Thursday, November 27, 2025
Sunday, November 23, 2025
TƯỞNG TƯỢNG GẶP NGUYỄN XUÂN HOÀNG Ở BOLSA
Huỳnh
Liễu Ngạn
tôi
về đứng ở bolsa
nhìn màu ngói đỏ căn nhà* phía sau
thấy tờ tạp chí bìa nâu
có tên tôi với trời sâu mỉm cười
kêu chai bia sẵn để mời
nguyễn xuân hoàng tới cùng ngồi cụng ly
tôi làm bài thơ tức thì
ông cầm đọc nói thơ chi mà buồn
trời chiều bỗng đổ mưa tuôn
làm nhớ huế rồi nhớ luôn sài gòn
nhớ ngũ lão nhớ ký con
hàng lá thấp cây bông gòn ngã tư
rồi ông đứng dậy giã từ
bụi và rác* và sương mù* bắt tay
tôi như người đi trên mây*
khi khói thuốc đã làm cay cuộc đời.
(20.11.24 - 20.11.25)
HUỲNH LIỄU NGẠN
Căn nhà ngói đỏ
Bụi và rác
Mù sương
Người đi trên mây
Tên tác phẩm của NXH
nhìn màu ngói đỏ căn nhà* phía sau
thấy tờ tạp chí bìa nâu
có tên tôi với trời sâu mỉm cười
kêu chai bia sẵn để mời
nguyễn xuân hoàng tới cùng ngồi cụng ly
tôi làm bài thơ tức thì
ông cầm đọc nói thơ chi mà buồn
trời chiều bỗng đổ mưa tuôn
làm nhớ huế rồi nhớ luôn sài gòn
nhớ ngũ lão nhớ ký con
hàng lá thấp cây bông gòn ngã tư
rồi ông đứng dậy giã từ
bụi và rác* và sương mù* bắt tay
tôi như người đi trên mây*
khi khói thuốc đã làm cay cuộc đời.
(20.11.24 - 20.11.25)
HUỲNH LIỄU NGẠN
Căn nhà ngói đỏ
Bụi và rác
Mù sương
Người đi trên mây
Tên tác phẩm của NXH
Friday, November 21, 2025
ĐƯỜNG KHÂU NỐI THỜI GIAN Tuyển Tập II – Chân Dung Văn Học, Nghệ Thuật và Văn Hóa. của Ngô Thế Vinh
NGUYỄN VĂN TUẤN
Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong 4 chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng "Trước và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy."
Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương 'chuyên chính vô sản' đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ hoạ của một số cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản" có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là "những tên biệt kích văn hoá", "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu huỷ sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm.
Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra.
Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hoá thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 thời đã được lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là 'biệt kích văn hoá' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'.
Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị.
Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.
Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập bao gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ 'gặp' 15 tác giả: Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh).
Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một 'công thức' dung hoà giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác hoạ các tác gia như sau:
• Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân.
• Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt.
• Hoàng Tiến Bảo: một thầy thuốc lớn.
• Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam.
• Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận.
• Tạ Tỵ: một hoạ sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài.
• Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm toả sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
• Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
• Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh.
• Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH.
• Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi.
• Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến.
• Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
• Vũ Xuân Thông: Một biệt kích dù, một thế hệ hy sinh.
• Võ Tòng Xuân: 'Bác sĩ lúa' và Gia đình Bác Tám.
• Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
• John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam.
• Dohamide: một nhà khảo cứu văn hoá Chàm ôn hoà và đầy trăn trở.
Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v., nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hoá, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn mà họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa.
Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hoá, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hoá, điện toán hoá, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng “... nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.” Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tuỵ cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.
Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hoá học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hoá và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 2964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 - 1966) và Trình Bày (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.
Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng “Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai.
Tuyển tập dành nhiều trang cho hoạ sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong.
Tuyển tập có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hoá và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hoá Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm Đôi bờ'." Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước' đòi li khai và một bên là hoà nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hoá và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hoà như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc.
Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ.
Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại.
Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng.
Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hoá, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp của ý nghĩa của Tuyển tập.
Tuyển tập này, được Tiến sĩ Eric Henry diễn dịch sang tiếng Anh, là một đóng góp quý báu trong việc gìn giữ ký ức văn hóa. Bản dịch của ông không chỉ chuyển tải ngôn ngữ mà còn thổi hồn vào di sản văn học phong phú của miền Nam Việt Nam, mang đến cho độc giả khắp thế giới một góc nhìn mới mẻ. Là một quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và nghệ sĩ chơi đàn phím, và nay là học giả nghiên cứu văn học Trung Quốc và Việt Nam tại Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, Tiến sĩ Henry đảm nhận công việc dịch thuật này bằng sự hòa quyện độc đáo giữa trải nghiệm cá nhân và sự am hiểu học thuật. Bản dịch của ông, vừa tinh tế vừa trung thực, giữ được nét sắc sảo và sự trầm lắng trong văn phong của Ngô Thế Vinh, đồng thời vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa. Với nghệ thuật dịch thuật đầy tinh tế, Eric Henry làm sống lại những tiếng nói sôi động của một thời đã từng bị lãng quên, mở ra một nhịp cầu để độc giả hôm nay nối kết với di sản văn hóa tưởng chừng đã phai mờ, nay được thắp sáng trở lại.
NGUYỄN VĂN TUẤN
Sydney, 11 Tháng 9, 2025
"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18 văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.
Để cảm nhận đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà trước và sau 1975. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quí báu về một nền giáo dục mà ngày nay có người 'tiếc nuối vô bờ bến'. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên 3 trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến thức khoa học kĩ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị văn hoá nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong 4 chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng "Trước và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy."
Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương 'chuyên chính vô sản' đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ hoạ của một số cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản" có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là "những tên biệt kích văn hoá", "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu huỷ sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm.
Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra.
Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hoá thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 thời đã được lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là 'biệt kích văn hoá' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'.
Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị.
Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.
Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập bao gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ 'gặp' 15 tác giả: Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh).
Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một 'công thức' dung hoà giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác hoạ các tác gia như sau:
• Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân.
• Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt.
• Hoàng Tiến Bảo: một thầy thuốc lớn.
• Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam.
• Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận.
• Tạ Tỵ: một hoạ sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài.
• Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm toả sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
• Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
• Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh.
• Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH.
• Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi.
• Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến.
• Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
• Vũ Xuân Thông: Một biệt kích dù, một thế hệ hy sinh.
• Võ Tòng Xuân: 'Bác sĩ lúa' và Gia đình Bác Tám.
• Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
• John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam.
• Dohamide: một nhà khảo cứu văn hoá Chàm ôn hoà và đầy trăn trở.
Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v., nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hoá, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn mà họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa.
Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hoá, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hoá, điện toán hoá, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng “... nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.” Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tuỵ cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.
Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hoá học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hoá và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 2964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 - 1966) và Trình Bày (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.
Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng “Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai.
Tuyển tập dành nhiều trang cho hoạ sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong.
Tuyển tập có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hoá và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hoá Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm Đôi bờ'." Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước' đòi li khai và một bên là hoà nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hoá và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hoà như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc.
Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ.
Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại.
Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng.
Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hoá, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp của ý nghĩa của Tuyển tập.
Tuyển tập này, được Tiến sĩ Eric Henry diễn dịch sang tiếng Anh, là một đóng góp quý báu trong việc gìn giữ ký ức văn hóa. Bản dịch của ông không chỉ chuyển tải ngôn ngữ mà còn thổi hồn vào di sản văn học phong phú của miền Nam Việt Nam, mang đến cho độc giả khắp thế giới một góc nhìn mới mẻ. Là một quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và nghệ sĩ chơi đàn phím, và nay là học giả nghiên cứu văn học Trung Quốc và Việt Nam tại Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, Tiến sĩ Henry đảm nhận công việc dịch thuật này bằng sự hòa quyện độc đáo giữa trải nghiệm cá nhân và sự am hiểu học thuật. Bản dịch của ông, vừa tinh tế vừa trung thực, giữ được nét sắc sảo và sự trầm lắng trong văn phong của Ngô Thế Vinh, đồng thời vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa. Với nghệ thuật dịch thuật đầy tinh tế, Eric Henry làm sống lại những tiếng nói sôi động của một thời đã từng bị lãng quên, mở ra một nhịp cầu để độc giả hôm nay nối kết với di sản văn hóa tưởng chừng đã phai mờ, nay được thắp sáng trở lại.
