Trịnh
Y Thư
Bản vẽ Duy Thanh
[1931-2019]
13.
Người
chồng cô có một số phận khá kỳ lạ. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo khó
trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cha anh thời trẻ là một tá điền, nhưng dưới
quê làm ruộng vất vả vắt mồ hôi vẫn không đủ nuôi bầy con nhỏ, ông đưa gia đình
lên thị xã Cần Thơ sinh sống bằng những nghề lao động tay chân. Mẹ anh phải
gánh chè đi bán ngoài chợ, ngoài đường phố kiếm thêm tiền. Đông con, nên dù ra
thành phố, cuộc sống họ chẳng khá hơn bao nhiêu so với thời ở dưới quê. Nhưng họ
cố cho anh đi học vì anh nổi tiếng là thần đồng, nhất là môn Toán. Không hiểu
sao giữa một vùng quê nghèo khổ tăm tối lại hiện lên một ngọn đèn sáng rực. Anh
giỏi Toán đến nỗi, sau khi đỗ Tú tài Toàn phần với hạng tối ưu, người thầy của
anh tìm cách đưa anh lên Sài Gòn học Toán tại Đại học Khoa học với người thầy của
chính ông, một nhà Toán học nổi tiếng thế giới. Chỉ sau một năm học, vị giáo sư
này cũng phải công nhận anh là người giỏi Toán xuất chúng. Ông định giúp anh
xin học bổng sang học tại trường Princeton bên Mỹ sau khi anh tốt nghiệp Cử
nhân, vì ông từng được mời sang đấy với tư cách giáo sư thỉnh giảng. Số phận
anh tưởng như thế là sẽ đi lên. Nhưng chiến tranh không cho phép anh trở thành
nhà Toán học lừng lẫy như vị giáo sư khả kính nọ. Không hiểu vì lý do gì, anh
không đi du học mà còn bị gọi động viên khi chiến tranh trở nên khốc liệt hơn,
và bị đẩy ra chiến trường Pleiku. Chiến tranh không phân biệt giữa một thiên
tài Toán học và một tên sát nhân. Tại đây, trong một trận giao tranh, anh bị
thương ở đùi. Trong lúc nằm điều trị tại quân y viện, anh ngỡ mình sẽ thành phế
nhân, cuộc đời xem như bỏ, nhưng vết thương không nặng lắm, sau khi bình phục,
anh chỉ bước khập khiễng thôi chứ không phải chống nạng. Anh không được giải ngũ,
mà thuyên chuyển về làm thư ký trong văn phòng của tiểu khu. Tại đây, anh quen
thân với người chánh văn phòng. Người này ít lâu sau được thuyên chuyển về Phủ
Đặc ủy Trung ương Tình báo, và vì quen thân với anh, biết anh giỏi Toán nên xin
cho anh về làm việc trong phòng Mật mã của Phủ. Anh về sinh sống ngay tại Sài
Gòn, không phải cầm súng, an toàn, công việc lại hợp khả năng, sở thích. Cuộc đời
anh lại lên hương. Nó còn lên một bậc nữa khi người giúp đưa anh về Sài Gòn có
một cô em họ từ Huế vào tìm sống vì gia đình cô tan nát sau biến cố Tết Mậu
Thân, và người này muốn mai mối cô cho anh. Khi được giới thiệu, anh không bao
giờ nghĩ cô chịu lấy mình, vì cô là một trang thiếu nữ xinh đẹp, còn anh là một
anh lính quèn, mặt mũi xấu xí thô lậu, tay chân cục mịch như một nông dân, lại
bị thương chân, đi đứng ngả nghiêng như người say rượu. Nhưng cô chịu lấy anh.
Trong đám cưới, anh tưởng đời mình như vậy là lên hết mức rồi, nhất là ba tháng
sau khi về chung sống, cô báo tin cô sắp đẻ cho anh một đứa con. Nhưng cái ngày
đứa con ra đời cũng chính là ngày vận anh đi xuống, xuống tận cùng đất đen theo
nghĩa đen, vì đó là ngày đội quân chính quy miền Bắc xua xe tăng ủi sập cổng sắt
cái dinh thự lớn nhất miền Nam. Anh chẳng biết làm gì hơn là ngồi ôm đứa con sơ
sinh rồi khóc. Anh biết số phận mình sẽ ra sao. Những người làm việc trong cái
Phủ chuyên về tình báo ấy hình như không ai thoát nạn bị trả thù, vì một nhân vật
cấp cao trong Phủ lại là nội tuyến cho quân miền Bắc. Chẳng ai trốn thoát được.
