Thursday, November 27, 2025

HAPPY THANKSGIVING

Phố Văn
 
 
 
Gởi các thân hữu và bạn văn.
Mừng Happy Thanksgiving đến với mọi nhà.

Sunday, November 23, 2025

TƯỞNG TƯỢNG GẶP NGUYỄN XUÂN HOÀNG Ở BOLSA

Huỳnh Liễu Ngạn
 


tôi về đứng ở bolsa
nhìn màu ngói đỏ căn nhà* phía sau
thấy tờ tạp chí bìa nâu
có tên tôi với trời sâu mỉm cười
 
kêu chai bia sẵn để mời
nguyễn xuân hoàng tới cùng ngồi cụng ly
tôi làm bài thơ tức thì
ông cầm đọc nói thơ chi mà buồn
 
trời chiều bỗng đổ mưa tuôn
làm nhớ huế rồi nhớ luôn sài gòn
nhớ ngũ lão nhớ ký con
hàng lá thấp cây bông gòn ngã tư
 
rồi ông đứng dậy giã từ
bụi và rác* và sương mù* bắt tay
tôi như người đi trên mây*
khi khói thuốc đã làm cay cuộc đời.
(20.11.24 - 20.11.25)
HUỲNH LIỄU NGẠN
 
Căn nhà ngói đỏ
Bụi và rác
Mù sương
Người đi trên mây
Tên tác phẩm của NXH

  

Friday, November 21, 2025

ĐƯỜNG KHÂU NỐI THỜI GIAN Tuyển Tập II – Chân Dung Văn Học, Nghệ Thuật và Văn Hóa. của Ngô Thế Vinh

NGUYỄN VĂN TUẤN


"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18  văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.  
Để cảm nhận đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà trước và sau 1975. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quí báu về một nền giáo dục mà ngày nay có người 'tiếc nuối vô bờ bến'. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên 3 trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến thức khoa học kĩ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị văn hoá nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.
Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong 4 chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng "Trước và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy." 
Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương 'chuyên chính vô sản' đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ hoạ của một số cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản" có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là "những tên biệt kích văn hoá", "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu huỷ sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm. 
Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra. 
Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hoá thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 thời đã được lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là 'biệt kích văn hoá' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'. 
Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị. 
Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.
Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập bao gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ 'gặp' 15 tác giả:  Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh). 
Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một 'công thức' dung hoà giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác hoạ các tác gia như sau: 
• Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân.
• Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt. 
• Hoàng Tiến Bảo: một thầy thuốc lớn. 
• Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam. 
• Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận. 
• Tạ Tỵ: một hoạ sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài. 
• Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm toả sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
• Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
• Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh. 
• Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH. 
• Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi. 
• Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến. 
• Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
• Vũ Xuân Thông: Một biệt kích dù, một thế hệ hy sinh.
• Võ Tòng Xuân: 'Bác sĩ lúa' và Gia đình Bác Tám. 
• Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
• John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam. 
• Dohamide: một nhà khảo cứu văn hoá Chàm ôn hoà và đầy trăn trở. 
Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v., nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hoá, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn mà họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa. 
Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hoá, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông  khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hoá, điện toán hoá, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng “... nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”  Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tuỵ cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.
Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hoá học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hoá và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 2964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 - 1966) và Trình Bày (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.
Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng “Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai. 
Tuyển tập dành nhiều trang cho hoạ sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong. 
Tuyển tập có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hoá và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hoá Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm Đôi bờ'." Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước' đòi li khai và một bên là hoà nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hoá và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hoà như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc. 
Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ. 
Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại. 
Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng. 
Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hoá, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp của ý nghĩa của Tuyển tập. 
Tuyển tập này, được Tiến sĩ Eric Henry diễn dịch sang tiếng Anh, là một đóng góp quý báu trong việc gìn giữ ký ức văn hóa. Bản dịch của ông không chỉ chuyển tải ngôn ngữ mà còn thổi hồn vào di sản văn học phong phú của miền Nam Việt Nam, mang đến cho độc giả khắp thế giới một góc nhìn mới mẻ. Là một quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và nghệ sĩ chơi đàn phím, và nay là học giả nghiên cứu văn học Trung Quốc và Việt Nam tại Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, Tiến sĩ Henry đảm nhận công việc dịch thuật này bằng sự hòa quyện độc đáo giữa trải nghiệm cá nhân và sự am hiểu học thuật. Bản dịch của ông, vừa tinh tế vừa trung thực, giữ được nét sắc sảo và sự trầm lắng trong văn phong của Ngô Thế Vinh, đồng thời vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa. Với nghệ thuật dịch thuật đầy tinh tế, Eric Henry làm sống lại những tiếng nói sôi động của một thời đã từng bị lãng quên, mở ra một nhịp cầu để độc giả hôm nay nối kết với di sản văn hóa tưởng chừng đã phai mờ, nay được thắp sáng trở lại.
NGUYỄN VĂN TUẤN 
Sydney, 11 Tháng 9, 2025


Tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một Thuyền Nhân được định cư tại Úc châu từ năm 1982, hiện là Giáo sư của Khoa Y của Đại học New South Wales, Giáo sư của Trường Y, Đại học Notre Dame Australia, và Giáo sư xuất sắc của Đại học Công nghệ Sydney. Tác giả được biết đến như là một chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lãnh vực loãng xương, được bầu làm Viện Sĩ của Hội Nghiên Cứu Loãng Xương Hoa Kỳ (ASBMR), Viện Sĩ của Viện Hàn Lâm Y Học Australia (AAHMS), Viện Sĩ của Học Viện Hoàng Gia New South Wales, và được Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị trao Huân Chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho y khoa và giáo dục đại học. Ngoài khoa học, tác giả còn là một người yêu văn học và văn hoá, và đã viết hàng trăm bài điểm sách trong thời gian 50 năm qua.





 

Tuesday, November 18, 2025

MỜI DỰ RA MẮT SÁCH TRỊNH Y THƯ

 Văn Học Press và Việt Báo Foundation
 
Thân mời
 
Anh chị em văn nghệ
dự buổi ra mắt sách
Theo Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư
 

tổ chức tại Coffee Factory
1582 Brookhurst St. Westminster – CA 92083
Lúc 4pm ngày 6 tháng 12 năm 2025
 
Diễn giả
Giáo sư Trần Huy Bích
Nhà văn Cung Tích Biền
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh
 
Dẫn chương trình
MC Lê Đình Ysa
 
Trân trọng kính mời

 

Sunday, November 16, 2025

BÀI THƠ TẮM GIẾNG VÀ MỘT BÀI KHÁC

H o à n g X u â n S ơ n
 
Giếng xưa
 
TẮM GIẾNG

Em cứ tắm đi tôi múc nước
Tôi là gàu trăng em loáng da
Cứ để ngọc ngà trôi thật chậm
Để cành tre thấp thỏm sa đà
Em cứ xõa tóc tôi gội đầu
Giùm em thơm một thoảng hương ngâu
Hay là bồ kết huyền nhanh nhánh
Kết ước tinh khôi ngọt mần trầu
Trăng xanh giếng ngọc hồn chanh bưởi
Xuân thơ ngày tháng đã xa vời
Hãy tắm nghe đời trôi bụi bặm
Cho hồng thức dậy nước mồ côi.
••
h o à n g x u â n s ơ n
@17oct25
 