NGUYỄN VĂN TUẤN
Sydney, 11 Tháng 9, 2025
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một Thuyền Nhân được định cư tại Úc châu từ năm 1982, hiện là Giáo sư của Khoa Y của Đại học New South Wales, Giáo sư của Trường Y, Đại học Notre Dame Australia, và Giáo sư xuất sắc của Đại học Công nghệ Sydney. Tác giả được biết đến như là một chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lãnh vực loãng xương, được bầu làm Viện Sĩ của Hội Nghiên Cứu Loãng Xương Hoa Kỳ (ASBMR), Viện Sĩ của Viện Hàn Lâm Y Học Australia (AAHMS), Viện Sĩ của Học Viện Hoàng Gia New South Wales, và được Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị trao Huân Chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho y khoa và giáo dục đại học. Ngoài khoa học, tác giả còn là một người yêu văn học và văn hoá, và đã viết hàng trăm bài điểm sách trong thời gian 50 năm qua.
Tuesday, November 18, 2025
MỜI DỰ RA MẮT SÁCH TRỊNH Y THƯ
Văn Học Press và Việt Báo Foundation
Thân
mời
Anh
chị em văn nghệ
dự
buổi ra mắt sách
Theo
Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư
tổ
chức tại Coffee Factory
1582
Brookhurst St. Westminster – CA 92083
Lúc
4pm ngày 6 tháng 12 năm 2025
Diễn giả
Giáo
sư Trần Huy Bích
Nhà
văn Cung Tích Biền
Nhà
thơ Nguyễn Thị Khánh Minh
Dẫn chương trình
MC
Lê Đình Ysa
Trân
trọng kính mời
Sunday, November 16, 2025
BÀI THƠ TẮM GIẾNG VÀ MỘT BÀI KHÁC
H
o à n g X u â n S ơ n
TẮM GIẾNG
•
Em cứ tắm đi tôi múc nước
Tôi là gàu trăng em loáng da
Cứ để ngọc ngà trôi thật chậm
Để cành tre thấp thỏm sa đà
Em cứ xõa tóc tôi gội đầu
Giùm em thơm một thoảng hương ngâu
Hay là bồ kết huyền nhanh nhánh
Kết ước tinh khôi ngọt mần trầu
Trăng xanh giếng ngọc hồn chanh bưởi
Xuân thơ ngày tháng đã xa vời
Hãy tắm nghe đời trôi bụi bặm
Cho hồng thức dậy nước mồ côi.
••
h o à n g x u â n s ơ n
@17oct25
TẶNG DỮ
•
Tôi ngồi bệt xuống cỏ
Để nâng đàn em lên
Một nóc nhà thụ cảm
Tiếng vang và tiếng rền
Đừng giáo điều im lặng
Hãy thỏ thẻ sen hồng
Hãy dư hương kỳ bí
Si tình một nụ bông
Là ngâu vàng lan tỏa
Nức thơm một nhà vườn
Đừng lý thuyết kín cổng
Chiếc hàng rào tai ương
Tôi ngồi kín một sân
Nghe lành khắp mọi phía
Em thử hát một lần
Vào câu thơ phá lệ
Tôi đi mà không bước
Vì em lắng nghe chiều
Những hòn sỏi lăn chậm
Dốc triền của đăm chiêu
Chúng ta còn làm thơ
Như rừng chiều phá án
Những bài thơ rất thơ
Của khúc tình hiến tặng
••
h o à n g x u â n s ơ n
30.9.25
Giếng xưa
TẮM GIẾNG
•
Em cứ tắm đi tôi múc nước
Tôi là gàu trăng em loáng da
Cứ để ngọc ngà trôi thật chậm
Để cành tre thấp thỏm sa đà
Em cứ xõa tóc tôi gội đầu
Giùm em thơm một thoảng hương ngâu
Hay là bồ kết huyền nhanh nhánh
Kết ước tinh khôi ngọt mần trầu
Trăng xanh giếng ngọc hồn chanh bưởi
Xuân thơ ngày tháng đã xa vời
Hãy tắm nghe đời trôi bụi bặm
Cho hồng thức dậy nước mồ côi.
••
h o à n g x u â n s ơ n
@17oct25
TẶNG DỮ
•
Tôi ngồi bệt xuống cỏ
Để nâng đàn em lên
Một nóc nhà thụ cảm
Tiếng vang và tiếng rền
Đừng giáo điều im lặng
Hãy thỏ thẻ sen hồng
Hãy dư hương kỳ bí
Si tình một nụ bông
Là ngâu vàng lan tỏa
Nức thơm một nhà vườn
Đừng lý thuyết kín cổng
Chiếc hàng rào tai ương
Tôi ngồi kín một sân
Nghe lành khắp mọi phía
Em thử hát một lần
Vào câu thơ phá lệ
Tôi đi mà không bước
Vì em lắng nghe chiều
Những hòn sỏi lăn chậm
Dốc triền của đăm chiêu
Chúng ta còn làm thơ
Như rừng chiều phá án
Những bài thơ rất thơ
Của khúc tình hiến tặng
••
h o à n g x u â n s ơ n
30.9.25
LỜI VIẾT GỞI NGUYỄN XUÂN HOÀNG*
nguyễnxuânthiệp
NXHoàng đang đọc trang văn của tôi
mảnh trăng
tặng
Nguyễn Xuân Hoàng
vẫn
chiếc áo sờn cổ
đôi
giày của gã lãng du
tôi
đi. với mảnh trăng. mùa đông
này
bạn văn xưa
còn
không những nét dao trên đá
về
số phận. của một người. một đời
và
đốm lửa
tôi
nghe thơ anh. cùng tiếng chuông. ngân
giã
từ
giã
từ
những
mùa của quỷ
hồi
tưởng
những
năm tháng đó
mảnh
trăng mùa đông
cùng
ta đi
qua
mái nhà. góc phố. đường ray
về
hổ khê
về
vùng lau thưa. thăm mộ bạn
mùa
này cây đào cẩm nhân đã trổ bông
hồn
oan. đêm cầm đèn. gọi cửa
đường
tăng
đầm
suối tây phương như kiếm sắc
dốc
hiểm
khe
oan
về
đâu
ngọn
gió mùa đông. thổi. tím
mảnh
trăng còi
bay.
bay. như chim. qua mây
dưới
trăng. trâu bon. ngựa mỏi
hoa
ác ăn người
yêu
quái. chờ ai. nơi lều cỏ
đường
tăng
thuyền
đã ghé bờ
hãy
quên. như trăng
quán
cháo khuya. đèn đỏ
mở
chân trời. cuộc đời thôi đã khác
tháng
mười hai, 1997
Tôi
viết bài thơ này năm 1997, một thời gian ngắn sau khi qua Mỹ. Bài thơ đề tặng bạn
Nguyễn Xuân Hoàng, ghi lại hành trình của một người thơ qua chiến tranh và ngục
tù, với tâm nguyện khắc văn mình trên đá và nhóm lên ngọn lửa giã từ thế giới
và thời của cái ác. Hành trình đó, ít nhiều Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã trải qua
như trong tác phẩm Bụi Và Rác của bạn. Tôi hình dung nó như con đường Huyền
Trang đi thỉnh kinh, và mỗi nhà văn chúng ta kinh qua nó với sứ mạng của Đường
Tăng là mang những nét đẹp nhân văn đến cho cõi người. Con đường đó muôn vàn
khó khăn, hiểm trở, cái ác rình chờ khắp mọi nơi. Huyền Trang đã vượt qua được.
Còn nhà văn chúng ta, bạn và tôi và Nguyễn Xuân Hoàng đã tới bến bờ nào. Bên
kia sông là ánh mặt trời hay một cõi lãng quên nào đó, cũng không là quan trọng.
