ – những thứ mong manh nhất lại được buộc chặt bằng một chữ yêu, cho thấy tình yêu này không cần những lời thề non hẹn biển, mà đơn giản là sự gắn kết từ những điều dịu dàng nhất, bền chặt một cách tự nhiên như ngày mai mặt trời sẽ mọc. Khi em hỏi “Trời đất mung lung / Có ai ghi chữ thủy chung như vầy,” đó là một lời khẳng định. Giấc mơ ấy là có thật, được ôm anh, được sống trọn vẹn trong tình yêu. Đó là lời thủ thỉ của một trái tim đang yêu, trân trọng trong từng khoảnh khắc.
 
2.  V Đẹp Biến Tu Ca Thơ Lc Bát
    Những dòng thơ lục bát biến tấu của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trong phần hai “Đồng Dao Ta” mang một vẻ đẹp rất riêng, rất đỗi tinh tế. Chị như đang thêu dệt những mảnh lụa cảm xúc, mềm mại lại lấp lánh suy tư. Tôi cảm nhận được ngay sự uyển chuyển trong cách chị chơi đùa với vần, với nhịp. Vẫn là thể thơ lục bát truyền thống, nhưng qua bàn tay biến hóa, trở nên tự do hơn rất nhiều. Chị gọi đó là biến tấu, nhưng với tôi lại là một mê trận thực sự. Người đọc dễ dàng lạc lối bởi cách chị giăng bày những thủ pháp ẩn dụ siêu thực, kết hợp với thủ thuật thả chữ, nhả ý đầy tinh tế. Những bạn đọc mới lâu nay vẫn lân la với vần điệu khuôn sáo cũ. Điểm son là ý tưởng táo bạo mang đến cho người đọc cảm thức mới. Những câu thơ không đi theo lối mòn bởi quy tắc “sáu-tám” và kéo dài, đứt đoạn một cách ngẫu hứng mà vô cùng hợp lý, như những âm vực bất ngờ trong một bản nhạc. Sự biến tấu này là để tạo ra một không gian rộng mở cho cảm xúc, để mỗi từ, mỗi chữ đều có thể bung tỏa hết vẻ đẹp vốn có.
Trong “Nhịp xuân”, cái “nhịp đồng hoa em mẩy hạt” hay “hát thệ chiều em lẫy thắm tà buông” đều gợn lên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống. Hay trong “Quê cũ”, chỉ với những hình ảnh giản dị như “sân gạch,” “bóng rơi,” chị đã dậy khơi nỗi nhớ quê hương da diết.
 
“Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” có nhịp 2/4 (Đúng nơi / bóng ấy. / Tôi ngồi).
“Mỗi sáng trông lên biển trời. Quê cũ” có nhịp 3/3
 
    Câu sáu chữ và câu tám chữ, với vần điệu và thanh điệu không đồng thuận tuân theo quy tắc nhất định. Dấu chấm biến đổi linh hoạt tạo nên sự hòa hợp giữa cảm xúc bên trong và không gian bên ngoài, thể hiện sự tĩnh lặng, vừa mở ra tâm trạng hoài niệm, đau đáu khi hướng tầm mắt về phía biển trời quê hương. Câu thơ “Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” là một điểm nhấn quan trọng kết nối giữa thiên nhiên và con người. “Bóng ấy” chính là cái bóng của chủ thể, của “tôi,” gợi lên sự hiện hữu tĩnh lặng và khiêm nhường. Việc “tôi ngồi” đúng nơi cái bóng rơi xuống.
 
     Điều khiến thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trở nên đặc biệt hơn cả chính là những chiêm nghiệm triết học sâu sắc được lồng ghép một cách nhẹ nhàng. Chị thường đặt ra những câu hỏi về sự tồn tại, về cái tôi, tình yêu và duyên số.
“Chiều ngậm một nửa mặt trời / Nửa kia còn lại cho đời bình minh”
    Hình ảnh mặt trời chia đôi độc đáo và mang tính biểu đạt cao. Một nửa thuộc về chiều tà, gắn với sự tàn phai; nửa còn lại tiếp tục hành trình mang đến bình minh cho cuộc đời. Điều này thể hiện triết lý về sự tồn tại song song của hai thái cực đối lập trong cuộc sống: Niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và tuyệt vọng, ánh sáng và bóng tối. Cuộc sống luôn là sự đấu tranh giữa hai mặt này. Những câu thơ như “Trách chi cười nửa nụ cười” hay “Thốt nhiên còn một nửa tôi”, gợi lên sự mất mát. Cái triết lý ấy không hề nặng nề, khô khan mà thấm đẫm trong từng câu chữ, như những lời thủ thỉ tâm tình với chính mình và bạn đọc.
 
