Trịnh
Y Thư
Milan Kundera
[1929-2023] trong một bức ảnh chụp năm 1968,
thời điểm Mùa Xuân
Praha.
Milan
Kundera, nhà văn nổi tiếng quốc tế với những tác phẩm văn học bất đồng chính
kiến ở Tiệp Khắc thời Cộng sản đã khiến ông phải sống cuộc đời lưu vong từ năm
1975, vừa qua đời ở Paris. Ông thọ 94 tuổi.
Kundera
qua đời vào chiều thứ Ba, 11 tháng Bẩy, nhà xuất bản lâu năm của ông Gallimard,
cho biết như thế trong một tuyên bố ngắn một dòng chữ vào thứ Tư, xác nhận rằng
ông đã chết ở Paris nhưng không cung cấp thêm thông tin.
Nghị
viện Châu Âu đã tổ chức một phút mặc niệm khi biết tin ông qua đời.
Đời
nhẹ khôn kham,
cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Kundera, mở đầu với cảnh xe tăng Liên Xô
nghiến nát đường phố Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc, là quê hương của tác giả
cho đến khi ông sang Pháp chọn cuộc đời lưu vong từ năm 1975. Đan xen các chủ
đề về tình yêu và sự lưu vong, chính trị mang tính cá nhân sâu sắc, tiểu thuyết
của Kundera đã giành được sự tán thưởng của giới phê bình, giúp ông có được
lượng độc giả rộng rãi chẳng những ở phương Tây mà còn khắp nơi trên thế giới,
kể cả Việt Nam.
“Nếu
ai đó nói với tôi khi còn là một cậu bé: Một ngày nào đó bạn thấy đất nước của
mình biến mất khỏi thế giới, tôi sẽ coi đó là điều vô nghĩa, một điều tôi không
thể tưởng tượng được. Con người biết mình là phàm nhân, sẽ có ngày tan biến
khỏi mặt đất, nhưng hắn ta mặc nhiên cho rằng đất nước của mình thì vĩnh cửu.”
Ông
nói với nhà văn Mỹ Philip Roth như thế trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York
Times vào năm 1980, một năm trước khi ông nhập quốc tịch Pháp.
Đối
với riêng tôi, Kundera là người thầy dậy tôi viết văn, mặc dù tôi chưa bao giờ
có cơ hội gặp ông ngoài đời. Tôi sẽ không cảm thấy một chút mặc cảm nào nếu có
ai đó bảo tôi viết giống Kundera, lý do dễ hiểu, tôi đọc gần như toàn bộ sáng
tác của ông, tiểu thuyết cũng như tiểu luận, và đã bỏ thời gian ra dịch ra Việt
ngữ hai cuốn tiểu thuyết (Đời nhẹ khôn kham và Tập sách cái cười & sự lãng
quên) cùng nhiều bài tiểu luận khác của ông. Giữa tiểu thuyết và tiểu luận ông
viết, tôi không rõ cái nào hay hơn, một điều rất hiếm thấy ở các nhà văn, Tây
cũng như Đông.
Để
thắp một nén tâm hương cho nhà văn Milan Kundera, xin cho tôi chia sẻ với bạn
bài viết tôi viết về ông, in trong cuốn tạp luận Theo dấu thư hương, xuất bản
năm 2022. (TYT)
***
MILAN
KUNDERA: CÁI CƯỜI CÁI NHẸ CÁI QUÊN
Trong
bài tựa cuốn tiểu thuyết Chuyện đùa, Milan Kundera thuật lại giai thoại sau:
Năm 1980 (lúc này ông đã cùng gia đình sang Pháp định cư), có buổi hội thảo
trên kênh truyền hình nào đó nói về sự nghiệp văn học của ông. Một nhân vật
trong thành phần tham dự đứng lên phát biểu, gọi cuốn Chuyện đùa là bản cáo
trạng hùng hồn tố cáo tội ác của chủ nghĩa Stalin. Kundera nghe vậy vội vàng
ngắt lời, “Ông làm ơn đừng gán ghép chủ nghĩa Stalin của ông vào tôi. Chuyện
đùa chỉ là một câu chuyện tình.”