TẶNG DỮ

Tôi ngồi bệt xuống cỏ
Để nâng đàn em lên
Một nóc nhà thụ cảm
Tiếng vang và tiếng rền
Đừng giáo điều im lặng
Hãy thỏ thẻ sen hồng
Hãy dư hương kỳ bí
Si tình một nụ bông
Là ngâu vàng lan tỏa
Nức thơm một nhà vườn
Đừng lý thuyết kín cổng
Chiếc hàng rào tai ương
Tôi ngồi kín một sân
Nghe lành khắp mọi phía
Em thử hát một lần
Vào câu thơ phá lệ
Tôi đi mà không bước
Vì em lắng nghe chiều
Những hòn sỏi lăn chậm
Dốc triền của đăm chiêu
Chúng ta còn làm thơ
Như rừng chiều phá án
Những bài thơ rất thơ
Của khúc tình hiến tặng
••
h o à n g x u â n s ơ n
30.9.25 

LỜI VIẾT GỞI NGUYỄN XUÂN HOÀNG*

 nguyễnxuânthiệp
 

NXHoàng đang đọc trang văn của tôi

 
mảnh trăng
 
tặng Nguyễn Xuân Hoàng
 
vẫn chiếc áo sờn cổ
đôi giày của gã lãng du
tôi đi. với mảnh trăng. mùa đông
này bạn văn xưa
còn không những nét dao trên đá
về số phận. của một người. một đời
và đốm lửa
tôi nghe thơ anh. cùng tiếng chuông. ngân
giã từ
giã từ
những mùa của quỷ
 
hồi tưởng
những năm tháng đó
mảnh trăng mùa đông
cùng ta đi
qua mái nhà. góc phố. đường ray
về hổ khê
về vùng lau thưa. thăm mộ bạn
mùa này cây đào cẩm nhân đã trổ bông
hồn oan. đêm cầm đèn. gọi cửa
 
đường tăng
đầm suối tây phương như kiếm sắc
dốc hiểm
khe oan
về đâu
ngọn gió mùa đông. thổi. tím
mảnh trăng còi
bay. bay. như chim. qua mây
dưới trăng. trâu bon. ngựa mỏi
hoa ác ăn người
yêu quái. chờ ai. nơi lều cỏ
 
đường tăng
thuyền đã ghé bờ
hãy quên. như trăng
quán cháo khuya. đèn đỏ
mở chân trời. cuộc đời thôi đã khác
 
tháng mười hai, 1997
 
 
Tôi viết bài thơ này năm 1997, một thời gian ngắn sau khi qua Mỹ. Bài thơ đề tặng bạn Nguyễn Xuân Hoàng, ghi lại hành trình của một người thơ qua chiến tranh và ngục tù, với tâm nguyện khắc văn mình trên đá và nhóm lên ngọn lửa giã từ thế giới và thời của cái ác. Hành trình đó, ít nhiều Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã trải qua như trong tác phẩm Bụi Và Rác của bạn. Tôi hình dung nó như con đường Huyền Trang đi thỉnh kinh, và mỗi nhà văn chúng ta kinh qua nó với sứ mạng của Đường Tăng là mang những nét đẹp nhân văn đến cho cõi người. Con đường đó muôn vàn khó khăn, hiểm trở, cái ác rình chờ khắp mọi nơi. Huyền Trang đã vượt qua được. Còn nhà văn chúng ta, bạn và tôi và Nguyễn Xuân Hoàng đã tới bến bờ nào. Bên kia sông là ánh mặt trời hay một cõi lãng quên nào đó, cũng không là quan trọng.
 
 
Giấc mơ của Balakirev
Trong những dòng viết cho Nguyễn Xuân Hoàng ngày hôm nay, tôi muốn nói tới một cuộc hành trình khác -cuộc hành trình của Balakirev trong mùa đông băng giá trên một chiếc xe ngựa thời cổ. Mily Balakirev (1837- 1910), là pianist, nhạc trưởng và là nhà soạn nhạc danh tiếng của Nga, người đã ảnh hưởng đến nhiều nhạc sĩ đương thời trong đó có Tchaikovsky (1840-1893) trong vở nhạc kịch Romeo and Juliet và bản giao hưởng Manfred Symphony. Bài thơ của tôi gởi Nguyễn Xuân Hoàng được viết lại từ bài Giấc Mơ Của Balakirev (Balakirev’s Dream), thơ Tomas Transtromer, theo bản tiếng Anh và bản dịch của Cao Thu Cúc trên Văn Chương Việt.
 
balakirev đang dự một cuộc hòa nhạc
và rồi ông ngủ thiếp đi
chợt ông mơ thấy mình đang đi trên cỗ xe ngựa thời nga hoàng
chiếc xe ngựa lăn bánh trên con đường lát đá
chạy thẳng vào vùng bóng tối của tiếng quạ kêu
balakirev ngồi một mình trong xe. nhìn ra ngoài
có khi ông bước xuống chạy cùng với những chú ngựa
mảnh trăng mùa đông cũng chạy theo cỗ xe. qua những hàng bạch dương. dưới trời khuya. a. cuộc hành trình dường như đã dài lâu
trên ngôi nhà thờ cổ. chiếc kim đồng hồ bây giờ chỉ năm. thay vì chỉ giờ
và trên cánh đồng có một chiếc cày bỏ quên
chiếc cày là con chim gãy cánh
trong vịnh. giờ này. một chiếc tàu đang neo đậu
chung quanh tuyết phủ. không một ánh đèn
thủy thủ lên đứng hết trên boong tàu
chiếc xe ngựa chạy qua vùng băng tuyết. bốn bánh quay. quay. tiếng lụa xé
balakirev tới gần một chiếc tàu chiến nhỏ
chiếc sebastopol
giờ đây ông đang ở trên tàu. các thủy thủ vây quanh
một người trao ông cây đàn cổ:
“ông sẽ không chết nếu ông chơi đàn”
 
Như thế đó, cuộc hành trình của Balakirev kết thúc. Như đời tôi, đời bạn, đời Nguyễn Xuân Hoàng sẽ kết thúc. Nó kết thúc với một hy vọng (hay ảo vọng?) rằng “ông sẽ không chết nếu ông chơi đàn”, có nghĩa là nhà nghệ sĩ, người sáng tạo đã ca hát trước cuộc đời và hiến dâng cho đời sẽ sống mãi với thời gian.
 
 
Lời từ biệt của Tagore
Với hai bài thơ, Mảnh Trăng và Giấc Mơ Của Balakirev, tôi muốn trao tới Nguyễn Xuân Hoàng một nhắn gởi và một tâm tình. Hoàng ạ, chúng ta đã cùng với mảnh trăng mùa đông đi qua vòng đầu của địa ngục, ghi khắc lời mình trên đá, và đã tới bờ. Bên kia bờ, cuộc đời thôi đã khác. Và cùng với nhà soạn nhạc lừng danh của nước Nga, chúng ta đi trên chiếc xe ngựa cổ vượt qua mùa đông tuyết phủ tới con tàu nằm trong vịnh giá băng, với hy vọng là những nghệ sĩ đã ca hát cho niềm vui và nỗi buồn của con người sẽ không bao giờ chết.
 