Giấc mơ của Balakirev
Trong
những dòng viết cho Nguyễn Xuân Hoàng ngày hôm nay, tôi muốn nói tới một cuộc
hành trình khác -cuộc hành trình của Balakirev trong mùa đông băng giá trên một
chiếc xe ngựa thời cổ. Mily Balakirev (1837- 1910), là pianist, nhạc trưởng và
là nhà soạn nhạc danh tiếng của Nga, người đã ảnh hưởng đến nhiều nhạc sĩ đương
thời trong đó có Tchaikovsky (1840-1893) trong vở nhạc kịch Romeo and Juliet và
bản giao hưởng Manfred Symphony. Bài thơ của tôi gởi Nguyễn Xuân Hoàng được viết
lại từ bài Giấc Mơ Của Balakirev (Balakirev’s Dream), thơ Tomas Transtromer,
theo bản tiếng Anh và bản dịch của Cao Thu Cúc trên Văn Chương Việt.
balakirev
đang dự một cuộc hòa nhạc
và
rồi ông ngủ thiếp đi
chợt
ông mơ thấy mình đang đi trên cỗ xe ngựa thời nga hoàng
chiếc
xe ngựa lăn bánh trên con đường lát đá
chạy
thẳng vào vùng bóng tối của tiếng quạ kêu
balakirev
ngồi một mình trong xe. nhìn ra ngoài
có
khi ông bước xuống chạy cùng với những chú ngựa
mảnh
trăng mùa đông cũng chạy theo cỗ xe. qua những hàng bạch dương. dưới trời khuya.
a. cuộc hành trình dường như đã dài lâu
trên
ngôi nhà thờ cổ. chiếc kim đồng hồ bây giờ chỉ năm. thay vì chỉ giờ
và
trên cánh đồng có một chiếc cày bỏ quên
chiếc
cày là con chim gãy cánh
trong
vịnh. giờ này. một chiếc tàu đang neo đậu
chung
quanh tuyết phủ. không một ánh đèn
thủy
thủ lên đứng hết trên boong tàu
chiếc
xe ngựa chạy qua vùng băng tuyết. bốn bánh quay. quay. tiếng lụa xé
balakirev
tới gần một chiếc tàu chiến nhỏ
chiếc
sebastopol
giờ
đây ông đang ở trên tàu. các thủy thủ vây quanh
một
người trao ông cây đàn cổ:
“ông
sẽ không chết nếu ông chơi đàn”
Như
thế đó, cuộc hành trình của Balakirev kết thúc. Như đời tôi, đời bạn, đời Nguyễn
Xuân Hoàng sẽ kết thúc. Nó kết thúc với một hy vọng (hay ảo vọng?) rằng “ông sẽ
không chết nếu ông chơi đàn”, có nghĩa là nhà nghệ sĩ, người sáng tạo đã ca hát
trước cuộc đời và hiến dâng cho đời sẽ sống mãi với thời gian.
Lời từ biệt của Tagore
Với
hai bài thơ, Mảnh Trăng và Giấc Mơ Của Balakirev, tôi muốn trao tới Nguyễn Xuân
Hoàng một nhắn gởi và một tâm tình. Hoàng ạ, chúng ta đã cùng với mảnh trăng
mùa đông đi qua vòng đầu của địa ngục, ghi khắc lời mình trên đá, và đã tới bờ.
Bên kia bờ, cuộc đời thôi đã khác. Và cùng với nhà soạn nhạc lừng danh của nước
Nga, chúng ta đi trên chiếc xe ngựa cổ vượt qua mùa đông tuyết phủ tới con tàu
nằm trong vịnh giá băng, với hy vọng là những nghệ sĩ đã ca hát cho niềm vui và
nỗi buồn của con người sẽ không bao giờ chết.
Bây
giờ, tôi xin trích đọc cùng với Nguyễn Mạnh Trinh một đoạn văn rất đẹp của Nguyễn
Xuân Hoàng trong Đoản văn viết ở Cali. Bài “Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão”:
“Cali
mưa cơn mưa nhỏ chợt đến chiều nay trên đường Westminster như một người khách lạ
không hẹn mà tới, Những hạt mưa lớn, thưa, gõ từ tốn trên mặt kính chắn gió
nghe như tiếng mưa thuở nào rơi trên mái tôn trước hiên nhà.
Bầu
trời ẩm đục, thấp và nóng. Cali đang mùa hè. Cơn mưa tuy không đủ sức làm dịu
những cục than hồng, nhưng có thừa cái sắc bén của con dao cau rạch trong tôi
những vết thương hoài niệm.
Mưa
gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor- Westminster là những mũi kim xoi đằm trí nhớ.
Mưa dẫn tôi đi trở về trên những con đường quen, khu phố cũ, những bạn bè xa
xưa…”
Trong
những ngày này, ước mong Nguyễn Xuân Hoàng có tâm bình an với hành trình của
mình. Trở về hay đi tới thì cũng là hoan ca như cây sáo của Tagore đã được Đấng
Chí Tôn phả đầy âm nhạc vào trong đó… Và xin nhắc lại lời chia tay của thi hào
xứ Ấn Độ:
Tôi
đã được mời tới lễ hội trần gian này, và tôi cảm thấy đời tôi tràn đầy ơn phước.
Tôi đã được nhìn và được nghe bao điều. Trong hội vui, phần tôi là chơi nhạc
trên cây đàn của mình, và tôi đã chơi hết sức tận tình.
Giờ
đây xin hỏi, đã đến giờ chưa để tôi được phép bước vào diện kiến Người và dâng
lên Người lời chào kính lặng thầm?
Tôi
phải ra đi rồi đây. Anh em ơi, hãy nói lời từ biệt tôi! Tôi cúi đầu chào tất cả
và cất bước lên đường.
Đây
tôi trả lại chìa khoá cửa, và trao ngôi nhà lại cho anh em. Tôi chỉ xin anh em
lời tử tế cuối cùng.
Khi
tôi từ giã nơi đây, xin nhớ lời tôi chia tay, rằng những gì tôi đã được hân
thưởng thật đã quá tràn đầy.
Tôi
đã được nếm mật ủ trong lòng bông sen đang nở cánh trên biển ánh sáng, và như
thế đã là diễm phúc rồi, và đây là lời từ biệt của tôi. (Gitanjali-Tagore)
NGUYỄN
XUÂN THIỆP
18.8.2013
*Bài
này tôi đã đọc cho Nguyễn Xuân Hoàng nghe trong lần đi cùng với Đinh Cường qua
thăm Hoàng năm 2013. Lúc bấy giờ Hoàng đã
yếu lắm. Nay Hoàng đã ra đi xin gởi theo
như một lời tang ca tưởng niệm bạn.
Saturday, November 8, 2025
HUẾ OÁN
Tô
Thùy Yên
Huế ơi…
Nửa
khuya, vua trẻ lìa kinh khuyết
Từ
đó, thâm cung lạnh lửa đèn...
Trường
thành nhiều chỗ đã sụt lở
Thương
em còn thơm hồn nhãn sen
Mấy
bận, sóng thần lấp cửa phá
Đêm
giông, mẹ nhắc chuyện năm Thìn
Bạn
về quê bạn, đường xa ngái
Trong
nớ, ngoài ni, nhớ chẳng yên
Tóc
mai rụng đã bao nhiêu sợi
Mãi
chẳng nguôi thầm một lỡ duyên
Sông
chậm lặng trôi đời ẩn nhẹm
E
tản đi hương bóng chập chờn
Nắng
mưa đâu chẳng là mưa nắng
Sao
nắng mưa này da diết hơn?
Một
buổi, mây qua tầng tháp cổ
Trăm
năm, em khóc lẽ vô thường
Mùa
nhãn, mùa sen chừng đã quá
Lâu
rồi, công chúa chưa về thăm
Khói
sương trúc đá nỗi vương vất
Nhang
thắp, nghe đời chạng vạng thêm
Đèo
cao, phá rộng, sông trăm nhánh...
Chuyển
bước làm sao khỏi động tâm?
Chim
kêu, ghềnh khóc, sóng tan dạ...
Người
lỡ thời đi tới xứ mô?
Một
mai, chắc mỗi điều duy nhất:
Rêu
mốc mờ thêm những đã mờ
10.1999
TTY
Sunday, November 2, 2025
NGUYÊN YÊN. KHOẢNG TRỐNG GIỮA NHỮNG VÔ NGHĨA TỒN TẠI. VÀ NHỮNG BẤT TỬ ĐÃ BỊ DẬP TẮT
Nguyễn
Thị Khánh Minh
Tranh Đinh Trường Chinh
Nguyên
Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập
thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần
thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật
Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến
Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng,
hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi
cuốn. Trong một trang thơ của Việt Báo, tôi đã giới thiệu về Nguyên Yên với đôi
dòng cảm nhận như sau:
“Một
nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có
độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ.
Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới
lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về
lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ mang tính triết lý, đầy
suy tư cá nhân, gây được rung động, cảm xúc Thơ nơi người đọc?
Thơ
Nguyên Yên có một gợi mở như thế.