Anh bị lùa lên một trại cải tạo miền cao. Tại đây người ta không cần giết anh bằng
phát súng nào. Họ chỉ cần bắt anh đi lao động vào một ngày mưa như trút nước
trên một ngọn núi trơn trượt. Cái chân bị thương đi đứng bình thường trên đất bằng
đã khó khăn, huống chi phải trèo lên vách núi cheo leo, chớn chở chặt những
thân cây to đem về làm cột nhà. Trong lúc chặt cây, anh ngã xuống hẻm núi, vỡ sọ,
tay chân gãy lìa, chết ngay tại chỗ. Xác anh nằm đó, không ai buồn xuống nhặt
đem đi chôn. Xác thân một thiên tài Toán học trở thành miếng ăn cho thú rừng cắn
xé.
14.
Cô
có hạnh phúc với người chồng không? Cô không rõ lắm, và nếu có thì nó ngắn ngủi
quá, vỏn vẹn một năm sinh sống với nhau trong căn nhà nhỏ, và nó là thứ hạnh
phúc ở bề mặt thôi, bên trong, cô chẳng hiểu nó là gì. Anh hiền lành, nhưng
ngoài những phương trình và thuật toán rắc rối làm điên đầu kẻ bình thường
không am hiểu, anh chẳng biết gì nhiều về cuộc sống ngoài kia và tâm lý đàn bà.
Anh thương cô, chiều chuộng cô hết mực, nhưng cô không thấy chút rung động với
tình thương của anh. Anh lại vụng về trong cách biểu lộ tình cảm, nên chẳng bao
giờ giữa cô và anh có sự thắm thiết nồng nàn của một cặp vợ chồng, nói gì giữa
tình nhân. Đôi lúc, cô có cảm tưởng anh và người anh họ là một, cô mến cả hai
người, và hai người thương cô, nhưng cô chỉ đáp lại tình thương của anh bằng sự
chiều chuộng lại, rất nhiều khi gượng gạo và đóng kịch. Bi kịch của cô là cô
không tìm thấy chút lửa nào trong trái tim mình. Cô không hiểu nó có ở đó bao
giờ không mà sao cô cố thắp lên mãi vẫn không thấy tia lửa nào lóe lên.
Có
lẽ đó là lý do vì sao cô thấy bình thản trong thời gian “đi khách” cho bà chủ
cái quán cà-phê trá hình ở Sài Gòn dạo trước. Cô xem bọn đàn ông này như một lũ
chó, lâu lâu bị chúng sủa bậy, cắn bậy. Thế thôi. Và cô cũng chẳng khổ sở bao
nhiêu sau cái đêm cô bị lão già, người anh của gã bác sĩ bộ đội, cưỡng hiếp.
Tối
hôm đó, gã bác sĩ bộ đội có ca trực tại bệnh xá, cô và gã mới về ở căn nhà trên
phố huyện chưa được một tháng, nhà cửa còn bề bộn. Cô đang dọn dẹp trong nhà
thì nghe tiếng gõ cửa. Cô ngạc nhiên không hiểu ai đến tìm cô vào giờ này. Cô
ra mở cửa, thấy người anh Cả đứng nhìn cô với đôi mắt lạ lùng, khó hiểu. Người
anh Cả thật ra là con cùng cha khác mẹ với gã bộ đội. Lão ta chưa già lắm, quãng
bốn mấy năm mươi thôi, trông lão ta chẳng có nét nào giống người em trai mình.
Trong khi gã bộ đội trắng trẻo, dáng người dong dỏng cao thì lão đậm người bề
ngang, thấp lùn, nước da đen xỉn, nhợt nhạt, cái trán láng bóng vì tóc đã hói
quá nửa.
“À,
anh Cả… Anh sang em có việc gì ạ? Nhà em đêm nay trực…” Cô mời lão vào nhà, rót
nước mời.
“À…
Tôi chỉ tiện đường tạt vào xem chú thím cần gì không thôi… Tôi ở chợ huyện ra,
có mua biếu chú thím tí quà gọi là mừng nhà mới.”
Lão
đặt chiếc hộp các-tông lên bàn, mở ra, bên trong là một bộ chén bát kiểu, có lẽ
đồ sứ Chu Đậu. Cô hơi chột dạ. Mặc dù biết lão không lâu nhưng cô đã nhận ra
con người ở lão là kẻ nham hiểm tham tiền, làm chuyện gì cũng nghĩ đến điều lợi.