Bây giờ, tôi xin trích đọc cùng với Nguyễn Mạnh Trinh một đoạn văn rất đẹp của Nguyễn Xuân Hoàng trong Đoản văn viết ở Cali. Bài “Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão”:
“Cali mưa cơn mưa nhỏ chợt đến chiều nay trên đường Westminster như một người khách lạ không hẹn mà tới, Những hạt mưa lớn, thưa, gõ từ tốn trên mặt kính chắn gió nghe như tiếng mưa thuở nào rơi trên mái tôn trước hiên nhà.
Bầu trời ẩm đục, thấp và nóng. Cali đang mùa hè. Cơn mưa tuy không đủ sức làm dịu những cục than hồng, nhưng có thừa cái sắc bén của con dao cau rạch trong tôi những vết thương hoài niệm.
Mưa gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor- Westminster là những mũi kim xoi đằm trí nhớ. Mưa dẫn tôi đi trở về trên những con đường quen, khu phố cũ, những bạn bè xa xưa…”
 
Trong những ngày này, ước mong Nguyễn Xuân Hoàng có tâm bình an với hành trình của mình. Trở về hay đi tới thì cũng là hoan ca như cây sáo của Tagore đã được Đấng Chí Tôn phả đầy âm nhạc vào trong đó… Và xin nhắc lại lời chia tay của thi hào xứ Ấn Độ:
 
Tôi đã được mời tới lễ hội trần gian này, và tôi cảm thấy đời tôi tràn đầy ơn phước. Tôi đã được nhìn và được nghe bao điều. Trong hội vui, phần tôi là chơi nhạc trên cây đàn của mình, và tôi đã chơi hết sức tận tình.
Giờ đây xin hỏi, đã đến giờ chưa để tôi được phép bước vào diện kiến Người và dâng lên Người lời chào kính lặng thầm?
Tôi phải ra đi rồi đây. Anh em ơi, hãy nói lời từ biệt tôi! Tôi cúi đầu chào tất cả và cất bước lên đường.
Đây tôi trả lại chìa khoá cửa, và trao ngôi nhà lại cho anh em. Tôi chỉ xin anh em lời tử tế cuối cùng.
Khi tôi từ giã nơi đây, xin nhớ lời tôi chia tay, rằng nhng gì tôi đã được hân thưởng thật đã quá tràn đầy.
Tôi đã được nếm mật ủ trong lòng bông sen đang nở cánh trên biển ánh sáng, và như thế đã là diễm phúc rồi, và đây là lời từ biệt của tôi. (Gitanjali-Tagore)
NGUYỄN XUÂN THIỆP
18.8.2013
 
*Bài này tôi đã đọc cho Nguyễn Xuân Hoàng nghe trong lần đi cùng với Đinh Cường qua thăm Hoàng năm 2013. Lúc bấy giờ  Hoàng đã  yếu lắm. Nay Hoàng đã ra đi xin gởi theo như một lời tang ca tưởng niệm bạn.

Saturday, November 8, 2025

HUẾ OÁN

Tô Thùy Yên
 
Huế ơi…
 
Nửa khuya, vua trẻ lìa kinh khuyết
Từ đó, thâm cung lạnh lửa đèn...
Trường thành nhiều chỗ đã sụt lở
Thương em còn thơm hồn nhãn sen
Mấy bận, sóng thần lấp cửa phá
Đêm giông, mẹ nhắc chuyện năm Thìn
Bạn về quê bạn, đường xa ngái
Trong nớ, ngoài ni, nhớ chẳng yên
Tóc mai rụng đã bao nhiêu sợi
Mãi chẳng nguôi thầm một lỡ duyên
Sông chậm lặng trôi đời ẩn nhẹm
E tản đi hương bóng chập chờn
Nắng mưa đâu chẳng là mưa nắng
Sao nắng mưa này da diết hơn?
Một buổi, mây qua tầng tháp cổ
Trăm năm, em khóc lẽ vô thường
Mùa nhãn, mùa sen chừng đã quá
Lâu rồi, công chúa chưa về thăm
Khói sương trúc đá nỗi vương vất
Nhang thắp, nghe đời chạng vạng thêm
Đèo cao, phá rộng, sông trăm nhánh...
Chuyển bước làm sao khỏi động tâm?
Chim kêu, ghềnh khóc, sóng tan dạ...
Người lỡ thời đi tới xứ mô?
Một mai, chắc mỗi điều duy nhất:
Rêu mốc mờ thêm những đã mờ
10.1999
TTY
 

Sunday, November 2, 2025

NGUYÊN YÊN. KHOẢNG TRỐNG GIỮA NHỮNG VÔ NGHĨA TỒN TẠI. VÀ NHỮNG BẤT TỬ ĐÃ BỊ DẬP TẮT

Nguyễn Thị Khánh Minh
 
Tranh Đinh Trường Chinh
 
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn. Trong một trang thơ của Việt Báo, tôi đã giới thiệu về Nguyên Yên với đôi dòng cảm nhận như sau:
 
“Một nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ. Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ mang tính triết lý, đầy suy tư cá nhân, gây được rung động, cảm xúc Thơ nơi người đọc?
Thơ Nguyên Yên có một gợi mở như thế.
Thơ của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc (là khi trái tim phỉnh cái đầu…), và vì vậy thơ vừa hiện đại vừa đầy chất thơ, và nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư, trực diện, mà vẫn ánh lên nét thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọc, để tạo ra một lớp độc giả cho mình…” (Hết trích) (https://vietbao.com/a311042/dong-tho-nguyen-yen)
 
NGUYÊN YÊN. NỖI THAO THỨC CHỮ NGHĨA
 
Xin cùng đọc bài thơ sau đây, một độc thoại về thân phận chữ nghĩa, cả về thân phận con người khi vận chữ long đong. Chữ nghĩa, theo Nguyên Yên không chỉ thuần về mặt văn chương, mà nó là tấm gương phản chiếu cuộc sống, tâm thức con người.
Trong cuộc sống hiện đại, những điều vô nghĩa được lên ngôi và có những điều vô cùng cần thiết lại bị xem nhẹ, giữa nó là khoảng trống hụt hẫng, trong đó đầy tra vấn lương tri và sự thật. Bài thơ đẩy người đọc suy nghĩ đa chiều. Đây là một chiêu thức, một thi pháp đặc biệt của Nguyên Yên, khi đọc thơ cô, chúng ta phải liên tưởng đến nhiều tia sáng phản xạ từ một nguồn chiếu.
 
VÔ NGHĨA
 
Anh viết cho em câu chuyện chữ nghĩa
thứ chữ nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con
xuyên miền lửa đạn
cay xè lời ru khúc ly tan
ầu ơ con ngủ cho ngoan
để mẹ đào đất xây nhà cho cha.
Anh viết cho em
câu chuyện đường xa,
quê cha đất tổ phôi pha ngày về.
 
Anh viết cho em
câu chuyện thời đại chúng ta
những cặp mắt ngày nhắm đêm mở
chằm chằm nhìn quá khứ
không cho tương lai thở
những gốc cây bứng rễ
èo uột sinh sôi trên đất mớ.
 
Anh viết cho em
phiên bản cuộc đời
những mảnh vụn lắp ráp từ cuộc hôn nhân vội
thoả hiệp mưu sinh
tiếng ngáy ngày mê sảng
nỗi buồn đêm trằn trọc tiếng thở dài của
những vì sao.
 
Anh muốn nói với em
câu chuyện chữ nghĩa
thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng
ngọn lửa
thứ chữ nghĩa đưa chúng ta trở về
nơi giấc mơ có hình thù,
ngày tháng không đóng khung,
chúng ta lại biết bật khóc, bật cười
biết quay đầu lại
làm người.
 
Anh viết cho em
câu chuyện chúng mình
Những đứa con của mẹ đã một lần
trồi lên từ móng vuốt đại dương
trái tim một lần
vượt rào cách trở
một lần sang bên kia bờ
nghe dòng sông hát
khúc mộng mơ!
 
Bầu trời chúng mình
nghênh ngang rộng mở
nhưng chúng ta, thế hệ chúng ta,
xác thân đóng đinh vào quá khứ,
linh hồn quen núp mình trong bóng tối
sợ sệt từ chối hít thở.
 