Thơ
của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá
đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc (là
khi trái tim phỉnh cái đầu…), và vì vậy thơ vừa hiện đại vừa đầy chất thơ, và
nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm
được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư, trực diện, mà vẫn ánh lên nét
thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố
mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọc, để tạo ra một lớp độc giả cho
mình…” (Hết trích) (https://vietbao.com/a311042/dong-tho-nguyen-yen)
NGUYÊN
YÊN. NỖI THAO THỨC CHỮ NGHĨA
Xin
cùng đọc bài thơ sau đây, một độc thoại về thân phận chữ nghĩa, cả về thân phận
con người khi vận chữ long đong. Chữ nghĩa, theo Nguyên Yên không chỉ thuần về
mặt văn chương, mà nó là tấm gương phản chiếu cuộc sống, tâm thức con người.
Trong
cuộc sống hiện đại, những điều vô nghĩa được lên ngôi và có những điều vô cùng
cần thiết lại bị xem nhẹ, giữa nó là khoảng trống hụt hẫng, trong đó đầy tra vấn
lương tri và sự thật. Bài thơ đẩy người đọc suy nghĩ đa chiều. Đây là một chiêu
thức, một thi pháp đặc biệt của Nguyên Yên, khi đọc thơ cô, chúng ta phải liên
tưởng đến nhiều tia sáng phản xạ từ một nguồn chiếu.
VÔ
NGHĨA
Anh
viết cho em câu chuyện chữ nghĩa
thứ
chữ nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con
xuyên
miền lửa đạn
cay
xè lời ru khúc ly tan
ầu
ơ con ngủ cho ngoan
để
mẹ đào đất xây nhà cho cha.
Anh
viết cho em
câu
chuyện đường xa,
quê
cha đất tổ phôi pha ngày về.
Anh
viết cho em
câu
chuyện thời đại chúng ta
những
cặp mắt ngày nhắm đêm mở
chằm
chằm nhìn quá khứ
không
cho tương lai thở
những
gốc cây bứng rễ
èo
uột sinh sôi trên đất mớ.
Anh
viết cho em
phiên
bản cuộc đời
những
mảnh vụn lắp ráp từ cuộc hôn nhân vội
thoả
hiệp mưu sinh
tiếng
ngáy ngày mê sảng
nỗi
buồn đêm trằn trọc tiếng thở dài của
những
vì sao.
Anh
muốn nói với em
câu
chuyện chữ nghĩa
thứ
chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng
ngọn
lửa
thứ
chữ nghĩa đưa chúng ta trở về
nơi
giấc mơ có hình thù,
ngày
tháng không đóng khung,
chúng
ta lại biết bật khóc, bật cười
biết
quay đầu lại
làm
người.
Anh
viết cho em
câu
chuyện chúng mình
Những
đứa con của mẹ đã một lần
trồi
lên từ móng vuốt đại dương
trái
tim một lần
vượt
rào cách trở
một
lần sang bên kia bờ
nghe
dòng sông hát
khúc
mộng mơ!
Bầu
trời chúng mình
nghênh
ngang rộng mở
nhưng
chúng ta, thế hệ chúng ta,
xác
thân đóng đinh vào quá khứ,
linh
hồn quen núp mình trong bóng tối
sợ
sệt từ chối hít thở.
Hạnh
phúc chúng mình
chỉ
một thoáng cái đầu yếu hèn, toan tính
ngọn
lửa tình muôn đời dập tắt,
và
trái tim không nguôi của chúng ta
mãi
hoài là chiếc bóng cô đơn
lởn
vởn trong màn trời ký ức.
Anh
vẫn phải viết câu chuyện chữ nghĩa
nào
có nghĩa lý gì
chỉ
còn lại thứ chữ nghĩa
không
viết cho ai,
không
với ai,
không
vì ai.
26/02/2017
Câu
chuyện chữ nghĩa. Một thứ chữ nghĩa theo phận nước đi qua nhiều thời gian. …chữ
nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con/ xuyên miền lửa đạn/ cay xè lời ru khúc ly tan.
Chữ nghĩa đi từ ký ức của lịch sử, của cuộc sinh tử: Những đứa con của mẹ đã một
lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương/ trái tim một lần/ vượt rào cách trở/ một
lần sang bên kia bờ…, đi từ nỗi ly hương: quê cha đất tổ phôi pha ngày về…
Một
ký ức không thể lãng quên. Và nó luôn là nỗi ám ảnh, chằm chằm nhìn quá khứ/
không cho tương lai thở. Chữ nghĩa bị phủ đầu cả hai chiều, quá khứ và tương
lai, và hiện tại kẹt giữa: những gốc cây bứng rễ… thế hệ chúng ta/ xác thân
đóng đinh vào quá khứ/ linh hồn quen núp mình trong bóng tối/ sợ sệt từ chối
hít thở.
Nguyên
Yên và người cùng thế hệ cô đã phản ứng thế nào khi đem chữ nghĩa đối diện với
thân phận con người trong đời sống hiện tại? Một cuộc sống kết lại từ mảnh vỡ của
toan tính hạnh phúc, của cơn mưu sinh mê sảng. Một cuộc sống mà khi người ta
hít thở chỉ thấy nhịp tim chỉ còn là chiếc bóng cô đơn.
Trong
mớ hỗn độn của thời đại mà Nguyên Yên trưng ra như thế, họa chăng cứu vớt được
một chút, là còn tiếng thở dài của sao đêm, giữa những hình ảnh suy tư thì bóng
cô đơn này bộc lộ bản chất thi sĩ nơi Nguyên Yên, nhờ đó mà có thứ chữ nghĩa
đánh thức cơn mê, thổi bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết
quay đầu lại/ làm người…
Cú
đập ở đoạn cuối, làm tôi hụt bước.
Chỉ
còn thứ chữ nghĩa không viết cho ai, không với ai, không vì ai, quay ngoắt, phủ
định hết mọi ý nghĩa ban đầu, tạo nên một hụt hẫng, trống rỗng. Đâu thể mất trắng
như vậy, nhìn lại xem, những điều cô đã nói với chúng ta, về sự ý nghĩa của một
quá khứ không thể tách rời khỏi ký ức, nó có ý nghĩa của một tồn tại không chối
cãi, hoặc giả tôi có thể nghĩ rằng, cái khát khao lấy thứ vũ khí duy nhất mình
có là con chữ để thổi bùng/ ngọn lửa, khiến cô đã bị tổn thương trước sự đổ vỡ
của mọi giá trị trong một thời đại suy tàn, Bài thơ nhấn mạnh về điều tồn tại
vô nghĩa nhất là làm biến đi những điều có nghĩa.
Cho
nên đoạn cuối là một phủ nhận để lên án, để đặt ra vấn đề: chữ nghĩa (nói về niềm
tin, đạo đức, nhân ái, lương tri, tình yêu… nói chung là những giá trị đẹp đẽ)
có còn ý nghĩa trong thời đại hôm nay? Đặt người đọc vào sự phản tỉnh, cũng như
khát vọng về sứ mệnh của chữ nghĩa.
AN
TOÀN
miễn
biết tránh xa tiếng chim hót, bông hoa lạ
miễn
cứ đi đường thẳng không quay phải quay trái
miễn
đừng nghe cũng đừng có nhu cầu kể với ai chuyện gì
đừng
cười, đừng khóc, quan trọng nhất
đừng
mong chờ
không
mở sẽ không đóng
không
nở sẽ không tàn
cuộc
đời như cơn đại dịch
một
khi có chủng ngừa,
không
cần sợ.
8/7/2020
Một
an toàn như thế có thật sự làm bình an không, hay là cái vỏ bọc ngày cứ đan dày
thêm tâm thái phủ nhận, trốn tránh, phòng thủ. Nói cách khác của sự phòng thủ,
là sự vong thân của con người với chính mình và với cuộc sống.
Nếu
nhân lên tỷ số phận trên trần gian này thì bạn thấy một thứ chữ nghĩa vực dậy
niềm tin cần thiết cho chúng ta đến chừng nào!
CUỐI
CÙNG
sẽ
có một ngày
bài
thơ không còn được viết bằng chữ
ký
ức là trang giấy trắng
một
ngày khi khuôn mặt của giấc mơ không còn
chúng
ta không tồn tại
chỉ
còn lại
một
ngày của mọi sự vắng mặt
và
tình yêu như cơn đau
thoát
kiếp luân hồi.