Quả
vậy, mặc dù tiểu thuyết Kundera không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị –
đúng hơn lịch sử chính trị – và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần
như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai
họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông,
nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm
kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. Ông có vẻ dị ứng với tất cả
những điều đó. Với ông, Lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu
thuyết gia như nhà thiết kế sân khấu kịch sử dụng để kiến dựng một tiết kịch.
Câu nói “Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia” thường được ông nhắc
đi nhắc lại trong những bài tiểu luận (ngoài vai trò một tiểu thuyết gia hàng
đầu trên thế giới vào nửa sau thế kỷ XX, Kundera còn là một ngòi bút viết tiểu
luận văn học xuất sắc) như trong những đoạn viết sau:
Bởi
Lịch sử, với tất cả những động thái của nó, chiến tranh, cách mạng, phản cách
mạng, quốc nhục, không được chen vào can dự ngòi bút của nhà văn – không thể để
nó trở thành đề tài cho nhà văn minh họa, lên án hoặc biện giải. Tiểu thuyết
gia không phải là kẻ hầu của sử gia; nhà văn có thể bị mê hoặc bởi Lịch sử,
nhưng bởi nó là thứ đèn giọi xoay vòng chạy xung quanh hiện hữu con người,
chiếu luồng sáng lên nó, lên những khả thể bất ngờ, mà ở những lúc bình ổn, khi
Lịch sử đứng yên, không ló mặt ra phía trước, chúng nằm yên phía sau, không ai
thấy, không ai nhận biết.
Lịch
sử nhẹ như đời sống cá nhân con người, nhẹ khôn kham, nhẹ như lông hồng, nhẹ
như hạt bụi cuốn lên không trung, như bất cứ cái gì ngày mai không tồn tại.
Nếu
vậy, đối với Kundera, chủ đề trong tiểu thuyết có hàm chứa một ý nghĩa gì đáng
kể không? Hiển nhiên, như hầu hết các tiểu thuyết gia tầm vóc khác của thế
giới, Kundera cương quyết chống lại mọi chủ thuyết luận đề trong văn chương.
Đối với ông, chẳng có gì đáng khinh bỉ hơn một tác phẩm tiểu thuyết mà đọc
không khác một văn bản tuyên truyền chính trị. Tuy vậy, bàng bạc trong những
tác phẩm của ông, người ta nhận thấy những chủ đề sau hiển lộ rõ ràng: cuộc
sống lưu vong; căn tính, đời sống vượt qua lằn ranh biên thùy (bên kia tình
yêu, bên kia nghệ thuật, bên kia sự nghiêm túc); lịch sử như cái gì liên tục
trở lại; và lạc thú của một đời sống ít có những điều “quan trọng.”
Và,
cũng như phần lớn chúng ta, Kundera chẳng thể nào
đứng ngoài những biến động lịch sử khốc liệt của thế hệ ông. Thế kỷ XX, châu Âu
của ông chứng kiến sự đổ nát kinh hoàng chưa từng thấy trước đó bao giờ. Hai
cuộc Thế chiến, Lò thiêu, Quốc xã, Quân phiệt, Cộng sản, như những bóng ma, cho
đến tận bây giờ vẫn ám ảnh tâm tư người dân lục địa đó. Bohemia của ông – miền
đất tuy nhỏ bé nép mình giữa hai cường quốc Đức và Nga nhưng lại là giao điểm
chính trị và văn hóa quan trọng – luôn luôn là mảnh đất chịu thiệt thòi và bị
giẫm nát trong bất kỳ cuộc tương tranh lớn nhỏ nào. Ở châu Âu, ngoài Ireland,
Bohemia có lẽ là quốc gia duy nhất mà nền văn học bao giờ cũng trĩu nặng tính
thời đại và lịch sử. Dù sao chăng nữa, Kundera khó lòng hoàn toàn đi chệch ra
khỏi quy luật đó.