Hạnh phúc chúng mình
chỉ một thoáng cái đầu yếu hèn, toan tính
ngọn lửa tình muôn đời dập tắt,
và trái tim không nguôi của chúng ta
mãi hoài là chiếc bóng cô đơn
lởn vởn trong màn trời ký ức.
 
Anh vẫn phải viết câu chuyện chữ nghĩa
nào có nghĩa lý gì
chỉ còn lại thứ chữ nghĩa
không viết cho ai,
không với ai,
không vì ai.
26/02/2017
 
Câu chuyện chữ nghĩa. Một thứ chữ nghĩa theo phận nước đi qua nhiều thời gian. …chữ nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con/ xuyên miền lửa đạn/ cay xè lời ru khúc ly tan. Chữ nghĩa đi từ ký ức của lịch sử, của cuộc sinh tử: Những đứa con của mẹ đã một lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương/ trái tim một lần/ vượt rào cách trở/ một lần sang bên kia bờ…, đi từ nỗi ly hương: quê cha đất tổ phôi pha ngày về…
Một ký ức không thể lãng quên. Và nó luôn là nỗi ám ảnh, chằm chằm nhìn quá khứ/ không cho tương lai thở. Chữ nghĩa bị phủ đầu cả hai chiều, quá khứ và tương lai, và hiện tại kẹt giữa: những gốc cây bứng rễ… thế hệ chúng ta/ xác thân đóng đinh vào quá khứ/ linh hồn quen núp mình trong bóng tối/ sợ sệt từ chối hít thở.
 
Nguyên Yên và người cùng thế hệ cô đã phản ứng thế nào khi đem chữ nghĩa đối diện với thân phận con người trong đời sống hiện tại? Một cuộc sống kết lại từ mảnh vỡ của toan tính hạnh phúc, của cơn mưu sinh mê sảng. Một cuộc sống mà khi người ta hít thở chỉ thấy nhịp tim chỉ còn là chiếc bóng cô đơn.
Trong mớ hỗn độn của thời đại mà Nguyên Yên trưng ra như thế, họa chăng cứu vớt được một chút, là còn tiếng thở dài của sao đêm, giữa những hình ảnh suy tư thì bóng cô đơn này bộc lộ bản chất thi sĩ nơi Nguyên Yên, nhờ đó mà có thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người…
 
Cú đập ở đoạn cuối, làm tôi hụt bước.
Chỉ còn thứ chữ nghĩa không viết cho ai, không với ai, không vì ai, quay ngoắt, phủ định hết mọi ý nghĩa ban đầu, tạo nên một hụt hẫng, trống rỗng. Đâu thể mất trắng như vậy, nhìn lại xem, những điều cô đã nói với chúng ta, về sự ý nghĩa của một quá khứ không thể tách rời khỏi ký ức, nó có ý nghĩa của một tồn tại không chối cãi, hoặc giả tôi có thể nghĩ rằng, cái khát khao lấy thứ vũ khí duy nhất mình có là con chữ để thổi bùng/ ngọn lửa, khiến cô đã bị tổn thương trước sự đổ vỡ của mọi giá trị trong một thời đại suy tàn, Bài thơ nhấn mạnh về điều tồn tại vô nghĩa nhất là làm biến đi những điều có nghĩa.
Cho nên đoạn cuối là một phủ nhận để lên án, để đặt ra vấn đề: chữ nghĩa (nói về niềm tin, đạo đức, nhân ái, lương tri, tình yêu… nói chung là những giá trị đẹp đẽ) có còn ý nghĩa trong thời đại hôm nay? Đặt người đọc vào sự phản tỉnh, cũng như khát vọng về  sứ mệnh của chữ nghĩa.
 
AN TOÀN
 
miễn biết tránh xa tiếng chim hót, bông hoa lạ
miễn cứ đi đường thẳng không quay phải quay trái
miễn đừng nghe cũng đừng có nhu cầu kể với ai chuyện gì
đừng cười, đừng khóc, quan trọng nhất
đừng mong chờ
không mở sẽ không đóng
không nở sẽ không tàn
cuộc đời như cơn đại dịch
một khi có chủng ngừa,
không cần sợ.
8/7/2020
 
Một an toàn như thế có thật sự làm bình an không, hay là cái vỏ bọc ngày cứ đan dày thêm tâm thái phủ nhận, trốn tránh, phòng thủ. Nói cách khác của sự phòng thủ, là sự vong thân của con người với chính mình và với cuộc sống.
Nếu nhân lên tỷ số phận trên trần gian này thì bạn thấy một thứ chữ nghĩa vực dậy niềm tin cần thiết cho chúng ta đến chừng nào!
 
CUỐI CÙNG
 
sẽ có một ngày
bài thơ không còn được viết bằng chữ
ký ức là trang giấy trắng
một ngày khi khuôn mặt của giấc mơ không còn
chúng ta không tồn tại
chỉ còn lại
một ngày của mọi sự vắng mặt
và tình yêu như cơn đau
thoát kiếp luân hồi.
26/7/2017
 
Nếu ở Vô nghĩa, có nỗi buồn giữa khát vọng và những phủ định, thì bài thơ Cuối Cùng là hệ quả đưa đến những nghi vấn triết lý về hiện hữu và hư vô.
Khi, “bài thơ không còn được viết bằng chữ”, ký ức là “trang giấy trắng” “khuôn mặt giấc mơ không còn” và “chúng ta không tồn tại”. Để rồi, đến cái tận hư vô “mọi ngày của mọi sự vắng mặt”, Nguyên Yên muốn đặt hai đối cực đó để nói, - điều gì sẽ xẩy ra nếu chữ nghĩa không còn hiện hữu, - để lại được khẳng định một điều, sự cần thiết của một thứ chữ nghĩa thổi tắt những cơn mê sảng của nhân loại.
Ở hai câu cuối -thơ Nguyên Yên thường đặt trọng tâm ở kết bài thơ-, một là phủ nhận điều đã đặt ra, hai là làm nặng thêm một khẳng định mới. Ở đây, Nguyên Yên đưa ra một sự tồn tại trong những thứ đã mất đi, đó là Tình Yêu, như “cơn đau thoát kiếp luân hồi”, một đáo-bỉ-ngạn của tình yêu chăng, nói cho cùng, Tình Yêu là một phạm trù tương đồng với Chân Thiện Mỹ, như vậy thì ta hiểu rõ hơn hồn thơ trữ tình, lãng mạn nơi Nguyên Yên.
 
NGUYÊN YÊN, TÌNH YÊU, NỖI THẤT LẠC VÀ NIỀM TIN.
 