    Đặc biệt, trong “Đồng Dao Ta”, những câu thơ như “Cho ta giờ lại có mình” hay “Năm mười… ta trốn đi đâu” thể hiện một sự tự vấn nội tâm mạnh mẽ. Chị tìm kiếm sự hòa hợp, sự đủ đầy trong một thế giới đầy biến động. Và có lẽ, câu trả lời không phải là tìm kiếm ở đâu xa, mà là trở về với chính mình, chấp nhận “một” mình với ta để tìm thấy bình yên.
 
Hóa ra mình đã lạc nhau
Bao năm tìm bóng mà đâu với hình
Cho ta giờ lại có mình…
Ngồi xuống với nhau tình tự
Cõi buồn xưa nhập cõi chữ âm thầm
Tạ nhau, hai cõi tình thâm.
(Trích “Đồng Dao Ta”)
 
    Một tiếng thở dài đầy nuối tiếc, nhưng cũng là sự chấp nhận cái “lạc” – lạc về khoảng cách không gian và lạc lối của tâm hồn. Câu “lại có mình” ở đây thật quý giá, là sự trở về với chính mình, với những cảm xúc và ký ức sau bao năm xa cách. Ngồi xuống “tình tự” với nhau, đối diện với nỗi buồn, là “cõi buồn xưa” đã nhập vào “cõi chữ âm thầm” để trở thành chất liệu tạo nên những vần thơ. Cuối cùng, “Tạ nhau, hai cõi tình thâm” nghe nhẹ nhàng mà thanh thoát, êm dịu mà sâu sắc. Thơ là như phải thế, mang trong mình vẻ đẹp của sự uyển chuyển, của cảm xúc thuần khiết, để rồi lắng đọng sâu sắc.
    Với những biến tấu lục bát độc đáo, nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã mở ra một hướng đi mới cho thể thơ này, thể hiện sự sáng tạo không giới hạn. Dù cách tân về vần và nhịp, thơ của chị vẫn giữ được âm hưởng thiết tha, sâu lắng vốn có của thể thơ truyền thống, đồng thời hòa hợp một cách tự nhiên với tư duy thơ hiện đại.
 
3.  Cuộc Đối Thoại Với Thời Gian
    “Tháng Năm Là Mộng Đang Đi” không chỉ là một tựa đề mà còn là lời tự vấn xuyên suốt Phần Ba của tập thơ, nơi tác giả bóc tách từng lớp thời gian để tìm về một khái niệm trừu tượng: Liệu thời gian có phải là một thực thể sống động, có hình hài, có cảm xúc? Sự bám víu và trăn trở không ngừng ấy đã tạo nên một dòng chảy triết lý, kết nối những câu thơ đầy ám ảnh. Cảm xúc ấy rõ ràng nhất trong bài thơ:
Đâu ngờ thuở ấy mong manh
Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…
Nụ đơm từ buổi xuân thơ
Vàng hoa chín muộn. Bây giờ. Mới hay.
(Trích “Mùa Đi”)
     Câu “giật mình” khi “Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…” tạo ra một cú chạm cảm xúc mạnh mẽ. Đó là sự ngạc nhiên, sự thức tỉnh khi nhận ra những điều xưa cũ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Hình ảnh “Nụ đơm từ buổi xuân thơ / Vàng hoa chín muộn” là một ẩn dụ tuyệt vời. Những nụ hoa từ thuở ngây thơ, non dại giờ đây đã “chín muộn,” trở thành những đóa hoa vàng rực rỡ. Điều này gợi lên cảm giác về sự trưởng thành, về những giá trị của tuổi trẻ mà phải đến khi trải qua dặm dài cuộc sống, ta mới thực sự cảm nhận và thấu hiểu. Và rồi, cụm từ “Bây giờ. Mới hay” như một dấu chấm lửng đầy sức nặng. Nó khẳng định một sự thật, một bài học mà con người chỉ có thể hiểu được khi đã đi qua một chặng đường dài. Tôi chợt nhớ đến câu của triết gia La Mã Seneca. “Non exiguum temporis habemus, sed multum perdimus.”Câu này dịch ra tiếng Việt có nghĩa là: “Chúng ta không có ít thời gian, mà là chúng ta đã lãng phí rất nhiều.” Seneca nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Ông cho rằng con người thường lãng phí thời gian và chỉ nhận ra giá trị của nó khi đã muộn. Seneca khuyên chúng ta nên trân trọng hiện tại, vì quá khứ đã qua và tương lai thì chưa tới.
     Trong “Mùa Đi,” chị dường như đang trò chuyện cùng những mùa đã qua, từ “xuân thơ” đến “thu chín muộn,” từ “nắng hạ xưa” đến “mưa gió cũng dứt bài cuồng ca.” Sự luân chuyển của bốn mùa là sự thay đổi của thiên nhiên, cũng như sự dịch chuyển của lòng người, những kỷ niệm, của “nỗi đau sao vẫn như vừa chia xa.” Nỗi nhớ được cụ thể hóa thành “chiếc nôi nhà” trong “ba mươi còn giấu câu mừng,” và sự “lâng lâng” của thời gian thể hiện rõ trong “già thêm một tuổi đất tròn.”
 