Chắc chắn không phải vì quý mến vợ chồng người em mà lão chịu bỏ tiền ra mua
món quà khá đắt giá ấy. Cô nói vài câu cám ơn và hỏi thăm bà mẹ, thêm vài câu
khách sáo nữa, đột nhiên lão đứng dậy rút trong túi ra một xấp tiền đặt lên
bàn, nói:
“Cô…
cô… Cô đi khách bao nhiêu tiền mỗi lần? Tôi chỉ có ngần này thôi, đủ không?”
“Anh
Cả nói gì, em không hiểu.” Cô ngẩn người không tin vào đôi tai mình.
“Cô
đừng có mà giả câm giả điếc! Người ta nói hết về cô cho tôi nghe rồi. Ở trong
Nam cô làm đĩ, đúng không? Đĩ mà chê tiền à!” Lão bỗng đổi giọng, to tiếng như
quát vào mặt cô.
Cô
chưa có phản ứng gì thì lão đã chồm tới vật cô xuống sàn nhà. Lão đứng thấp hơn
cô nhưng đôi tay nông dân của lão khỏe lắm, lão bóp cổ cô, quắp hai chân đè lên
thân hình cô. Lão làm việc này thành thạo lắm, có lẽ lão đã từng cưỡng hiếp
không biết bao nhiêu cô thôn nữ ngây thơ và phụ nữ cô thế trong làng. Cô bị bóp
cổ nhưng không nghẹt thở, vì lão chỉ muốn hiếp cô chứ không có ý định giết. Lúc
lão lột được quần cô và thúc mạnh lên người cô liên hồi thì lão nới hai bàn tay
ác quỷ ra một chút. Cô thở hổn hển xen lẫn tiếng ho sặc sụa. Lão vẫn hờ hai bàn
tay trên cổ cô, đề phòng cô hét lên kêu cứu hoặc có phản ứng mạnh. Nhưng lão
không biết là trong đầu cô lúc đó hoàn toàn trống rỗng, thân xác cô rã ra như
quả bong bóng xì hơi, nhưng nó chẳng có cảm giác đau đớn khủng khiếp gì. Cô
bình thản chấp nhận thêm một cảnh ngộ bất hạnh nữa xảy ra cho đời mình. Cô xem
như mình đang bị một con chó dại cắn.
Ở
xứ sở nơi cô sinh sống, chó dại nhiều vô số kể.
15.
Hôm
cô tự kết liễu đời mình, trước chợ có một vụ đâm chém nhau.
Lúc
viết dòng chữ này ở phân đoạn Một của thiên truyện, tôi ngờ mình bị ám ảnh bởi
nhân vật Anna Karenina của Tolstoy. Ở phần kết kiệt tác văn chương này, Tolstoy
thuật nàng Anna gieo mình xuống bánh xe chiếc tàu hỏa đang chạy. Quyên sinh.
Một
cái chết thảm khốc và oan khiên. Trước đó khá lâu, đúng ra là hôm gặp Vronsky lần
đầu trên sân ga, Anna chứng kiến một người đàn ông chết như thế. Nhưng vào cái
hôm định mệnh xảy ra cái chết của Anna, nàng ra trạm ga để đón người tình
Vronsky, chứ không hề có ý định đi tìm cái chết! Lúc từ trong nhà ra khỏi cửa,
ý tưởng quyên sinh không chút lởn vởn trong trí óc nàng. Vronsky về quê thăm mẹ
và hẹn nàng mười giờ khuya sẽ về.
Thật
khó hiểu duyên do cái chết của Anna. Tại sao nàng tự kết liễu đời mình?
Ở
bề mặt, câu trả lời có vẻ là khá hiển nhiên. Trước hết, suốt một thời gian dài
những người thân quen trong thế giới nàng quay lưng lại nàng. Thứ hai, nàng rất
khổ tâm vì phải sống xa đứa con trai, Seryozha. Thứ ba, cuộc tình giữa nàng và
Vronsky đi vào chỗ bế tắc, và cho dù Vronsky vẫn yêu thương nàng chăng nữa,
nàng hãi sợ tình yêu đó, tình yêu khiến nàng kiệt lực, tâm tư nàng sôi sục,
nàng còn ghen tuông một cách vô lý. Nàng là người đàn bà sống bởi cảm xúc, cho
cảm xúc. Nàng cảm thấy như bị kẹt cứng trong bi kịch, bi kịch đời sống. Vâng, tất
cả những điều đó khiến người ta dễ dãi đi đến kết luận bởi vì sao Anna quyên
sinh.