Có là phỉnh gạt hay hoang tưởng, hoặc có thể là ngây thơ, khi người ta còn niềm tin vào những điều mình hằng tin hay chăng? Trong tâm thái ấy Nguyên Yên cứ như vừa đi vừa đối mặt, vừa nhìn vừa tra vấn nội tâm. Sự tự hỏi như thế, đưa đến tâm trạng thất lạc, cũng không khó hiểu khi cảm nhận cùng lúc cái mong manh và trường cửu, tin cậy và hụt hẫng. vết tích cuộc tình/ như cơn mê về/ vỡ tan… làm sao bôi xóa hết/ những vết nứt hằn sâu… hình ảnh những giấc mơ/ từng cơn buốt nhức…
 
ĐÊM
 
cuối năm
mưa giao thừa đổ dốc
mặt lộ trơn tuột mọi chuyển động
những bóng ma 
phản chiếu ngày tháng tuột dần
mưa đêm
như dòng lệ đổ
cơn sầu vào thành phố
vào mảng tim khô
vào tận cùng thân xác
nơi vết tích cuộc tình
như cơn mê về
vỡ tan
đêm ba mươi
xối vào ký ức
hình ảnh những giấc mơ
từng cơn buốt nhức
làm sao bôi xóa hết
những vết nứt hằn sâu
từ phỉnh gạt
từ hoang tưởng
làm sao bôi xóa hết
khi trái tim
còn thức.
26/02/2017
 
Ở câu cuối, tôi bắt gặp được sự vừa hoang mang vừa tin cậy -Trái tim còn thức-. Nó ý thức rất rõ cơn mê về sự vỡ tan, đồng thời cũng được ngầm hiểu cả gặp gỡ hạnh phúc. Tại sao không? Nguyên Yên cũng đã cảnh tỉnh vào niềm tin trái tim, còn một điều đó, coi chừng đừng để mất. Chỉ một câu kết đóng lại những ý của những câu trên, mà mở một không gian mới, mà mở ra mấy tầng cảm nhận. Tôi thích cách cấu trúc bài thơ kéo người đọc tìm ra thêm cảm xúc mới về bài thơ. Đó là thi pháp Nguyên Yên.
Nguyên Yên nói không ngập ngừng, trái tim, nơi có cơ may kéo cô thoát khỏi “những buốt nhức của giấc mơ” “những vết nứt” để lại từ khoảng trống. Nó có lý lẽ riêng của nó “để lừa phỉnh cái đầu”.
Nguyên Yên cảm xúc về tình yêu thế nào qua vụ lừa phỉnh đó?
 
KHOẢNG TRỐNG
 
người ta không thể nhìn thấy nó
không biết gì về hình dáng, thể chất của nó
cũng không có khái niệm về độ sâu hay chiều cỡ của nó
liệu nó phi hạn hay giới hạn
người ta chỉ biết mình có nhu cầu,
chắc nịch như niềm tin tôn giáo
như người đàn bà trong cơn lên đồng
khăng khăng đòi lắp đầy thiếu vắng
bằng tình yêu căng phồng.
8/7/2020
 
Một định nghĩa về Tình Yêu rất hiện đại, rất bóng bẩy, rất trữ tình.Trữ Tình, hiểu theo nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường, là biểu lộ một cái gì rất riêng. Tình yêu là khoảng trống, là khăng khăng đòi lắp đầy thiếu vắng/ bằng tình yêu căng phồng. Hình ảnh ấy dẫn bạn tới đâu?
Cùng với tâm trạng dỗi hờn của đứa trẻ:
 
CÔ ĐỘC
 
tôi không một mình
thật ra có nhiều người quanh tôi
thậm chí có người luôn bên cạnh săn sóc tôi
nhưng tôi nghĩ đến anh, trong giấc mơ
và khi thức tỉnh
mở mắt thấy mình như đứa trẻ thất lạc bị bỏ rơi
mím môi dặn lòng
từ nay nó sẽ chẳng bao giờ cho mình
quyền nghĩ tới ai nữa.
8/7/2020
 
Sợ cô độc nên tước bỏ quyền nghĩ đến người khác. Sợ nghĩ thì sẽ rơi vào cảm giác bị bỏ rơi. Và, cô độc, tước bỏ “quyền nghĩ tới ai” là cách bảo vệ an toàn cho tâm trạng thất lạc chăng.
Những nhà thơ nữ hiện đại có cách để nổi bật cái riêng của phụ nữ tính qua thơ, từ hình ảnh, ngôn từ trực diện, đến cấu trúc của bài thơ và đa số, họ tôn trọng ý hơn lời. Ở Nguyên Yên theo tôi, cô có bản lãnh trong cách chế ngự cảm xúc, và cô không hy sinh giữa Ý và Lời, nên thơ hiện đại của cô xúc tích, vẻ đẹp của từ và hình ảnh được nâng lên thành thi ngữ, thi ảnh. Đó là điểm để nhận được Nguyên Yên giữa dòng thơ nữ hiện đại.
 
NHẸ DẠ
 
từ biệt tích anh ta trở về ghé thăm
vẫn khẩu trang, áo cao su bảo vệ linh hồn, và
bảo vệ nguyên tắc không lây nhiễm
 
cảm xúc - anh nói – thứ phiền phức rẻ tiền
hệt như mong muốn vô hạn của đàn bà
làm đàn ông mất hứng
 
hai người trò chuyện
hơi ấm mặt trời mơn trớn
cửa bên trong người đàn bà hé mở
 
miền đất từ lâu không dung nạp sự sống
dòng nước chảy ngang nảy hạt
cong về ánh sáng quên lòng đất tối
 
hai người trò chuyện
không sự thật nào tác động trái tim anh đá lửa
kho tàng nếu có, chìa khóa đã vĩnh viễn bị đánh cắp
 
thành trì bao năm sừng sững
kiên cố niềm tin thép
thà chết ngạt nhất định không thất thủ
 
hai người trò chuyện
đối thoại giữa đàn ông và đàn bà
bao giờ cũng kết thúc bằng cuộc hẹn
 
nơi người đàn ông sẽ mài dũa bảo vật thiêng liêng
trong cái áo cao su không xuyên thủng
và người đàn bà lại một lần nữa
 
rách toạc.
17/09/2021
 
Đằng sau cuộc hẹn của hai người là gì? Là tâm hồn nhạy cảm và ngây thơ của người đàn bà, là cảm giác hụt hẫng trước những điều không giống như mình nghĩ. Nguyên Yên dùng những hoài vọng, nghi vấn, thậm chí cả rách vỡ chia tan, vết thương, để nhắc tới tình yêu, ý và lời ở bài thơ này là một cầm chịch vững vàng giữa buông thả cảm xúc và thẩm mỹ từ, phải nhận ra điều ngược lại ẩn kín để hiểu điều được phơi bày ra.
 
BẤT DIỆT
 
đã qua hơn hai ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm
thời gian không gian ngả màu
cái còn lại duy nhất
của anh của em
vẫn không ngừng mọc lên
cái còn lại duy nhất
vết thương ngày hôm qua cho nhau
vẫn mọc lên
trơ vết thẹo lồi
tưởng vọng một ngày thôi đâm vào xương thịt
 
vết thương ngày hôm qua anh cho em
vẫn tiếp tục hành trình
những ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ
ký ức còn mở mắt
quanh co không thể trở về
vết thương ngày hôm qua
vẫn trồi lên, trồi ra
như chúng ta
bao lần đơm hoa
bao lần vùng vẫy
cố thoát
 
hai ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm đã qua
vẫn như lần đầu
nhấn vào trong em
thứ khổ đau
ngàn đời rỉ máu
19/5/2020
 
Bạn có thấy ở đây là những con chữ của tình yêu, dù cái còn lại duy nhất của anh và em là cuộc hành trình của vết thương. Nhân chứng là thời gian. Vết thương được cảm nhận như một “thú đau thương”, vì nó là quả của bao lần đơm hoa/ bao lần vùng vẫy/ cố thoát… Tất cả, để chúng ta hiểu được những điều đã được Nguyên Yên định nghĩa bằng chữ Bất Diệt, mà biểu tượng là ngọn lửa nhảy múa trong tim:
 
NGHĨA ĐỊA TÌNH YÊU
 
nếu tình yêu là có thật
một lần nhìn thấy
một khoảnh khắc ngắn ngủi sống
một lần hít thở đầy lồng ngực
 
nếu tình yêu là có thật
bông hoa mọc trong trí óc
ngọn lửa nhảy múa trong tim
một lần cháy sáng
 
nếu tình yêu là có thật
chúng ta đã một lần chắp cánh
một lần bay cao
dạn dĩ khờ khạo
 
nếu tình yêu như nỗi đau là có thật
hãy để em mang chôn nó vào lòng đất tối
 
và anh
anh sẽ không thể
một lần nữa đâm chết nó.
13/2/2025
 
Bạn ạ, tôi nhẹ nhõm. Tôi không chờ đợi gì hơn khi đây là một nghĩa địa mà chúng ta cần: nếu tình yêu như nỗi đau là có thật/ hãy để em mang chôn nó vào lòng đất tối. Thật đáo để khi dùng nhan đề ấy để đánh vào cảm xúc (vì bản thân của mong manh thường sợ một báo động đau đớn). Thật đầy đủ khi nghĩ về Tình Yêu như thế, một bông hoa mọc trong trí óc, ngọn lửa nhảy múa trong trái tim. Nó hợp tác nhau để thăng hoa. Tôi nghĩ “nếu” ở đây là một cách nói khác của khẳng định. Phải nói, bài thơ nói về tình yêu này của Nguyên Yên là một vì sao lạ trong bầu trời thơ Tình Yêu.
 