26/7/2017
Nếu
ở Vô nghĩa, có nỗi buồn giữa khát vọng và những phủ định, thì bài thơ Cuối Cùng
là hệ quả đưa đến những nghi vấn triết lý về hiện hữu và hư vô.
Khi,
“bài thơ không còn được viết bằng chữ”, ký ức là “trang giấy trắng” “khuôn mặt
giấc mơ không còn” và “chúng ta không tồn tại”. Để rồi, đến cái tận hư vô “mọi
ngày của mọi sự vắng mặt”, Nguyên Yên muốn đặt hai đối cực đó để nói, - điều gì
sẽ xẩy ra nếu chữ nghĩa không còn hiện hữu, - để lại được khẳng định một điều,
sự cần thiết của một thứ chữ nghĩa thổi tắt những cơn mê sảng của nhân loại.
Ở
hai câu cuối -thơ Nguyên Yên thường đặt trọng tâm ở kết bài thơ-, một là phủ nhận
điều đã đặt ra, hai là làm nặng thêm một khẳng định mới. Ở đây, Nguyên Yên đưa
ra một sự tồn tại trong những thứ đã mất đi, đó là Tình Yêu, như “cơn đau thoát
kiếp luân hồi”, một đáo-bỉ-ngạn của tình yêu chăng, nói cho cùng, Tình Yêu là một
phạm trù tương đồng với Chân Thiện Mỹ, như vậy thì ta hiểu rõ hơn hồn thơ trữ
tình, lãng mạn nơi Nguyên Yên.
NGUYÊN
YÊN, TÌNH YÊU, NỖI THẤT LẠC VÀ NIỀM TIN.
Có
là phỉnh gạt hay hoang tưởng, hoặc có thể là ngây thơ, khi người ta còn niềm
tin vào những điều mình hằng tin hay chăng? Trong tâm thái ấy Nguyên Yên cứ như
vừa đi vừa đối mặt, vừa nhìn vừa tra vấn nội tâm. Sự tự hỏi như thế, đưa đến
tâm trạng thất lạc, cũng không khó hiểu khi cảm nhận cùng lúc cái mong manh và
trường cửu, tin cậy và hụt hẫng. vết tích cuộc tình/ như cơn mê về/ vỡ tan… làm
sao bôi xóa hết/ những vết nứt hằn sâu… hình ảnh những giấc mơ/ từng cơn buốt
nhức…
ĐÊM
cuối
năm
mưa
giao thừa đổ dốc
mặt
lộ trơn tuột mọi chuyển động
những
bóng ma
phản
chiếu ngày tháng tuột dần
mưa
đêm
như
dòng lệ đổ
cơn
sầu vào thành phố
vào
mảng tim khô
vào
tận cùng thân xác
nơi
vết tích cuộc tình
như
cơn mê về
vỡ
tan
đêm
ba mươi
xối
vào ký ức
hình
ảnh những giấc mơ
từng
cơn buốt nhức
làm
sao bôi xóa hết
những
vết nứt hằn sâu
từ
phỉnh gạt
từ
hoang tưởng
làm
sao bôi xóa hết
khi
trái tim
còn
thức.
26/02/2017
Ở
câu cuối, tôi bắt gặp được sự vừa hoang mang vừa tin cậy -Trái tim còn thức-.
Nó ý thức rất rõ cơn mê về sự vỡ tan, đồng thời cũng được ngầm hiểu cả gặp gỡ hạnh
phúc. Tại sao không? Nguyên Yên cũng đã cảnh tỉnh vào niềm tin trái tim, còn một
điều đó, coi chừng đừng để mất. Chỉ một câu kết đóng lại những ý của những câu
trên, mà mở một không gian mới, mà mở ra mấy tầng cảm nhận. Tôi thích cách cấu
trúc bài thơ kéo người đọc tìm ra thêm cảm xúc mới về bài thơ. Đó là thi pháp
Nguyên Yên.
Nguyên
Yên nói không ngập ngừng, trái tim, nơi có cơ may kéo cô thoát khỏi “những buốt
nhức của giấc mơ” “những vết nứt” để lại từ khoảng trống. Nó có lý lẽ riêng của
nó “để lừa phỉnh cái đầu”.
Nguyên
Yên cảm xúc về tình yêu thế nào qua vụ lừa phỉnh đó?
KHOẢNG
TRỐNG
người
ta không thể nhìn thấy nó
không
biết gì về hình dáng, thể chất của nó
cũng
không có khái niệm về độ sâu hay chiều cỡ của nó
liệu
nó phi hạn hay giới hạn
người
ta chỉ biết mình có nhu cầu,
chắc
nịch như niềm tin tôn giáo
như
người đàn bà trong cơn lên đồng
khăng
khăng đòi lắp đầy thiếu vắng
bằng
tình yêu căng phồng.
8/7/2020
Một
định nghĩa về Tình Yêu rất hiện đại, rất bóng bẩy, rất trữ tình.Trữ Tình, hiểu
theo nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường, là biểu lộ một cái gì rất riêng. Tình yêu
là khoảng trống, là khăng khăng đòi lắp đầy thiếu vắng/ bằng tình yêu căng phồng.
Hình ảnh ấy dẫn bạn tới đâu?
Cùng
với tâm trạng dỗi hờn của đứa trẻ:
CÔ
ĐỘC
tôi
không một mình
thật
ra có nhiều người quanh tôi
thậm
chí có người luôn bên cạnh săn sóc tôi
nhưng
tôi nghĩ đến anh, trong giấc mơ
và
khi thức tỉnh
mở
mắt thấy mình như đứa trẻ thất lạc bị bỏ rơi
mím
môi dặn lòng
từ
nay nó sẽ chẳng bao giờ cho mình
quyền
nghĩ tới ai nữa.
8/7/2020
Sợ
cô độc nên tước bỏ quyền nghĩ đến người khác. Sợ nghĩ thì sẽ rơi vào cảm giác bị
bỏ rơi. Và, cô độc, tước bỏ “quyền nghĩ tới ai” là cách bảo vệ an toàn cho tâm
trạng thất lạc chăng.
Những
nhà thơ nữ hiện đại có cách để nổi bật cái riêng của phụ nữ tính qua thơ, từ
hình ảnh, ngôn từ trực diện, đến cấu trúc của bài thơ và đa số, họ tôn trọng ý
hơn lời. Ở Nguyên Yên theo tôi, cô có bản lãnh trong cách chế ngự cảm xúc, và
cô không hy sinh giữa Ý và Lời, nên thơ hiện đại của cô xúc tích, vẻ đẹp của từ
và hình ảnh được nâng lên thành thi ngữ, thi ảnh. Đó là điểm để nhận được
Nguyên Yên giữa dòng thơ nữ hiện đại.
NHẸ
DẠ
từ
biệt tích anh ta trở về ghé thăm
vẫn
khẩu trang, áo cao su bảo vệ linh hồn, và
bảo
vệ nguyên tắc không lây nhiễm
cảm
xúc - anh nói – thứ phiền phức rẻ tiền
hệt
như mong muốn vô hạn của đàn bà
làm
đàn ông mất hứng
hai
người trò chuyện
hơi
ấm mặt trời mơn trớn
cửa
bên trong người đàn bà hé mở
miền
đất từ lâu không dung nạp sự sống
dòng
nước chảy ngang nảy hạt
cong
về ánh sáng quên lòng đất tối
hai
người trò chuyện
không
sự thật nào tác động trái tim anh đá lửa
kho
tàng nếu có, chìa khóa đã vĩnh viễn bị đánh cắp
thành
trì bao năm sừng sững
kiên
cố niềm tin thép
thà
chết ngạt nhất định không thất thủ
hai
người trò chuyện
đối
thoại giữa đàn ông và đàn bà
bao
giờ cũng kết thúc bằng cuộc hẹn
nơi
người đàn ông sẽ mài dũa bảo vật thiêng liêng
trong
cái áo cao su không xuyên thủng
và
người đàn bà lại một lần nữa
rách
toạc.
17/09/2021
Đằng
sau cuộc hẹn của hai người là gì? Là tâm hồn nhạy cảm và ngây thơ của người đàn
bà, là cảm giác hụt hẫng trước những điều không giống như mình nghĩ. Nguyên Yên
dùng những hoài vọng, nghi vấn, thậm chí cả rách vỡ chia tan, vết thương, để nhắc
tới tình yêu, ý và lời ở bài thơ này là một cầm chịch vững vàng giữa buông thả
cảm xúc và thẩm mỹ từ, phải nhận ra điều ngược lại ẩn kín để hiểu điều được
phơi bày ra.