Nhưng
nếu lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái
gì chiếm cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera? Câu trả lời giản dị
lắm: Đó chính là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên
luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. Đưa ra một định
nghĩa cho tiểu thuyết, ông nói: “Ngay khi bạn tạo dựng một hiện hữu tưởng
tượng, một nhân vật, tự động bạn đối đầu câu hỏi: Bản ngã là gì? Làm cách nào
thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu
thuyết.” Kundera cả quyết rằng sự nảy sinh của nhân vật tiểu thuyết không giống
sự ra đời của con người nơi cuộc sống bên ngoài; “họ có mặt do một tình huống,
một câu văn hay một ẩn dụ bên trong cái vỏ bọc hàm chứa những khả thể cơ bản
liên quan đến con người mà tác giả nghĩ rằng chưa ai khám phá hay đề cập điều
gì trọng yếu về nó.” Xem thế, tính sáng tạo trong tiểu thuyết Kundera chủ yếu
nằm ở điểm này. Và qua tác phẩm chúng ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến
tận cùng. Bản ngã bị ông lật trái lật phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt.
Nhưng không phải vì thế ông nắm bắt được điều muốn tìm kiếm; bản ngã vẫn vuột
khỏi tầm tay, và ông thú nhận cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch
lý.
Đọc
Kundera, chúng ta cũng dễ dàng mắc phải ngộ nhận cho là tiểu thuyết ông chịu
ảnh hưởng triết học hiện sinh. Ý tưởng phê phán nghệ thuật tiểu thuyết chẳng
qua chỉ là cái gì rút ra từ các trào lưu triết học và lý thuyết bị ông đem ra
phản bác gay gắt. Dẫn chứng tác phẩm văn học của các nhà văn cận/hiện-đại, ông
bảo tiểu thuyết đã va chạm đến vô thức trước khi có Freud, đã luận về đấu tranh
giai cấp trước khi có Marx; và trước khi các nhà hiện tượng học ra đời tiểu
thuyết đã nói đến hiện tượng học. Câu nói “tiểu thuyết nói những điều mà chỉ
tiểu thuyết mới nói được” thường được ông đem ra dùng khi cần bênh vực cho vai
trò tích cực và vị thế trọng đại không thể thiếu của tiểu thuyết trong đời sống
văn hóa con người.
Kundera
tự xem mình là một nhà văn châu Âu, không phải Đông Âu như nhiều người gán lên
ông. Ông lấy nguồn cảm hứng sáng tác từ những nhà văn truyền thống châu Âu từ
thời Phục hưng như Boccacio, Rabelais, hoặc mới hơn như Sterne, Diderot… Nhưng
chính những trước tác của các nhà văn hiện đại thế kỷ XX đã tạo ảnh hưởng sâu
sắc lên những trang viết của ông, đó là Musil, Gombrowitz, Broch, Heidegger, và
nhất là Kafka. Ông dành nguyên một phần trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết để
nói về Kafka. Theo ông, chính Kafka, không phải Proust, không phải Joyce,
đã tiên phong
cho trào lưu
tiểu thuyết Hiện đại mà ảnh hưởng
vẫn còn vang động cho đến tận ngày nay.
Kundera
cũng tuyệt đối trung thành với những ý niệm mỹ học mà ông khai triển gần như
suốt văn nghiệp ông. Ở những cuốn nổi tiếng như Đời nhẹ khôn kham, Chuyện đùa,
chúng ta thấy ông say sưa với những cặp phạm trù nặng/nhẹ, tâm-hồn/thể-xác,
chung-thủy/phản-bội, cái-cười/sự-lãng-quên, vân vân. Thậm chí ông lấy cặp phạm
trù cái-cười/sự-lãng-quên làm nhan đề cho một tác phẩm của ông, Tập sách cái
cười và sự lãng quên. Kundera nói về cuốn sách này của ông như sau:
Sách
này là cuốn tiểu thuyết viết theo dạng thức biến tấu. Những phần của sách nối
tiếp nhau như những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của
chủ đề, nội tại một suy tưởng, nội tại một
tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi mất về
cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của tôi.