HẾT
 
khi hoa nở
là lúc bắt đầu tàn
khi sao sáng đỉnh trời
là tới giờ lẩn biến
câu chuyện chúng mình
những ngày hè rực rỡ đã qua
bao mùa dâng hoa
bao cơn tột đỉnh
tình yêu một lần có thật
thức dậy từ con mắt bình minh
cơn mưa đầu mùa nồng nàn
cầu vòng hò hẹn
chúng ta một lần dào dạt
như đất với trời
như anh trong em
đêm tràn huyệt mộ
quy luật trò chơi
đến, đi, được, mất
kết hợp nào
cũng là khởi đầu tan rã
chỉ có trái tim
từ chối luật thời gian
say cơn khải hoàn
ngụp lầy hạnh phúc
và khi chia tay điểm giờ
soi gương nhìn lại
thấy hồn mình một nghĩa địa già nua
mọi cảm xúc giơ xương chờ
mục rữa.
3/8/2025
 
khi hoa nở/ là lúc bắt đầu tàn… kết hợp nào/ cũng là khởi đầu tan rã. Cô bạn nhỏ của tôi, đó là nhận biết về vô thường, về duyên khởi. Nên biết được giá trị của phút giây, của những gì một lần, những ngày hè rực rỡ/ bao mùa dâng hoa … chúng ta một lần dào dạt/ như đất với trời/ như anh trong em… và, thêm lần nữa, sau bài Đêm, Nguyên Yên lại khẳng định quyền năng của trái tim, chỉ có trái tim/ từ chối luật thời gian. Đó có phải là Tánh không? Như Phật ngữ nói cái Tánh tồn tại mãi. Cho nên Hết của vạn pháp là một khởi đầu mới.
Tất cả thơ về tình yêu của Nguyên Yên, dù cô đi bằng đường vòng, đường thằng, đường díc dắc, hay thậm chí đứng một chỗ sau lùm cây, thì vẫn có những mũi tên bí ẩn để chỉ cho ta niềm tin cậy và nương tựa vào điều có thế cứu rỗi con người, là Tình Yêu.
 
NGUYÊN YÊN- KHOẢNG TRỐNG VÀ HOÀI VỌNG
 
BẤT HẠNH
 
giả sử hôm nay như mọi ngày
con chim cu vẫn đến gõ vào cửa kiếng
căn phòng vừa sáng đủ
để cặp mắt trong tối tìm ra
điểm dừng
 
giả như bình minh vẫn mọc mỗi sớm mai
mùi cà-phê điểm tâm vẫn khuấy lên
thứ ma lực xỏ đôi chân
vào thế giới mở – khua
thức dục vọng
 
giả như cuộc sống vẫn tràn đầy
mùi hoa nhài đầu ngọn gió vẫn tỏa hương
nồi cơm sôi thơm ngát xới vun bát
bên nhau xùm xụp húp
chén say đầy mãn
 
giả như cuộc đời vẫn là
những cuộc săn đuổi tất bật
mắt mở say mê
đầu hùng hục húc
tim không sợ
 
giả sử niềm tin vẫn sáng soi
xác tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà
khói hương xì xụp vái
cầu người đã bỏ ta đi
đừng bỏ ta đi
 
giả như giấc mơ vẫn trở về
người khách lạ hàng đêm vẫn ghé vào
góc xó hiu quạnh của tâm hồn
nỉ non âm điệu
rù quến
 
giả như tình yêu không xảy ra
mọi thứ chân xác còn nguyên vẹn
như quê hương chưa từng chiến tranh
lịch sử chưa tranh lấn
chúng ta chưa hề khai quật
 
và con người lại được sinh ra
tinh khiết như bản năng
trí khôn nhắc trái tim tránh
lập lại tai họa
 
phải làm thế nào
người ta nói điều gì xảy ra
sẽ phải xảy ra
một ngàn đời nữa
 
bao giờ trần gian còn lỗi lầm
con người còn bị trừng phạt
mình còn phải
gặp nhau.
26/10/2021
 
 “Giả như” là hoài vọng từ khoảng trống-một thứ hố thẳm- trăn trở không ngừng, trước một xã hội mà chân-giả bị đánh đồng, mà con người luôn bị đánh động bởi dục vọng,
Những “giả như” vừa muốn níu giữ sự tồn tại của cái đẹp, nhưng cũng phơi bày nỗi cô đơn và khát vọng trước những bất toàn, lỗi lầm của trần gian, con người bị trừng phạt. Nên chi, mình còn phải/ gặp nhau… Để chi vậy?
Để… Chờ.
 
HÃO
 
mỗi ngày
đứng trước gương tôi chờ
bên trong tấm gương cặp mắt chờ
chiếc bóng trên tường chờ
bài thơ cũng chờ
chờ đến một ngày
thời gian phủ mờ ký ức
và sẽ chẳng ai làm sao còn nhớ nổi
mình đang chờ đợi
chuyện gì
26/7/2017
 
Dằng dặc như kiếp người. Sống như để chờ đợi. Vừa có mục đích vừa như không gì cả. Thời nào cũng cứ luôn như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ…  Mỗi thời đại đều cống hiến cho con người một nỗi buồn thế hệ. Nó mang nét u sầu, bức phá, thất vọng, nhưng ở đây trong thơ Nguyên Yên nó thể hiện không phải chỉ ở tính thất vọng mà còn từ mơ ước được tốt đẹp hơn, cho dù nhan đề bài thơ đã nói Hão, nhưng như tôi đã nói, đọc thơ Nguyên Yên, cái hiểu không một lối mà nhiều ngõ. Đằng sau Hão là một tiếc nuối, một hy vọng. Và tôi thấy được một niềm tin rất trong trẻo, con người lại được sinh ra/ tinh khiết như bản năng…Thiệt mà nói, khó đào xới cho ra ở vào thời này, một cô gái hiện đại, lại giữ được cái mầm khí trong sáng: bản năng con người là tinh khiết (nhân chi sơ tính bổn thiện), thế thì, niềm tin vẫn sáng soi/ xác tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà và hoài vọng của cô cũng đã le lói sự sinh ra của những con chữ xóa được cơn mê sảng của nhân loại. chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người.
 
