Sunday, July 3, 2022

THÁNG BẢY LẮNG HƯƠNG TRẦM TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN NGUYỄN MỘNG GIÁC (1940-2012).

Đoàn Minh Đạo
 
Hình nhà văn Nguyễn Mộng Giác và hiền thê Nguyễn Khoa Diệu Chi
cùng bộ bản thảo Sông Côn Mùa Lũ.
 
Hôm nay 2/7/2022 là ngày kỷ niệm 10 năm nhà văn Nguyễn Mộng Giác ra đi! Nguyễn Mộng Giác sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Đại học Sư phạm ban Việt–Hán Huế. Đến năm 1975 khi mất Sài Gòn ông là nhà giáo và công chức trong các bộ phận chuyên môn trong ngành giáo dục VNCH.
 
Ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đến thời điểm này về văn học ông từng cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Và tác phẩm ấn hành trước 75 gồm có:
 
Nỗi băn khoăn của Kim Dung (tiểu luận, Văn Mới, Sài Gòn, 1972)
Bão rớt ( Trí Đăng, Sài Gòn, 1973)
Tiếng chim vườn cũ (Trí Đăng, Sài Gòn, 1973)
Qua cầu gió bay ( Văn Mới, Sài Gòn, in thành tập năm 1974)
Đường một chiều (Nam Giao, Sài Gòn, 1974 Giải Văn Bút Việt Nam).
 
Khi ở hải ngoại:
Ngựa nản chân bon ( Người Việt, Hoa Kỳ, 1984)
Xuôi dòng ( Văn Nghệ, Hoa Kỳ, 1987)
Mùa biển động (trường thiên tiểu thuyết, Văn Nghệ, Hoa Kỳ 1982–1989)
Sông Côn mùa lũ (trường thiên tiểu thuyết, 4 tập, viết từ năm 1977–1981, An Tiêm (Hoa Kỳ 1990, 1991.
Nghĩ về văn học hải ngoại (n Văn Mới, Hoa Kỳ, 2003)
Bạn văn, một thuở...(Văn Mới, Hoa Kỳ, 2005)
Đêm hoang ( báo Đồng Nai, Hoa Kỳ).
 
Ông là nhà giáo, nhà văn kinh điển, nghiêm túc và nhân cách an hòa mà tôi qúy trọng. Ngoài tìm đọc tác phẩm của ông , đâc biệt hai bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ và Mùa Biển Động ông khai quật trình thuật hoàn cảnh và mối ưu tư về một giai đoạn lịch sử nhiều biến động của đất nước . Đồng thời cũng soi rọi đặt ra những kinh nghiệm và mơ ước cho dân tộc và tương lai.
 
Tôi là người thiểu giao, quen biết ít, nhất là đối với văn giới mà người ta hay gọi là chốn gió tanh mưa máu; e dè dù yêu quý văn chương nhưng khi tiếp xúc với ông thì khác. Từ khi mới lớn 10 tuổi đã say mê đọc sách, chỉ có giai đoạn 75-90 tôi không đọc gì vì thấy không đáng đọc khi sống trong nước! Sang Hoa Kỳ lại tất bật làm việc để sống đứng trên đôi chân của mình phụ giúp gia đình tôi lại đọc lại. Cuối tuần nghỉ không quên cần mẫn lục tìm sách, nhạc trong các tiệm sách cũ của Mỹ, Nhật, Trung Hoa.. cũng giống như cậu bé năm xưa 1956 nhảy tàu hỏa từ một thị xã nhỏ miền Trung lên tìm mua sách ở Tỉnh Quảng Trị. Ông củng cố niềm tin vào văn học nơi tôi; trả lời câu hỏi Văn chương có thể làm gì? Hay cảm nhận thiết thân của nhà thơ trong thời khốn khó! (Weiß ich nicht und wozu Dichter in dürftiger Zeit? Friedrich Hölderlin, Brod und Wein.)
 
Riêng với nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng là tình cờ được nhờ chở bạn tôi nhà văn Song Thao đến thăm anh chị Nguyễn Mộng Giác và Nguyễn Khoa Diệu Chi ở quận Cam Trong căn phòng khách khá rộng anh Giác cho tôi ấn tượng hình ảnh của một con người nhân ái, hòa đồng, lạc quan ! Và chị Diệu Chi, họ chị Nguyễn Khoa là một dòng họ khoa bảng nổi tiếng cố đô Huế mà tôi cũng có vài người bạn học mang; sau cặp kính trắng chị toát ra nét của một nhà giáo mô phạm đồng điệu với anh, một phụ nữ đảm đang, một người vợ hiền giúp chồng trong sự nghiệp! Hôm đó chị cũng cho chúng tôi coi bản thảo trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của anh. Chị kể lại những khó khăn lo lắng khi được xuất cảnh do anh bảo lãnh, phải đóng gói làm sao an toàn bản thảo hàng ngàn trang được viết trên giấy 8,5x11" (tôi áng chừng) đóng bìa cứng làm bốn tập. Rủi ro không qua mặt được hải quan bị tịch thu, giữ lại thì công trình đổ tuột "Sông Côn" không biết sẽ phiệu dạt về đâu?
 