Bóng vẫn thế
Đứng một mình
Làm như thể không có hình tôi xưa
Lạc vào một đêm mộng vừa
Gặp tôi
Bóng ngỡ
Tình cờ
Mộng du…
(Trích “Vẽ bóng”)
 
    Dưới ngòi bút của chị, “vẽ bóng” đưa ta vào một không gian đầy mơ hồ và suy tư, nơi ranh giới giữa thực và ảo trở nên mờ nhòe. “Bóng vẫn thế, đứng một mình” một nỗi cô đơn, một sự tồn tại tách biệt khỏi chính “tôi xưa” của nó. Cái bóng ở đây có thể là hình ảnh quá khứ, của những ký ức, hoặc thậm chí là một phần con người mà ta đã đánh mất.
    Sự trớ trêu của bài thơ nằm ở chỗ, cái bóng tưởng chừng như luôn gắn liền với chúng ta, nhưng lại không nhận ra “tôi” của hiện tại. Khi “lạc vào một đêm mộng vừa,” cái tôi hiện tại gặp lại cái bóng của chính mình trong quá khứ, nhưng cái bóng lại ngỡ là “tình cờ mộng du.” Điều này dường như đặt ra một câu hỏi day dứt: liệu chúng ta có thực sự hiểu và chấp nhận tất cả những phiên bản của chính mình qua từng giai đoạn của cuộc đời? Đó là một sự chiêm nghiệm lặng lẽ về bản ngã và sự dịch chuyển của thời gian.
    Sự phân thân giữa “tôi” và “bóng” tạo nên một không gian triết lý, nơi con người tự vấn về sự tồn tại. Những hình ảnh như “Bóng không đổ xuống, mà buông / Như chiếc lá đã kiệt hồn nhựa xanh...” hay “Ánh sáng làm mặt lạ tôi / Dường như cả cái chỗ ngồi lặng thinh” cho thấy một nỗi cô đơn sâu thẳm, một sự trốn chạy hay tìm kiếm bản thể đã bị lãng quên.
    Sự đối lập và hòa quyện giữa nội tâm và ngoại cảnh. Điều làm nên sức hấp dẫn của tập thơ chính là sự đan xen tài tình giữa thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh. Những hiện tượng của tự nhiên như nắng, mưa, gió, biển... là tấm gương phản chiếu tâm trạng. “Khát nắng. Nghe mưa dầm,” “Lúc mưa gió cũng dứt bài cuồng ca,” “Biển khuya khoắt thở, cây phiền muộn reo”. Lắng nghe hạt thơ khe khẽ trở mình tách vỏ, đánh thức những giấc mơ xanh, rồi dang đôi cánh bay. Thế giới nội tâm lại mở ra vô hạn.
     Gìn ký ức nơi bóng hình khao khát. Những cơn mơ ánh nắng vẽ nên một bức tranh đa chiều, vừa lãng mạn vừa thực tại. Mỗi câu chữ chạm vào thôi, đã bỏng rát. Mang trăn trở về thời gian, về những được mất, về những dấu vết cuộc đời đã bén rễ, cắm sâu vào lòng đất. Với giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại, nhưng lại có sức lay động mạnh, chị đã khiến người đọc phải dừng lại, lắng lòng và chiêm nghiệm về chính tâm hồn mình. Phần nào đó, chị đã thành công!
 
    Xin trân trọng cảm ơn tình văn nghệ mà nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã gửi gắm. Được cầm trên tay con tinh thần của chị, tôi cảm nhận tâm hồn được sự kết nối vô hình từ chữ nghĩa. Thi ca như một mối duyên, mỗi áng thơ được sinh ra đều từ một cuộc gặp gỡ định mệnh, và duyên thi ca giữa tôi và chị chính là một trong những cuộc gặp gỡ đẹp đẽ ấy.
 
SAN PHI
(Sài Gòn ngày 23 tháng 8 năm 2025).