Nguyên Yên luôn đặt mình trước câu hỏi về sự hiện hữu và hư vô. Hiện hữu như một níu kéo ngay trong khoảnh khắc nó tan biến. Và hư vô trong sự vắng mặt của chính mình. Dường như là phân vân -để làm gì-, trước tất cả những mâu thuẫn, của cuộc sống và thân phận con người,
 
này các người nhân danh tình yêu
ở đây tôi hiện hữu nơi này
hiện hữu dù chỉ trong im lặng
hiện hữu cả trong cơn bôi xóa
(Điếu Ca)
 
HẾT
 
không phải không có ai
mà là có quá nhiều người đã từng ở đó
giờ không là ai cả
 
không phải vì thiếu vắng điều gì
mà là có quá nhiều thứ từng là cần thiết
giờ không là gì cả
7/2025
 
VẮNG NHÀ
 
những trái ớt chín, khô héo trên cành
bình hoa tulip trên bàn, gục đầu ủ rũ
căn phòng không màu không mùi không vui buồn
chỉ những nốt lặng, trào ra từ cây piano
đậy nắp
 
người chết không hót không bay không nhảy múa
con hạc mào đỏ* xếp cánh thôi mơ thôi thơ
con chó thất lạc buồn rầu
ngọn gió vô tâm, xào xạc
không tin nhắn
 
trên tầng mây kia hay dưới lòng đất này
chả nhằm nhò gì nữa
trong nghĩa trang tâm hồn kẻ ở
sự vắng mặt của người đi**
là phần mộ vĩnh hằng.
 23/11/23
 
TRỐNG TRẢI
 
là sự vắng mặt của thứ từng hiện diện
sự im lặng sau tiếng nói hằng thân thiết
là khoảng trống đã một lần tràn đầy
là máu trong tim – ngưng chảy
 
là bầu trời vắng sao
đêm hoang vu không đèn
con đường thênh thang vô định
giấc mơ chưa thức - đã quên
 
là lý tưởng sụp đổ
giải Nobel hòa bình bị thu hồi
người ôm bom nổ banh xác
không để lại lý do, chính kiến
 
là thả rơi linh hồn
giữa những vách đá hẹp
chung quanh không đài tưởng niệm
không đền ma quỷ thần thánh
 
là sự mỏi mệt tận cùng
chẳng còn điều gì kích động được ký ức
câu chuyện không nghe, không kể
nốt nhạc im hơi, bặt tiếng
 
là khi nước mắt khô đi
mọi thứ đều trở nên dư thừa
hiểu biết càng vô hiệu
những đốm loang không thể tẩy xóa
 
là khi đời sống không còn khiếp đảm
vết thương không hút tỉa
khuôn mặt người thương không còn diện mạo
sự trống rỗng không ngừng đục khoét
 
là chốn cuối cùng sau mọi sự hủy hoại
của một lần, một thời tín ngưỡng
tình yêu, con đường, ánh sáng, bản nhạc
cả bóng tối cũng không buồn nấn ná
 
là sự dừng lại – vĩnh viễn
ở đây – hay bất cứ nơi đâu
15/08/2023
 
 DỨT
 
đóng chặt cánh cửa,
để lại tất cả sau lưng
như thời đẩy mái ngược dòng
ra đi nhắm mắt hòng thoát
 
đóng chặt cánh cửa
nhốt từng giấc mơ sao trời
khóa trái mọi trối trăn
những hồn ma hệ lụy
 
đóng chặt cánh cửa và quăng đi chìa khóa
chiếc rương của một thời châu báu
bầu rượu tràn hớp say
căn nhà có huyễn tưởng bóng mát
 
đóng chặt cánh cửa
vứt bỏ mẩu quen thuộc cuối cùng nào sót lại
ngoài kia những chiếc lá ố vàng đang rụng
mùa thu cũng bỏ đi
 
đi như một linh hồn rút lui
không định trở lại
đi chuyến nhẹ hẫng về mai sau
cầu cho trót lọt
 4/11/2022
 
Một trống trải của hư vô. Một ngưỡng cửa giữa khao khát và thất vọng, là sự dừng lại – vĩnh viễn/ ở đây – hay bất cứ nơi đâu,
Cửa đã đóng, chìa khóa đã quăng, cầu cho trót lọt, tôi dựa vào tri giác vô thường của nhà Phật để hiểu rằng sự dừng lại là một bắt đầu khác.
 
Ở bài thơ Vô Nghĩa, Nguyên Yên nhắc lại một ký ức không quên, mẹ gánh con/ xuyên miền lửa đạn Những đứa con của mẹ đã một lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương… bài Chờ Đợi tiếp nối thời gian những nỗi nhớ, những khổ nạn thời Sài Gòn phong ba, thời người ta phải chọn cái sống trên sợi chỉ sinh tử. Trong đó, báo động, một ký ức để lý giải đầy đủ cho hiện tại đã bị lãng quên lấn chiếm, khiến con người như cọng phiêu bồng không rễ.  những ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ/ ký ức còn mở mắt/ quanh co không thể trở về, cái day dứt của một thế hệ sau chiến tranh, ký ức quá khứ cùng với những nghịch lý của hiện tại.
 
CHỜ ĐỢI
 
chỉ một tiếng động nhẹ
đủ bồn chồn thức
biết không phải anh gọi
vẫn mở mắt cố tìm một dấu hiệu
cố thuyết phục mình
như mỗi đêm đứa nhỏ hồi hộp nhìn ra cửa
mút tay chờ cha chờ mẹ
đi cải tạo không về
người bạn thân lên tàu
đứa nhỏ mỗi ngày chạy sang nhà mẹ bạn đợi tin
người mẹ một hôm hóa điên
ôm chầm nó như ghì xác con vào lòng
Sài Gòn những đêm cúp điện chờ sáng
bọn trẻ con trong xóm bu quanh cây me trước nhà
chờ bà ngoại quết trầu kể chuyện ma
thành phố chờ rợn gáy
kẻ rồ dại chờ tình yêu
người ngây thơ chờ sinh trẻ ra đời
con thiêu thân chờ đèn
cuộc sống chờ chết
con người như con vật thuần phục
chờ vô điều kiện
chờ vãi nước miếng
chờ bất cần thưởng
miễn trái tim còn đập
ngọn lửa còn âm ỉ
chỉ cần lóe lên một tín hiệu
người ta có thể chờ hàng thế kỷ.
26/10/2021
 
Tôi đồng tình với tác giả, sẽ chờ, -dù đó là một nỗi vô hình hay một tiếng động nhẹ quen thuộc- vẫn chờ, miễn trái tim còn đập/ ngọn lửa còn âm ỉ/ chỉ cần lóe lên một tín hiệu/ người ta có thể chờ hàng thế kỷ. Nguyên Yên bất chấp tất cả, miễn trái tim còn thức, một thách thức quyết liệt rất lãng mạn. Thế thì chúng ta sợ gì sự phá sản của niềm tin vào thế hệ chúng ta đang sống?
Và chữ nghĩa vẫn còn là khí giới. Hãy đi. đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu/ cấy vào đó khát khao/ chờ phép lạ mọc
 
TIN
 
là khi trái tim phỉnh cái đầu
mở ra bầu trời
mời gọi giấc mơ
là khi chênh vênh trên miệng vực
ảo tưởng một bàn tay
chìa ra hy vọng
là những phút giây hứng khởi bay
ngực căng dưỡng khí
no say sung mãn
là bước vào những mẩu đối thoại hai chiều
mở cánh cửa ký ức nhìn thấy tương lai
mặc kệ vết thương sâu hoắm
là đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu
cấy vào đó khát khao
chờ phép lạ mọc
nhằm nhò gì những chương sách
nhằm nhò gì những tiên đoán chiêm nghiệm
chúng ta thừa khả năng viết lại câu chuyện giả tưởng
nơi con người ai cũng tìm được đối tượng
và một kết cục có hậu.
26/10/2021
 
Giả tưởng mà không giả tưởng. Hãy đọc lại bài thơ xem. Vì người ta không viết bằng cái đầu mà người ta viết bằng trái tim. ai cũng tìm được đối tượng và một kết cục có hậu, đó là một hoài mong thật sự, vì trời đâu che riêng ai, đất đâu chở riêng ai (ngạn ngữ Trung Hoa), nên nói giả tưởng chỉ là một cách làm cho nhẹ đi nỗi thiết tha của hoài vọng kia thôi.
 