Cũng theo nhà văn Song Thao bản thảo được viết trên giấy hồi xưa được phát cho các thí sinh làm bài thi, chữ viết rõ ràng, thẳng tắp, hầu như không có một vết tẩy xóa hay sửa chữa. Tác phẩm mà qua điện thư ngày 28/11/1998 anh Giác tự bộc bạch gửi cho anh Song Thao "Trong những sách tôi viết, tôi bằng lòng nhất bộ truyện “Sông Côn Mùa Lũ”. Hồi đó khổ quá, hàng đêm viết “Sông Côn Mùa Lũ” như viết di chúc, tất cả tâm thành và tâm sự dồn vào trang giấy. Có lẽ nhờ thế mà sau 20 năm, “Sông Côn Mùa Lũ” vẫn còn làm cảm động được anh chị”.
 
Tôi cảm nhận Sông Côn Mùa Lũ và Mùa Biển Động là hai trường thiên tiểu thuyết hàm chứa những diễn ngôn quan trọng đầy tham vọng và thành công độc đáo nhất của đời văn Nguyễn Mộng Giác. Sau lần sơ giao ấy, cùng những lần tham dự sinh hoạt văn nghệ có ông trên diễn đàn, được biết ông mắc bệnh ngặt nghèo không còn phụ trách Tạp chí Văn Học, mỗi lần gặp thần sắc ông cũng kém đi, nhưng vẫn giữ được phong thái lạc quan, thân ái không hề giảm sút.
 
Ông mất vào ngày  2 tháng 7. 2012 trong sự tiếc thương của cộng đồng, độc giả và văn giới. Tôi có làm bài thơ truy niệm ông nhưng không phổ biến vì ngại thiên hạ cho là bắt quàng; mãi một năm sau đến cái Giỗ đầu của ông tôi lặng lẽ bỏ lên blog Du Tử Lê không ghi chú mà riêng mình tưởng niệm ông. Nay nhân 10 năm ông qua đời mọi hệ lụy đã lắng, ghi lại đây như chút hương thơm truy điệu ông nhà văn lớn theo đánh giá phê bình của nhà biên khảo Thụy Khuê : "Ông là một trong những cột trụ đã xây dựng nên nền văn học Việt Nam hải ngoại."
 
 
THÁNG BẢY LẮNG HƯƠNG TRẦM
tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác.
 
Cơn mưa Hạ đã xa tôi rồi
Mùa Hạ huyễn ảo khói cỏ đốt trong vườn
Mùa Hạ gọi tôi về trên những cánh cửa sổ mở buông
Thõng tay vào nắng ấm
Từ giã dòng sông heo hút gió
Dòng sông đã một lần thầm nhủ
Nếu chiều nay không có một người
Chắc biển chiều hoang vắng
Tôi mãi không tin vào định kiến
Người đàn ông không ngừng nói với biển
Bên cánh hải âu u khuất
Không buồn chuyến khởi hành nào đi về vĩnh cửu
Đơn độc đâu màu ảo ảnh
Người vẫn chờ nhau nơi góc nào cô quạnh
Chúng ta cứ nhảy múa bên triền vực
Hữu hạn hư vô
Sống với đất và chết với biển
Cay đắng với từng hoài niệm
Vùng ngoại vực phục sức sóng
Dập tàn khốc trong ngày câm lặng
Dập xác xơ niềm tin nghi ngại bạc đầu
Dập lao chao sinh linh nhiễm độc
Dập ngộp người vốc đất lấn biển
Dập phủ đầu mỏm bất trị Vươn lên
Dập cuồng nộ hình tượng hồn nhiên
Váng vất đầu ô nhiễm
Ném cục đất lên bàn quay định mệnh
Một xương gốm tạo hình
Nhúng lịm chìm men rạn tư do
Vọng màu céladon sau chuyến lò ăn khói
Cuộc hoài thai trong lòng mẹ rực hồng
Đất thó trắng áo màu men ngọc tồn sinh
Cuộc thử lửa biến hình tạo tác
Hoan lạc câu truyện cổ
Vách bầu lò mờ sắc gốm hoa nâu
Đêm rạo rực nước nguồn tuôn về sông biển
Giọt lệ xé băng vườn cây trái
Mọi biện chứng triệt chiều sợ hãi
Hãy nhẫn nhịn cùng sinh mệnh
Như mũi kích bay về phía trước
Cơn nắng lạ nứt sập bờ tường ngục
Ngút vang lên hợp xướng hoan ca
Không gian dối mơ làm người tạc tương
Khi những miếu đền toàn bệ ảo chen chân
Cái ác không thể nào vĩ đại
Trăng rừng ơi tịch mịch đau
Âm vang cuộc hồi đầu vĩnh cửu
Kẻ chiêm nghiệm một dòng sông
Lúc êm đềm và khi cuồn cuộn lũ
Mùa cứ động đi
An bình đã tiễn người về trong gió đất quê
Tháng Bảy lắng hương trầm
Khuất xa thơm mãi
Bay về biển lặng cùng ai
Dội sóng ngầm
Từ trong mầm đá toát thanh âm
Chao cánh hải âu giao phối biển
Sóng bạc đầu
Rạng nghĩa huyền âm.
 
ĐOÀN MINH ĐẠO.
7/2012.

No comments:

Post a Comment