Nó
là cuốn tiểu thuyết viết về Tamina, và những chuyện diễn ra lúc Tamina bước ra
khỏi sân khấu. Nó là cuốn tiểu thuyết viết cho Tamina. Cô là nhân vật chính
diện và cũng là khán giả chính diện. Tất cả những chuyện khác là biến tấu dựa
trên chuyện của chính cô, gặp gỡ đời sống cô như gương soi mặt.
Nó
là cuốn tiểu thuyết về cái cười và sự lãng quên, về thành phố Praha, về Praha
và những thiên sứ của nó…
Như
hầu hết các tác phẩm khác ông viết trước đó hoặc sau này, cuốn sách là một tổng
hợp những khía cạnh khác nhau của hiện tồn được khuếch đại, thu nhỏ, sắp xếp
lại trật tự, nhấn mạnh, xem xét, phân tích, trải nghiệm… với một cái nhìn thật mới
mẻ và tinh tế.
Ông
viết cuốn sách vào khoảng giữa thập kỷ 70.
Tác phẩm có bẩy phần. Gọi
mỗi phần là một truyện ngắn cũng
đúng, nhưng theo chính Kundera, ta nên
xem nó là một tổ khúc, như tổ khúc âm nhạc gồm bẩy hành âm mà mỗi hành âm là
một cuộc truy tìm hiện hữu khác nhau. Khác nhau nhưng vẫn có sự thắt buộc chặt
chẽ bởi mô-típ chỉ đạo chế ngự toàn tác phẩm: cái cười và sự lãng quên. Những
mã số hiện sinh ông sử dụng ở đây vẫn là những phạm trù quen thuộc lồng trong
tình huống một chuyện tình buồn cười. (Các chuyện tình của Kundera đều buồn
cười, nhưng là nụ cười cay đắng.) Tình dục thì luôn luôn buồn bã, như hoang
mang giữa mê lộ. Và quái! Không phải quái đản, quái lạ, quái gở hay quái dị, mà
quái “chiêu.” (Ở đây, tôi chỉ có thể tìm được một tiếng lóng, một từ đường phố,
“quái chiêu,” để diễn tả chất “quái” trong văn Kundera khi viết về tình dục.)
Tất cả quay cuồng trong bối cảnh lịch sử: cuộc sống nghẹt thở dưới chế độ công
an trị của nhà nước Cộng sản sau khi Nga xua cả nghìn chiến xa và nửa triệu
quân sang xâm chiếm Bohemia.
Cuốn
tiểu thuyết đã đưa Kundera lên đài danh vọng quốc tế vào cuối thập kỷ 70. Nó là
cuốn sách chẳng những phong phú ở mặt xây dựng nhân vật và câu chuyện, mà còn
lạ lùng, sâu sắc ở phần tưởng tượng. Nơi đây thực tại và huyễn tưởng đan xen
nhau dễ dàng và tự nhiên đến nỗi người đọc khó phân biệt đâu là đời sống thật,
đâu là giấc mơ. Kỳ thực, điều đó không cần thiết khi đọc tiểu thuyết Kundera.