SINH NHẬT
 
tôi cúi xuống thổi ngọn nến hồng
nghĩ về những điều bất tử
                                      đã bị dập tắt
ánh lửa bếp lò bà ngoại đốt
tiếng chim ban sáng hót trong hồn
ba ngàn cánh cửa vào thế giới
giấc mơ mọc cánh chọc trời
ngôi nhà thanh xuân
những cánh cửa mở
cơn gió xa, bông hoa lạ,
rì rào ngôn ngữ trái tim
hành tinh của em
bão trong lồng ngực
mặt trời của anh
lửa trong khóe mắt
khu vườn tâm hồn chúng mình
những buổi bình minh
ngây dại tin yêu
thật thà tưởng tượng
bầu trời này mặt đất này
của chúng ta
sao mai của chúng ta
bản nhạc của chúng ta
bài thơ của chúng ta
nụ hôn trên môi ta ngọt
chuyến tàu tuổi trẻ chiếc vé một chiều
những sân ga những điều bỏ lại
hôm nay ngày mai là những hôm qua
những lung linh cuối cùng
                                          chờ tắt.
8/24
 
Trái tim mới có thể nhận ra đúng nghĩa của những điều bất tử. ánh lửa bếp lò bà ngoại đốt/…giấc mơ mọc cánh chọc trời/ ngôi nhà thanh xuân/ những cánh cửa mở/ cơn gió xa, bông hoa lạ/ rì rào ngôn ngữ trái tim, cho dẫu có thể là một hành trình chông gai của bão trong lồng ngực/ lửa trong khóe mắt của anh và em. Cho dẫu bầu trời này mặt đất này/ của chúng ta/ sao mai của chúng ta/ bản nhạc của chúng ta/ bài thơ của chúng ta/ nụ hôn trên môi ta ngọt là những lung linh cuối cùng chờ tắt, thì chúng ta vẫn kiên định, Đợi:
 
ĐỢI
 
có khi là ngọn đèn đêm,
có khi là ánh trăng lệch
 
có khi chỉ là đốm cháy nhỏ
cố tỏa sáng
 
là cánh cửa sổ mở tìm cơn gió
là bản nhạc cũ bật lên
 
bài thơ xưa rích trên bàn
đòi một dấu phẩy
 
thời gian qua đi
căn phòng vẫn nguyên vẹn
như thể những điều đã một lần khô quánh
trong tim
 
lại có thể - chảy về
 3/8/2025
 
Trong khoảng trống tưởng vô vọng đã có ánh sáng của nhiệt huyết, có khi chỉ là đốm cháy nhỏ/ cố tỏa sáng, thì không lý do gì mà chúng ta không hy vọng vào một ngày được mở mắt thức dậy/ thấy mình là ban mai… ý lời thật đẹp, thật thơ.
 
BÌNH MINH
 
mở mắt thức dậy
thấy mình là ban mai của Amanda Gorman*
là sáng chủ nhật trời quang đãng
nắng ấm sau cơn mưa dầm
 
thức dậy từ bóng tối
thấy màu sắc mọc lên trên ngọn đồi**
chúng ta là hành tinh xanh
là trái đất trở mình sau cơn tắm gội
 
thức dậy vượt qua những hố sâu
ngước mắt nhận anh em, nhận bạn bè
chúng ta những đứa con của Mẹ***
không thể ngủ mê trong chia rẽ
 
thức dậy ngắm nhìn bầu trời
chúng ta đã băng ngang mùa đông dài
nụ hoa xuân trên cành vừa hé nở
có nghe thịt da tự do hít thở
 
thức dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy
nhìn đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời
lịch sử trở dậy chào ngày mới
thế giới nhân văn đang cựa mình
 
chúng ta trở dậy
bằng cặp mắt mở,
hớn hở như bầy trẻ thơ
tập ăn nói, tập cư xử tử tế
 
chúng ta trở dậy
bằng nhịp tim bằng tấm lòng
tập lắng nghe nhau, xóa mọi giận hờn
sửa soạn tâm hồn cho thông điệp sự thật ****
 
mở mắt thức dậy sau đêm mưa
thấy mình như ban mai trên ngọn đồi
bài thơ ngân vang trong lồng ngực
và cái đẹp thức dậy
hồi sinh.
(Sáng Chủ Nhật, 24 tháng Giêng 2021, California sau cơn mưa)
 
 *Amanda Gorman, nhà thơ trẻ 22 tuổi đọc thơ trong Lễ Đăng Quang Tổng Thống Joe Biden ngày 20 tháng 1, 2020
** Thơ viết cảm tác từ ngọn đồi “The Hill We Climb” của Amanda Gorman.
*** “Những đứa con của Mẹ Da Vàng” – ca từ bài Ngủ Đi Con/Trịnh Công Sơn
**** Ngày 23/1/2021, Trong bản Thư Mục Vụ Bảo Vệ Sự Thật phổ biến ngày 23 tháng 1, 2021, Ngày Truyền Thông Thế Giới, Đức Giáo Hoàng Francis đã lên tiếng: “Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về thông tin do mình làm ra, do mình chia sẻ, để kiểm soát (trách nhiệm) như thế thì chúng ta có thể chỉ ra đâu là tin giả. Tất cả chúng ta đều là chứng nhân của sự thật: gởi đi, đọc và chia sẻ”.
 
KẾT TỪ
 
Bài viết này, từ ý thơ của Nguyên Yên, tôi làm nên một bố cục theo tư duy, -khoảng trống giữa những vô nghĩa tồn tại và những bất tử đã bị dập tắt-
Khởi đầu là bài thơ Vô Nghĩa, và một số bài tiếp theo, là tra vấn về sự tồn tại của vô nghĩa. Và ở bài Tin, Sinh nhật, là cảnh tỉnh về sự biến mất của những giá trị thuộc Chân Thiện Mỹ. Giữa hai đầu u hoài ấy là những bài thơ về Tình Yêu, Hoài Vọng, là thứ ánh sáng được thắp lên từ khoảng trống.
 
Tại sao tôi nói khoảng trống. Đó là hình ảnh duy nhất để lại sau những giá trị tốt đẹp bị ruồng bỏ và những phi nghĩa lý được xem như một chuẩn mực mới.
Thơ Nguyên Yên đang sống, thở trong khoảng trống ấy, với nỗ lực, hoài vọng vào chữ nghĩa, một hoài vọng như một thông điệp, thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người… chúng ta trở dậy/ bằng nhịp tim bằng tấm lòng…
 
thức dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy/ nhìn đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời/ lịch sử trở dậy chào ngày mới/ thế giới nhân văn đang cựa mình/…
 
Căn nhà chúng ta vẫn nguyên vẹn. Bóng tối của khoảng trống sẽ được phủ lấp bởi sức sống của cái đẹp, bài thơ ngân vang trong lồng ngực/ và cái đẹp thức dậy/ hồi sinh.
Và,
 
thời gian qua đi
căn phòng vẫn nguyên vẹn
như thể những điều đã một lần khô quánh
trong tim
 
lại có thể - chảy về
 
ntkm