BẤT
DIỆT
đã
qua hơn hai ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm
thời
gian không gian ngả màu
cái
còn lại duy nhất
của
anh của em
vẫn
không ngừng mọc lên
cái
còn lại duy nhất
vết
thương ngày hôm qua cho nhau
vẫn
mọc lên
trơ
vết thẹo lồi
tưởng
vọng một ngày thôi đâm vào xương thịt
vết
thương ngày hôm qua anh cho em
vẫn
tiếp tục hành trình
những
ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ
ký
ức còn mở mắt
quanh
co không thể trở về
vết
thương ngày hôm qua
vẫn
trồi lên, trồi ra
như
chúng ta
bao
lần đơm hoa
bao
lần vùng vẫy
cố
thoát
hai
ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm đã qua
vẫn
như lần đầu
nhấn
vào trong em
thứ
khổ đau
ngàn
đời rỉ máu
19/5/2020
Bạn
có thấy ở đây là những con chữ của tình yêu, dù cái còn lại duy nhất của anh và
em là cuộc hành trình của vết thương. Nhân chứng là thời gian. Vết thương được
cảm nhận như một “thú đau thương”, vì nó là quả của bao lần đơm hoa/ bao lần
vùng vẫy/ cố thoát… Tất cả, để chúng ta hiểu được những điều đã được Nguyên Yên
định nghĩa bằng chữ Bất Diệt, mà biểu tượng là ngọn lửa nhảy múa trong tim:
NGHĨA
ĐỊA TÌNH YÊU
nếu
tình yêu là có thật
một
lần nhìn thấy
một
khoảnh khắc ngắn ngủi sống
một
lần hít thở đầy lồng ngực
nếu
tình yêu là có thật
bông
hoa mọc trong trí óc
ngọn
lửa nhảy múa trong tim
một
lần cháy sáng
nếu
tình yêu là có thật
chúng
ta đã một lần chắp cánh
một
lần bay cao
dạn
dĩ khờ khạo
nếu
tình yêu như nỗi đau là có thật
hãy
để em mang chôn nó vào lòng đất tối
và
anh
anh
sẽ không thể
một
lần nữa đâm chết nó.
13/2/2025
Bạn
ạ, tôi nhẹ nhõm. Tôi không chờ đợi gì hơn khi đây là một nghĩa địa mà chúng ta
cần: nếu tình yêu như nỗi đau là có thật/ hãy để em mang chôn nó vào lòng đất tối.
Thật đáo để khi dùng nhan đề ấy để đánh vào cảm xúc (vì bản thân của mong manh
thường sợ một báo động đau đớn). Thật đầy đủ khi nghĩ về Tình Yêu như thế, một
bông hoa mọc trong trí óc, ngọn lửa nhảy múa trong trái tim. Nó hợp tác nhau để
thăng hoa. Tôi nghĩ “nếu” ở đây là một cách nói khác của khẳng định. Phải nói,
bài thơ nói về tình yêu này của Nguyên Yên là một vì sao lạ trong bầu trời thơ
Tình Yêu.
HẾT
khi
hoa nở
là
lúc bắt đầu tàn
khi
sao sáng đỉnh trời
là
tới giờ lẩn biến
câu
chuyện chúng mình
những
ngày hè rực rỡ đã qua
bao
mùa dâng hoa
bao
cơn tột đỉnh
tình
yêu một lần có thật
thức
dậy từ con mắt bình minh
cơn
mưa đầu mùa nồng nàn
cầu
vòng hò hẹn
chúng
ta một lần dào dạt
như
đất với trời
như
anh trong em
đêm
tràn huyệt mộ
quy
luật trò chơi
đến,
đi, được, mất
kết
hợp nào
cũng
là khởi đầu tan rã
chỉ
có trái tim
từ
chối luật thời gian
say
cơn khải hoàn
ngụp
lầy hạnh phúc
và
khi chia tay điểm giờ
soi
gương nhìn lại
thấy
hồn mình một nghĩa địa già nua
mọi
cảm xúc giơ xương chờ
mục
rữa.
3/8/2025
khi
hoa nở/ là lúc bắt đầu tàn… kết hợp nào/ cũng là khởi đầu tan rã. Cô bạn nhỏ của
tôi, đó là nhận biết về vô thường, về duyên khởi. Nên biết được giá trị của
phút giây, của những gì một lần, những ngày hè rực rỡ/ bao mùa dâng hoa … chúng
ta một lần dào dạt/ như đất với trời/ như anh trong em… và, thêm lần nữa, sau
bài Đêm, Nguyên Yên lại khẳng định quyền năng của trái tim, chỉ có trái tim/ từ
chối luật thời gian. Đó có phải là Tánh không? Như Phật ngữ nói cái Tánh tồn tại
mãi. Cho nên Hết của vạn pháp là một khởi đầu mới.
Tất
cả thơ về tình yêu của Nguyên Yên, dù cô đi bằng đường vòng, đường thằng, đường
díc dắc, hay thậm chí đứng một chỗ sau lùm cây, thì vẫn có những mũi tên bí ẩn
để chỉ cho ta niềm tin cậy và nương tựa vào điều có thế cứu rỗi con người, là
Tình Yêu.
NGUYÊN
YÊN- KHOẢNG TRỐNG VÀ HOÀI VỌNG
BẤT
HẠNH
giả
sử hôm nay như mọi ngày
con
chim cu vẫn đến gõ vào cửa kiếng
căn
phòng vừa sáng đủ
để
cặp mắt trong tối tìm ra
điểm
dừng
giả
như bình minh vẫn mọc mỗi sớm mai
mùi
cà-phê điểm tâm vẫn khuấy lên
thứ
ma lực xỏ đôi chân
vào
thế giới mở – khua
thức
dục vọng
giả
như cuộc sống vẫn tràn đầy
mùi
hoa nhài đầu ngọn gió vẫn tỏa hương
nồi
cơm sôi thơm ngát xới vun bát
bên
nhau xùm xụp húp
chén
say đầy mãn
giả
như cuộc đời vẫn là
những
cuộc săn đuổi tất bật
mắt
mở say mê
đầu
hùng hục húc
tim
không sợ
giả
sử niềm tin vẫn sáng soi
xác
tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà
khói
hương xì xụp vái
cầu
người đã bỏ ta đi
đừng
bỏ ta đi
giả
như giấc mơ vẫn trở về
người
khách lạ hàng đêm vẫn ghé vào
góc
xó hiu quạnh của tâm hồn
nỉ
non âm điệu
rù
quến
giả
như tình yêu không xảy ra
mọi
thứ chân xác còn nguyên vẹn
như
quê hương chưa từng chiến tranh
lịch
sử chưa tranh lấn
chúng
ta chưa hề khai quật
và
con người lại được sinh ra
tinh
khiết như bản năng
trí
khôn nhắc trái tim tránh
lập
lại tai họa
phải
làm thế nào
người
ta nói điều gì xảy ra
sẽ
phải xảy ra
một
ngàn đời nữa
bao
giờ trần gian còn lỗi lầm
con
người còn bị trừng phạt
mình
còn phải
gặp
nhau.
26/10/2021
“Giả như” là hoài vọng từ khoảng trống-một thứ
hố thẳm- trăn trở không ngừng, trước một xã hội mà chân-giả bị đánh đồng, mà
con người luôn bị đánh động bởi dục vọng,
Những
“giả như” vừa muốn níu giữ sự tồn tại của cái đẹp, nhưng cũng phơi bày nỗi cô
đơn và khát vọng trước những bất toàn, lỗi lầm của trần gian, con người bị trừng
phạt. Nên chi, mình còn phải/ gặp nhau… Để chi vậy?
Để…
Chờ.
HÃO
mỗi
ngày
đứng
trước gương tôi chờ
bên
trong tấm gương cặp mắt chờ
chiếc
bóng trên tường chờ
bài
thơ cũng chờ
chờ
đến một ngày
thời
gian phủ mờ ký ức
và
sẽ chẳng ai làm sao còn nhớ nổi
mình
đang chờ đợi
chuyện
gì
26/7/2017
Dằng
dặc như kiếp người. Sống như để chờ đợi. Vừa có mục đích vừa như không gì cả.