Tuyệt đối không cần thiết, bởi chính ông cũng hay nhắc nhở người đọc rằng đừng xem
những gì ông viết là sự thật ngoài đời, mặc dù trong đó có rất nhiều phần thuộc
dạng hồi ức tự truyện, âm nhạc, triết học hay lịch sử. Ông thường cố ý cho
người đọc nhận ra các nhân vật tiểu thuyết của ông chẳng qua chỉ là những
hình ảnh ông lấy ra từ trí tưởng tượng của mình. Ông cho chủ thể ở ngôi
thứ nhất trong lúc miêu thuật một câu chuyện ở ngôi thứ ba. Trong lúc viết, ông
quan tâm đến các từ định đoạt tính cách và số phận của nhân vật hơn là ngoại
hình. Chẳng bao giờ nghe ông miêu tả nhân dáng các nhân vật của ông ra sao, như
thể trí tưởng tượng của người đọc tự động tiếp nối và hoàn tất cái nhìn của
người viết. Làm như thế, người viết sẽ chú trọng nhiều hơn ở phần cốt lõi của
tác phẩm. Thậm chí, thế giới nội tâm (hoặc tâm lý) của nhân vật đối với ông
cũng chẳng quan thiết. Tuy nhiên, đôi lúc, tính cách đặc trưng nào đó được nhấn
mạnh hầu làm sáng tỏ thêm bản chất của nhân vật.
Viết
tiểu thuyết, Kundera ưa chuộng thủ pháp “tiểu thuyết tư duy.” Có nghĩa là ông
không miêu thuật một câu chuyện từ đầu chí cuối, mà đưa ra một ý tưởng rồi “bịa” một hay nhiều “tình huống” để biện
chứng cho ý tưởng đó. Với lối viết này, Kundera chịu ảnh hưởng nhiều từ hai nhà
văn kiệt xuất người Áo của nửa đầu thế kỷ XX là Robert Musil [1880-1942] và
Hermann Broch [1886-1951]. Kẻ không quen lối viết này có thể bĩu môi chê bai,
“Sao mà lý sự lắm thế!” bởi đối với họ, nghệ thuật tiểu thuyết yêu cầu ý kiến
tác giả đứng ngoài tầm nhìn; tất cả mọi tư duy hãy để người đọc định đoạt, nó
là thành tố ngoại tại của loại hình tiểu thuyết.
Thế
nhưng Kundera đã mở toang cánh cửa để tư duy tuôn tràn vào tiểu thuyết. Ông
không ngần ngại tuyên bố rằng “biện pháp bổ sung những tư duy chắc nịch một
cách đầy thông tuệ vào tiểu thuyết và bằng những thủ pháp tuyệt luân đầy nhạc
tính khiến nó trở nên thành phần bất khả phân ly trong tác phẩm là một trong
những sáng tạo táo bạo nhất mà không phải tiểu thuyết gia nào cũng dám làm
trong kỷ nguyên nghệ thuật hiện đại.”
Tư
duy tiểu thuyết, theo Kundera, không dính líu gì đến tư duy khoa học hay triết
học; nó là phi triết học; thậm chí phản triết học, có nghĩa là nó hết sức độc
lập với bất kỳ hệ suy tưởng tiên nghiệm nào; nó không thẩm định; không công bố
chân lý; nó ra câu hỏi, nó kinh ngạc, nó xét nét; loại hình của nó thật là
phong phú: ẩn dụ, châm biếm, giả định, khoa đại, châm ngôn, bông lơn, gây hấn,
huyễn hoặc; và điều chính yếu là không bao giờ nó tách lìa ra khỏi cái vòng
tròn ảo diệu bao quanh đời sống những nhân vật của nó; những đời sống nuôi
dưỡng, chứng thực nó.
Đọc
Kundera, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra tính hài (và ở chừng mực nào đó, châm
biếm) thấm đẫm trong văn ông. Kỳ thực, đối với ông, hài là một thuộc tính bất
khả tách ly của văn chương. Tập sách cái
cười và sự lãng quên không thiếu những mạch đoạn khiến người đọc cười chảy nước
mắt, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta hiểu chủ ý của ông là chọc cười độc giả.