Nhưng
sự thật không đơn giản như thế, và ngay cả chúng ta hiểu ra chiều sâu nỗi khổ của
nàng, cái chết của Anna vẫn là điều bí ẩn, khó lòng giải thích tận tường.
Con
người một khi bị kẹt cứng trong bi kịch đời sống, sớm muộn sẽ chọn cái chết cho
chính mình? Không hẳn như thế, lập luận này ít thuyết phục được ai, bởi phần
nhiều chúng ta bằng cách này cách nọ đều tìm ra con đường nào đó khả dĩ thích ứng
với bi kịch cuộc đời mình để tiếp tục sống, dù là một đời sống chìm đắm trong
khổ đau, buồn bã. Nhân vật tôi gọi là “cô” trong thiên truyện này cũng mắc kẹt
trong bi kịch đời sống như Anna Karenina của Tolstoy. Hơn thế nữa, cô còn bị đè
bẹp bởi tấn bi kịch lịch sử khốc liệt mà thế hệ cô gánh chịu. Nhưng mặc dù định
mệnh đẩy cô vào những cảnh huống bi thảm hơn nhiều so với Anna, tôi vẫn không
nghĩ đó là động lực thúc đẩy cô đi tìm cái chết. Tôi biết duyên do cái chết của
cô. Nó là tiếng gọi từ cõi xa xăm huyền bí nào đó kêu réo cô hãy trở về thủy phủ.
Vâng, thủy phủ. Cô chẳng hiểu ý nghĩa tiếng kêu đó là gì, chỉ nghe nó ngọt ngào
quyến dụ vô cùng. Trong lúc chín lịm vào những cơn trầm cảm, cô nghe nó mời gọi
tha thiết như lời mật ngọt rót vào tai, và cô hoàn toàn quy phục để nó dẫn dắt
mình theo ý nó.
16.
Bây
giờ cô ngồi bó gối dưới mấy gốc nho biển nhìn ra biển cả. Nắng mai vẫn chưa
đánh tan lớp sương mù, mặt biển xanh mờ dưới màn sương trắng mỏng. Bãi vắng.
Các tàu đánh cá ra khơi sớm lắm, từ ba bốn giờ sáng. Mãi chiều, nhiều khi tối mịt,
tàu mới về. Lúc đó những người đàn bà trong làng, áo quần lam lũ, đầu sùm sụp
nón lá, ngồi đợi sẵn trên bãi với quang gánh thúng mủng để gánh cá ra đổ lên
chiếc xe tải chờ sẵn trên con đường đất đỏ cạnh Cống Liệp, và từ đó chạy ra chợ
huyện. Cô không thể hình dung mình có thể làm công việc của những người đàn bà
này. Họ trông gầy guộc yếu ớt lắm, nhưng đôi vai họ lại có thể gánh hai cái
thúng, mỗi cái nặng hàng chục kí-lô, và bước thoăn thoắt trên bãi cát.
Cô
chờ mãi vẫn không thấy động tĩnh gì và cô đâm ra sốt ruột. Sương bây giờ đã
tan, bầu trời trong xanh, không gian im ắng, chỉ có tiếng những con hải âu chao
chát bay liệng trên nền trời và tiếng sóng biển ì oạp vỗ vào bờ. Cô ngồi chờ.
Chờ mãi.
Cô
ngắt một lá nho biển cầm trên tay ngắm nghía. Phiến lá to tròn như lá trầu
không, gân lá màu đỏ tía trông thật đẹp. Cô nhớ gã bác sĩ bộ đội bảo cô nho biển
chỉ mọc ở vùng ven biển nhiệt đới như vùng này. Dân làng gọi nó là cây tra. Nó
khỏe lắm, sống trên cát mà mọc cao cả mười lăm hai mươi mét, tán lá rộng, nhưng
quả thì chua lắm. Gã hái vài quả cho vào mồm nhai ngon lành, gã ăn chua như đàn
bà có mang ba tháng. Cô cắn thử một quả, nhưng chưa kịp nhai đã phải nhổ ra phì
phì vì nó chua đến ê răng. Gã cười bảo cô: “Em phải có thai ba tháng mới thấy
nó ngon như thế nào.” Cô cười, biết đó là câu nói đùa, nhưng dù là câu nói đùa,
nó vẫn đượm giọng buồn bã, chua xót làm sao.