Thời nào cũng cứ luôn như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế
kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ… Mỗi
thời đại đều cống hiến cho con người một nỗi buồn thế hệ. Nó mang nét u sầu, bức
phá, thất vọng, nhưng ở đây trong thơ Nguyên Yên nó thể hiện không phải chỉ ở
tính thất vọng mà còn từ mơ ước được tốt đẹp hơn, cho dù nhan đề bài thơ đã nói
Hão, nhưng như tôi đã nói, đọc thơ Nguyên Yên, cái hiểu không một lối mà nhiều
ngõ. Đằng sau Hão là một tiếc nuối, một hy vọng. Và tôi thấy được một niềm tin
rất trong trẻo, con người lại được sinh ra/ tinh khiết như bản năng…Thiệt mà
nói, khó đào xới cho ra ở vào thời này, một cô gái hiện đại, lại giữ được cái mầm
khí trong sáng: bản năng con người là tinh khiết (nhân chi sơ tính bổn thiện),
thế thì, niềm tin vẫn sáng soi/ xác tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà và
hoài vọng của cô cũng đã le lói sự sinh ra của những con chữ xóa được cơn mê sảng
của nhân loại. chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người.
Nguyên
Yên luôn đặt mình trước câu hỏi về sự hiện hữu và hư vô. Hiện hữu như một níu
kéo ngay trong khoảnh khắc nó tan biến. Và hư vô trong sự vắng mặt của chính
mình. Dường như là phân vân -để làm gì-, trước tất cả những mâu thuẫn, của cuộc
sống và thân phận con người,
này
các người nhân danh tình yêu
ở
đây tôi hiện hữu nơi này
hiện
hữu dù chỉ trong im lặng
hiện
hữu cả trong cơn bôi xóa
(Điếu
Ca)
HẾT
không
phải không có ai
mà
là có quá nhiều người đã từng ở đó
giờ
không là ai cả
không
phải vì thiếu vắng điều gì
mà
là có quá nhiều thứ từng là cần thiết
giờ
không là gì cả
7/2025
VẮNG
NHÀ
những
trái ớt chín, khô héo trên cành
bình
hoa tulip trên bàn, gục đầu ủ rũ
căn
phòng không màu không mùi không vui buồn
chỉ
những nốt lặng, trào ra từ cây piano
đậy
nắp
người
chết không hót không bay không nhảy múa
con
hạc mào đỏ* xếp cánh thôi mơ thôi thơ
con
chó thất lạc buồn rầu
ngọn
gió vô tâm, xào xạc
không
tin nhắn
trên
tầng mây kia hay dưới lòng đất này
chả
nhằm nhò gì nữa
trong
nghĩa trang tâm hồn kẻ ở
sự
vắng mặt của người đi**
là
phần mộ vĩnh hằng.
23/11/23
TRỐNG
TRẢI
là
sự vắng mặt của thứ từng hiện diện
sự
im lặng sau tiếng nói hằng thân thiết
là
khoảng trống đã một lần tràn đầy
là
máu trong tim – ngưng chảy
là
bầu trời vắng sao
đêm
hoang vu không đèn
con
đường thênh thang vô định
giấc
mơ chưa thức - đã quên
là
lý tưởng sụp đổ
giải
Nobel hòa bình bị thu hồi
người
ôm bom nổ banh xác
không
để lại lý do, chính kiến
là
thả rơi linh hồn
giữa
những vách đá hẹp
chung
quanh không đài tưởng niệm
không
đền ma quỷ thần thánh
là
sự mỏi mệt tận cùng
chẳng
còn điều gì kích động được ký ức
câu
chuyện không nghe, không kể
nốt
nhạc im hơi, bặt tiếng
là
khi nước mắt khô đi
mọi
thứ đều trở nên dư thừa
hiểu
biết càng vô hiệu
những
đốm loang không thể tẩy xóa
là
khi đời sống không còn khiếp đảm
vết
thương không hút tỉa
khuôn
mặt người thương không còn diện mạo
sự
trống rỗng không ngừng đục khoét
là
chốn cuối cùng sau mọi sự hủy hoại
của
một lần, một thời tín ngưỡng
tình
yêu, con đường, ánh sáng, bản nhạc
cả
bóng tối cũng không buồn nấn ná
là
sự dừng lại – vĩnh viễn
ở
đây – hay bất cứ nơi đâu
15/08/2023
DỨT
đóng
chặt cánh cửa,
để
lại tất cả sau lưng
như
thời đẩy mái ngược dòng
ra
đi nhắm mắt hòng thoát
đóng
chặt cánh cửa
nhốt
từng giấc mơ sao trời
khóa
trái mọi trối trăn
những
hồn ma hệ lụy
đóng
chặt cánh cửa và quăng đi chìa khóa
chiếc
rương của một thời châu báu
bầu
rượu tràn hớp say
căn
nhà có huyễn tưởng bóng mát
đóng
chặt cánh cửa
vứt
bỏ mẩu quen thuộc cuối cùng nào sót lại
ngoài
kia những chiếc lá ố vàng đang rụng
mùa
thu cũng bỏ đi
đi
như một linh hồn rút lui
không
định trở lại
đi
chuyến nhẹ hẫng về mai sau
cầu
cho trót lọt
4/11/2022
Một
trống trải của hư vô. Một ngưỡng cửa giữa khao khát và thất vọng, là sự dừng lại
– vĩnh viễn/ ở đây – hay bất cứ nơi đâu,
Cửa
đã đóng, chìa khóa đã quăng, cầu cho trót lọt, tôi dựa vào tri giác vô thường của
nhà Phật để hiểu rằng sự dừng lại là một bắt đầu khác.
Ở
bài thơ Vô Nghĩa, Nguyên Yên nhắc lại một ký ức không quên, mẹ gánh con/ xuyên
miền lửa đạn Những đứa con của mẹ đã một lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương…
bài Chờ Đợi tiếp nối thời gian những nỗi nhớ, những khổ nạn thời Sài Gòn phong
ba, thời người ta phải chọn cái sống trên sợi chỉ sinh tử. Trong đó, báo động,
một ký ức để lý giải đầy đủ cho hiện tại đã bị lãng quên lấn chiếm, khiến con
người như cọng phiêu bồng không rễ. những
ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ/ ký ức còn mở mắt/ quanh co không thể trở về,
cái day dứt của một thế hệ sau chiến tranh, ký ức quá khứ cùng với những nghịch
lý của hiện tại.
CHỜ
ĐỢI
chỉ
một tiếng động nhẹ
đủ
bồn chồn thức
biết
không phải anh gọi
vẫn
mở mắt cố tìm một dấu hiệu
cố
thuyết phục mình
như
mỗi đêm đứa nhỏ hồi hộp nhìn ra cửa
mút
tay chờ cha chờ mẹ
đi
cải tạo không về
người
bạn thân lên tàu
đứa
nhỏ mỗi ngày chạy sang nhà mẹ bạn đợi tin
người
mẹ một hôm hóa điên
ôm
chầm nó như ghì xác con vào lòng
Sài
Gòn những đêm cúp điện chờ sáng
bọn
trẻ con trong xóm bu quanh cây me trước nhà
chờ
bà ngoại quết trầu kể chuyện ma
thành
phố chờ rợn gáy
kẻ
rồ dại chờ tình yêu
người
ngây thơ chờ sinh trẻ ra đời
con
thiêu thân chờ đèn
cuộc
sống chờ chết
con
người như con vật thuần phục
chờ
vô điều kiện
chờ
vãi nước miếng
chờ
bất cần thưởng
miễn
trái tim còn đập
ngọn
lửa còn âm ỉ
chỉ
cần lóe lên một tín hiệu
người
ta có thể chờ hàng thế kỷ.
26/10/2021
Tôi
đồng tình với tác giả, sẽ chờ, -dù đó là một nỗi vô hình hay một tiếng động nhẹ
quen thuộc- vẫn chờ, miễn trái tim còn đập/ ngọn lửa còn âm ỉ/ chỉ cần lóe lên
một tín hiệu/ người ta có thể chờ hàng thế kỷ. Nguyên Yên bất chấp tất cả, miễn
trái tim còn thức, một thách thức quyết liệt rất lãng mạn. Thế thì chúng ta sợ
gì sự phá sản của niềm tin vào thế hệ chúng ta đang sống?