Để hiểu tính hài của Kundera, ta phải tìm hiểu tính hài trong văn Kafka. Vâng,
chính Kafka đã cho ông nguồn cảm hứng bất tận đem tính hài vào văn chương.
Kafka lấy mặt nạ của cái khả lý đeo lên cái bất khả lý, trong lúc tuyệt đối duy
trì tính chính xác tâm lý, nó khiến tiểu thuyết của ông mang vẻ mê hoặc huyền
ảo lạ lùng. Chuyện bông đùa, giai thoại, chuyện hài hước: chúng là những bằng
chứng hùng hồn nhất cho thấy giữa cảm quan nhạy bén của hiện thực và thần trí
tưởng tượng, tiểu thuyết liều lĩnh đi vào cái bất khả lý. Kundera bảo như vậy.
Kundera cũng khai thác triệt để khía cạnh
bi-hài của chủ nghĩa độc tài toàn trị, mặc dù ông quyết liệt phản bác lại mọi
phê phán xem tiểu thuyết của ông là một diễn ngôn chính trị. “Sự lên án chủ
nghĩa độc tài toàn trị không xứng đáng đem vào tiểu thuyết” là câu nói thường
xuyên ông phát biểu mỗi khi đề tài này được đem ra thảo luận. Tiểu thuyết gia
Mexico Carlos Fuentes nói như sau về Kundera:
Điều
thú vị ông ta [Kundera] tìm ra là sự tương tự giữa chủ nghĩa độc tài toàn trị
và giấc mơ tuy mê hoặc nhưng chẳng có gì đáng nhớ về một xã hội hài hòa nơi đời
sống riêng tư và đời sống công cộng nhập lại thành khối nhất thể và sự hiệp
nhất đó được xây dựng xung quanh một ý chí và một đức tin.
Tính
bi-hài nhiều phần đen tối ấy cho chúng ta thấy một lần nữa Kundera chịu ảnh
hưởng nhiều từ Franz Kafka.
Ngày
nay trong khi nhiều người mất niềm tin vào tiểu thuyết như một loại hình nghệ
thuật, thậm chí có người tuyên bố tiểu thuyết đã chết, thì Kundera tỏ ra vẫn tha thiết với nó. Để
hiểu nguyên do vì sao, chúng ta có thể tìm đọc lại suy nghĩ của ông như sau:
Nhân
vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi. Đó là lý do
tại sao tôi yêu quý và khiếp sợ những nhân vật đó bằng nhau. Mỗi nhân vật vượt
qua đường biên do chính tôi vạch ra. Chính đường biên bị vượt qua đó (bên kia
đường biên, “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt) là cái gì quyến rũ tôi nhất. Bởi
bên kia đường biên là nơi khởi đầu cho cái ẩn mật cuốn tiểu thuyết yêu cầu.
Tiểu thuyết không phải lời tự thú của tác giả; nó là cuộc nghiệm sinh của con
người trong cái bẫy thế giới này đang dần dà biến thành.
…
cái bẫy thế giới này đang dần dà biến thành. Quá chính xác, và tôi không thể
không đồng ý với ông. Bởi trong mắt nhìn của ông, thế giới hiện đại là một thế
giới bị triết học bỏ rơi và hàng trăm chuyên ngành khoa học đập vỡ tan. “Chỉ có
tiểu thuyết là còn lại với chúng ta như đài quan sát cuối cùng để từ đó chúng
ta có thể ôm lấy đời sống con người như một toàn nguyên.” Ông nói như vậy.
Đừng
kỳ vọng Kundera cho chúng ta câu trả lời về bất cứ điều gì sau khi đọc xong tác
phẩm. Sẽ không có câu trả lời, và mọi chất vấn hoài nghi chỉ làm tối tăm thêm
cái nghịch lý của đời sống. Hãy nhận ra nét đẹp của nghệ thuật và đó là phần
thưởng duy nhất nhà văn có thể cống hiến.
–
TRỊNH Y THƯ
No comments:
Post a Comment