Đó
là những buổi chiều hiếm hoi gã bác sĩ bộ đội có chút thời gian rảnh rỗi sau những
ca trực đêm tại bệnh xá, lấy xe đạp đèo cô ra đây ngắm hoàng hôn. Hai người ngồi
bên nhau thủ thỉ, nhưng thật ra gã nói nhiều chứ cô lâu lâu mới ậm ừ đáp trả một
câu hỏi nào đó của gã. Hơn một lần gã hỏi cô:
“Anh
phải làm gì cho em để em thoát ra khỏi nỗi buồn kéo dài như thiên thu này?”
“Anh
chẳng làm gì được đâu.” Cô trả lời gã. Cô định nói cô bị bệnh buồn, bị từ thời
con gái, nhưng hai chữ “bệnh buồn” đối với cô chẳng có ý nghĩa gì cả, thậm chí
ngớ ngẩn. Cô sợ gã bác sĩ bộ đội cười mình, bảo mình dở hơi nếu cô bảo gã cô mắc
chứng bệnh đó. Nhưng thật ra đó lại là một sai lầm tai hại khác của cô. Tôi
nghĩ giá như lúc đó cô cứ nói với gã, biết đâu trong đầu óc gã bỗng lóe lên ý
nghĩ cô bị chứng bệnh ấy thật, và biết đâu gã có cách chạy chữa cho cô, bởi sự
thật là cô bị chứng tâm bệnh mà ngày nay người ta có cái tên gọi hay ho là “rối
loạn lưỡng cực.”
17.
Cô
không biết bây giờ là mấy giờ, chỉ cảm thấy trời mỗi lúc mỗi nóng thêm. Đến lúc
cô cảm thấy nóng bức chịu không nổi và định đứng dậy bỏ ra về thì bóng một chiếc
thuyền từ ngoài khơi tiến về ngay phía cô. Chiếc thuyền phóng vùn vụt trên mặt
nước. Cô có cảm tưởng nó sẽ đâm vào bãi cát, và nó đâm thật. Cô định thần nhìn
kỹ thì thấy đó là một chiếc thuyền thúng. Lạ nhỉ? Ở vùng này làm gì có thuyền
thúng, và hình như người trên thuyền chẳng có mái chèo mà sao chiếc thuyền vẫn
phóng như bay. Một người đàn ông từ trên thuyền bước xuống, đúng hơn, một ông
lão, vì râu tóc ông bạc phơ. Nhưng trông ông quắc thước, khỏe mạnh lắm. Chắc là
dân đi biển lâu năm, từ thuở ông còn trai tráng. Trên người ông mặc bộ quần áo
vải nâu bạc phếch, loại ngày nay không ai mặc nữa. Hình như ông là người từ quá
khứ trở về, chiếc khăn ông quấn trên đầu chỉ làm tăng thêm vẻ xa lạ đến độ dị kỳ.
Ông đến gần cô, nói:
“Già
xin cô thứ lỗi cho vì đã bắt cô đợi lâu.” Giọng ông nghe quê mùa nhưng ấm áp,
chân tình.
“Không
sao đâu, thưa cụ. Mình đi chưa?” Cô đáp lời, thấy hơi lạ về cách xưng hô của
ông lão, cô chưa bao giờ nghe ai xưng là “già.”
“Mình
đi ngay. Mẫu đang đợi cô dưới thủy phủ.” Ông ôn tồn bảo cô.
“Từ
đây xuống đấy, có xa lắm không, thưa cụ?” Cô hỏi ông lão.
“Xa
lắm. Nhưng với tài chèo thuyền của già thì chỉ độ nửa ngày là đến.”
Nói
đến đây, ông có vẻ ngần ngừ như có chuyện gì khó nói. Mãi một lúc sau, ông mới
thốt:
“Già
xin hỏi cô một điều là cô đã nhất quyết, không còn gì vướng bận trong lòng để
đi xuống gặp Mẫu chưa?”
“Thưa
cụ, cụ nói như thế là có ý như thế nào ạ?” Cô thắc mắc hỏi lại.
Ông
lão đưa tay lên gãi gãi đầu, nét mặt nhăn nhó mãi, cuối cùng ông nói:
“Vì
khi cô bước vào thuyền rồi thì cô không thể trở lui được nữa. Nghĩa là cô sẽ
không bao giờ về lại đây. Mẫu dặn đi dặn lại già phải hỏi cô như thế. Chỉ cần
cô có một tí do dự, nghi ngại nào cũng không được quyền đem cô đi.”
“Thưa
cụ, cháu đã quyết.” Không ngẫm nghĩ, cô bảo ông lão, giọng cả quyết.