Và
chữ nghĩa vẫn còn là khí giới. Hãy đi. đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu/
cấy vào đó khát khao/ chờ phép lạ mọc
TIN
là
khi trái tim phỉnh cái đầu
mở
ra bầu trời
mời
gọi giấc mơ
là
khi chênh vênh trên miệng vực
ảo
tưởng một bàn tay
chìa
ra hy vọng
là
những phút giây hứng khởi bay
ngực
căng dưỡng khí
no
say sung mãn
là
bước vào những mẩu đối thoại hai chiều
mở
cánh cửa ký ức nhìn thấy tương lai
mặc
kệ vết thương sâu hoắm
là
đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu
cấy
vào đó khát khao
chờ
phép lạ mọc
nhằm
nhò gì những chương sách
nhằm
nhò gì những tiên đoán chiêm nghiệm
chúng
ta thừa khả năng viết lại câu chuyện giả tưởng
nơi
con người ai cũng tìm được đối tượng
và
một kết cục có hậu.
26/10/2021
Giả
tưởng mà không giả tưởng. Hãy đọc lại bài thơ xem. Vì người ta không viết bằng
cái đầu mà người ta viết bằng trái tim. ai cũng tìm được đối tượng và một kết cục
có hậu, đó là một hoài mong thật sự, vì trời đâu che riêng ai, đất đâu chở
riêng ai (ngạn ngữ Trung Hoa), nên nói giả tưởng chỉ là một cách làm cho nhẹ đi
nỗi thiết tha của hoài vọng kia thôi.
SINH
NHẬT
tôi
cúi xuống thổi ngọn nến hồng
nghĩ
về những điều bất tử
đã bị dập
tắt
ánh
lửa bếp lò bà ngoại đốt
tiếng
chim ban sáng hót trong hồn
ba
ngàn cánh cửa vào thế giới
giấc
mơ mọc cánh chọc trời
ngôi
nhà thanh xuân
những
cánh cửa mở
cơn
gió xa, bông hoa lạ,
rì
rào ngôn ngữ trái tim
hành
tinh của em
bão
trong lồng ngực
mặt
trời của anh
lửa
trong khóe mắt
khu
vườn tâm hồn chúng mình
những
buổi bình minh
ngây
dại tin yêu
thật
thà tưởng tượng
bầu
trời này mặt đất này
của
chúng ta
sao
mai của chúng ta
bản
nhạc của chúng ta
bài
thơ của chúng ta
nụ
hôn trên môi ta ngọt
chuyến
tàu tuổi trẻ chiếc vé một chiều
những
sân ga những điều bỏ lại
hôm
nay ngày mai là những hôm qua
những
lung linh cuối cùng
chờ tắt.
8/24
Trái
tim mới có thể nhận ra đúng nghĩa của những điều bất tử. ánh lửa bếp lò bà ngoại
đốt/…giấc mơ mọc cánh chọc trời/ ngôi nhà thanh xuân/ những cánh cửa mở/ cơn
gió xa, bông hoa lạ/ rì rào ngôn ngữ trái tim, cho dẫu có thể là một hành trình
chông gai của bão trong lồng ngực/ lửa trong khóe mắt của anh và em. Cho dẫu bầu
trời này mặt đất này/ của chúng ta/ sao mai của chúng ta/ bản nhạc của chúng
ta/ bài thơ của chúng ta/ nụ hôn trên môi ta ngọt là những lung linh cuối cùng
chờ tắt, thì chúng ta vẫn kiên định, Đợi:
ĐỢI
có
khi là ngọn đèn đêm,
có
khi là ánh trăng lệch
có
khi chỉ là đốm cháy nhỏ
cố
tỏa sáng
là
cánh cửa sổ mở tìm cơn gió
là
bản nhạc cũ bật lên
bài
thơ xưa rích trên bàn
đòi
một dấu phẩy
thời
gian qua đi
căn
phòng vẫn nguyên vẹn
như
thể những điều đã một lần khô quánh
trong
tim
lại
có thể - chảy về
3/8/2025
Trong
khoảng trống tưởng vô vọng đã có ánh sáng của nhiệt huyết, có khi chỉ là đốm
cháy nhỏ/ cố tỏa sáng, thì không lý do gì mà chúng ta không hy vọng vào một
ngày được mở mắt thức dậy/ thấy mình là ban mai… ý lời thật đẹp, thật thơ.
BÌNH
MINH
mở
mắt thức dậy
thấy
mình là ban mai của Amanda Gorman*
là
sáng chủ nhật trời quang đãng
nắng
ấm sau cơn mưa dầm
thức
dậy từ bóng tối
thấy
màu sắc mọc lên trên ngọn đồi**
chúng
ta là hành tinh xanh
là
trái đất trở mình sau cơn tắm gội
thức
dậy vượt qua những hố sâu
ngước
mắt nhận anh em, nhận bạn bè
chúng
ta những đứa con của Mẹ***
không
thể ngủ mê trong chia rẽ
thức
dậy ngắm nhìn bầu trời
chúng
ta đã băng ngang mùa đông dài
nụ
hoa xuân trên cành vừa hé nở
có
nghe thịt da tự do hít thở
thức
dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy
nhìn
đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời
lịch
sử trở dậy chào ngày mới
thế
giới nhân văn đang cựa mình
chúng
ta trở dậy
bằng
cặp mắt mở,
hớn
hở như bầy trẻ thơ
tập
ăn nói, tập cư xử tử tế
chúng
ta trở dậy
bằng
nhịp tim bằng tấm lòng
tập
lắng nghe nhau, xóa mọi giận hờn
sửa
soạn tâm hồn cho thông điệp sự thật ****
mở
mắt thức dậy sau đêm mưa
thấy
mình như ban mai trên ngọn đồi
bài
thơ ngân vang trong lồng ngực
và
cái đẹp thức dậy
hồi
sinh.
(Sáng
Chủ Nhật, 24 tháng Giêng 2021, California sau cơn mưa)
*Amanda Gorman, nhà thơ trẻ 22 tuổi đọc thơ
trong Lễ Đăng Quang Tổng Thống Joe Biden ngày 20 tháng 1, 2020
**
Thơ viết cảm tác từ ngọn đồi “The Hill We Climb” của Amanda Gorman.
***
“Những đứa con của Mẹ Da Vàng” – ca từ bài Ngủ Đi Con/Trịnh Công Sơn
****
Ngày 23/1/2021, Trong bản Thư Mục Vụ Bảo Vệ Sự Thật phổ biến ngày 23 tháng 1,
2021, Ngày Truyền Thông Thế Giới, Đức Giáo Hoàng Francis đã lên tiếng: “Tất cả
chúng ta đều có trách nhiệm về thông tin do mình làm ra, do mình chia sẻ, để kiểm
soát (trách nhiệm) như thế thì chúng ta có thể chỉ ra đâu là tin giả. Tất cả
chúng ta đều là chứng nhân của sự thật: gởi đi, đọc và chia sẻ”.
KẾT
TỪ
Bài
viết này, từ ý thơ của Nguyên Yên, tôi làm nên một bố cục theo tư duy, -khoảng
trống giữa những vô nghĩa tồn tại và những bất tử đã bị dập tắt-
Khởi
đầu là bài thơ Vô Nghĩa, và một số bài tiếp theo, là tra vấn về sự tồn tại của
vô nghĩa. Và ở bài Tin, Sinh nhật, là cảnh tỉnh về sự biến mất của những giá trị
thuộc Chân Thiện Mỹ. Giữa hai đầu u hoài ấy là những bài thơ về Tình Yêu, Hoài
Vọng, là thứ ánh sáng được thắp lên từ khoảng trống.
Tại
sao tôi nói khoảng trống. Đó là hình ảnh duy nhất để lại sau những giá trị tốt
đẹp bị ruồng bỏ và những phi nghĩa lý được xem như một chuẩn mực mới.
Thơ
Nguyên Yên đang sống, thở trong khoảng trống ấy, với nỗ lực, hoài vọng vào chữ
nghĩa, một hoài vọng như một thông điệp, thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi
bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm
người… chúng ta trở dậy/ bằng nhịp tim bằng tấm lòng…
thức
dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy/ nhìn đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời/ lịch sử
trở dậy chào ngày mới/ thế giới nhân văn đang cựa mình/…
Căn
nhà chúng ta vẫn nguyên vẹn. Bóng tối của khoảng trống sẽ được phủ lấp bởi sức
sống của cái đẹp, bài thơ ngân vang trong lồng ngực/ và cái đẹp thức dậy/ hồi
sinh.
Và,
thời
gian qua đi
căn
phòng vẫn nguyên vẹn
như
thể những điều đã một lần khô quánh
trong
tim
lại
có thể - chảy về
ntkm
Subscribe to:
Comments (Atom)