“Nếu
thế thì xin mời cô lên thuyền ngay. Cô phải bỏ lại tất cả vật dụng tùy thân,
ngoại trừ chiếc áo đang mặc.”
“Vâng,
cháu chả có gì trên người ngoài chiếc áo này.”
Ông
lão không nói gì nữa, ông chỉ làm nhiệm vụ của kẻ thừa hành, kẻ tôi tớ trong
nhà, kẻ quen tính kín đáo, không bao giờ hỏi han tọc mạch chuyện người khác. Cô
bước theo ông lão. Chiếc áo lụa trắng bay phất phới trong gió biển. Ông lão nhường
bước cho cô bước vào thuyền trước. Từ bãi cát, cô nhấc chân bước vào chiếc thuyền
thúng. Rất lạ. Nó chẳng tròng trành chút nào. Bắc ngang giữa thuyền là một băng
ghế dài làm bằng những thanh tre đều đặn. Cô ngồi xuống đó, ông lão theo sau bước
vào thuyền. Ông đứng chứ không ngồi. Hai mắt nhìn thẳng ra khơi, ông phất tay,
chiếc thuyền lao vụt đi, chỉ trong chớp mắt nó đã biến dạng sau làn nước trong
xanh. Phẳng lì. Ngút mắt.
Từ
đó, không ai thấy người đàn bà với chiếc áo lụa trắng đâu nữa. Năm đó cô vừa
đúng hai mươi chín tuổi.
18.
Kết từ
Nhiều
năm về sau, miền đất ven biển đó đổi thay nhiều, nhất là từ khi các tập đoàn
công ty nước ngoài đến xây dựng các nhà máy công nghệ đủ loại. Các nhà máy này
thải chất cặn ra biển, lâu lâu giết chết cá hàng loạt. Nhưng chỉ sau vài tháng ồn
ào phản đối chiếu lệ, chẳng ai làm gì bởi xung quanh các nhà máy đó là một tập
thể cả ngàn con người, dân thường cũng như quan chức nhà nước, sống tầm gửi nhờ
tiền bạc hào phóng của những chủ nhân ông trong nhà máy. Người ta đốn gần sạch
các gốc nho biển để có chỗ cho các khách sạn cao tầng mọc lên. Nhà cửa, hàng
quán, ổ điếm, nhà nghỉ, nhà xoa bóp chen chúc nhau trên những con phố chật hẹp,
rác rưởi bẩn thỉu. Từ một ngôi làng đánh cá bé nhỏ xinh đẹp hiền hòa, nó biến
thành nơi không chuyện gì khiếp hãi trên thế gian không xảy ra, từ xì-ke ma túy
cho đến đâm chém giết người.
Sự
biến đổi nhanh đến chóng mặt, duy một chuyện không hề đổi khác dù bao năm đã
trôi qua. Thi thoảng người ta vẫn thấy người đàn ông già nua dáng dấp tiều tụy,
gầy còm, lưng hơi còng, râu tóc bạc trắng, da dẻ nhăn nheo, ra ngồi dưới đôi ba
gốc nho biển còn sót lại, dõi mắt nhìn ra biển khơi như mong ngóng cái gì. Ông
ngồi như thế hàng giờ, mỗi lần thấy bóng một con tàu hay một vết đen gì từ
ngoài khơi tiến vào bờ, ông đứng hẳn người dậy nghển cổ nheo mắt cố nhìn. Nhưng
lần nào cũng thế, ông lại thất vọng ngồi xuống, lại thấp thỏm đợi chờ. Không biết
ông chờ đợi ai, cái gì. Khi ráng chiều đỏ quạch đến man rợ phủ xuống mặt biển
xanh đen, khi các cô gái điếm níu tay níu vai các gã người Hàn cao lớn, người
Úc bụng phệ đi dạo đầy bãi biển, khi đèn đuốc bật lên sáng choang trong khu phố
chỗ nào cũng ngửi thấy mùi thịt cá nướng và rượu bia, ông già lại ôm chiếc chiếu
con vào nách, lững thững ra về. Chẳng ai chú ý đến ông, chẳng ai hỏi han ông,
nhưng bất chợt có người lớn tuổi nào đó chạm mặt ông, người đó cung kính cúi đầu
chào “Bác sĩ ạ.” Ông gật đầu chào lại, không nói năng gì, mắt không nhìn người
đó, lầm lũi đi.
–
TRỊNH Y THƯ
(Trích
đoạn tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ)