Thursday, December 13, 2012

KÝ ỨC SƠ SÀI


Nguyễn Anh Khiêm


                              Về nơi phố xưa. Đinh Cường
12.
      Năm 1977 tôi làm hiệu phó lao động tại một trường cấp 3 vốn là trường tư Công giáo thuộc dòng Lasan. Một ông frère là giáo sư trường cũ vẫn được lưu dụng dạy môn tiếng Pháp hỏi tôi hiệu phó lao động thì làm những gì, tôi nói cũng không biết, để từ từ xem sao, chắc không đến nỗi thất nghiệp, ông lắc đầu nhè nhẹ nhìn tôi mỉm cười. Ngôi trường lẩn khuất yên tĩnh trong hẻm gồm hai dãy lầu, một dãy trệt, bóng mát cây sọ khỉ và cây điệp hoa vàng cổ thụ mấy vòng tay ôm xanh um che rợp một khoảng sân rộng. Những buổi chiều muộn vắng bóng học sinh, tôi thường ngồi bên gốc cây xem lũ chim sẻ tụ tập rối rít kiếm ăn trên sân, nghe động, chúng  bay vù mất hút sau mái ngói, giây lát cả bầy lại hạ cánh nhảy nhót, dòm dáo dác, mổ lia lịa không biết những gì trên mặt sân xi-măng khô; ngó qua phía nhà thờ Tân Định, trong ánh chiều nhập nhoạng, lũ dơi túa ra chao liệng rập rờn phía trên gác chuông cao vòi vọi. Trước mặt tiền trường có sân bóng chuyền, phía sau có sân bóng rổ rất đẹp. Điều kiện thuận lợi vậy nên giáo viên và học sinh của trường luôn đoạt giải thể thao mỗi lần có tranh đua toàn thành phố. Chính vì cái sân bóng chuyền này mà tôi thường bị mấy người trong ban giám hiệu phê bình tôi làm mất “nề nếp” hoạt động dạy và học, chỉ vì chiều nào cũng cho học sinh và nhóm thanh niên vốn là cựu học sinh của trường trong xóm chơi bóng. Tôi nghĩ thể thao Việt Nam rồi ra sẽ đội sổ vì thể thao học đường hầu như bị ngăn chặn kỹ. Chỉ khuyến khích trên giấy tờ văn bản thôi chứ không thi hành một chút nào hết, mà thể thao học đường là nguồn vững chắc căn bản nhất để chọn tuyển. Khổ nỗi họ chỉ lo thi đua học thuộc bài đậu phổ thông bằng trường khác, giữ vững được nề nếp dạy và học là mục đích gần như duy nhất. Bà hiệu trưởng và hai bà hiệu phó, toàn cán bộ tập kết về, luôn ám ảnh chuyện nề nếp, thấy rõ họ là thành phẩm điển hình của kiểu giáo dục ngay ngắn cứng nhắc, gần như răm rắp biến trường học thành trại lính, chẳng hạn ghi tên và mã số học sinh lên áo để mỗi lần gọi là phạm lỗi gì thì thầy cô hoặc đội sao đỏ, cờ đỏ dễ nhận ra đích danh thủ phạm; xếp hàng đúng vị trí cố định trên sân trường, phải tuân theo một kiểu cách duy nhất khi giơ tay phát biểu ý kiến…Đời tôi bỗng u ám dưới ách thống trị của ba bậc nữ lưu tập kết trở về Nam. Tôi bị phê bình chắc cũng tại tôi phụ trách lao động mà chỉ gần như thuần túy lao động… đánh banh. Trước khi trường “giải thể”, tôi còn bị cắt “lao động tiên tiến” (chỉ tại trái bóng chuyền). Nghĩ cũng oái oăm, hiệu phó lao động tiêu biểu cho lao động lại bị …cắt lao động tiên tiến! Phải chi có chức hiệu phó thể thao văn hóa các thứ thì đỡ, ít nhất cũng được phần thể thao (chứ văn hóa thì tôi e lại cũng không có!). Bị phê phán bao nhiêu tôi cũng không chừa. Thời thế đó quả không có gì vui bằng những trò đơn giản dễ dãi như chiều nào đám bạn giáo viên thân nhau cũng tụ tập chia phe đánh banh uống nước mía. Hơn thua chỉ có thế mà chúng tôi cãi nhau, ăn gian nhau, banh out thì nói in và ngược lại, không có trọng tài nên không ai phân xử, phe nào già hàm thì thắng. Chúng tôi cười mãi chuyện một tên giáo viên trong nhóm vừa bị mấy cô mậu dịch ở “điểm” bán gạo xúm lại xỉa xói. Chẳng là anh ta đi mua gạo, mua hoài loại gạo hẩm lẫn đầy hột cỏ và cát sạn, anh chán quá bèn nói:
     - Cô ơi, cô làm ơn để riêng hột cỏ, cát sạn này nọ một bên, gạo hẩm một bên, tôi phấn khởi mua bằng hết các thứ, xin đừng “trộn” vào, tôi lựa cả ngày mệt quá. Tay này nói chơi nhưng oan cho mấy cô nên bị giũa.
      Trên đường đến trường, mỗi sáng xuống dốc cầu Kiệu tôi đều thấy anh Trần Phong Giao lom khom bưng hủ tiếu cho khách, bà vợ tần tảo của anh kê mấy cái bàn nhựa trên vỉa hè bán quà sáng, anh thì lầm lỳ tự nhiên bưng tô rửa bát, có vẻ chu toàn bổn phận như lúc còn làm thư ký toà soạn báo Văn. Buổi chiều tôi ghé chơi thì thấy anh chăm chút ngồi lựa hột cỏ và cát sạn trong gạo, tập trung cao độ, kỹ càng như lúc chọn…thơ cho báo Văn hay ít ra đó là trò giải trí thảm hại giết thì giờ cho một quãng đời thừa trống trải.
        Chúng tôi vừa thi đấu vừa trêu chọc, khích bác nhau, cười vui hả hê, thật sự quên đi giây lát những thiếu thốn vật chất triền miên. Lương lãnh ra, dè sẻn đến đâu cũng chỉ thu vén được giỏi lắm một tuần, ba tuần còn lại chạy vắt giò lên cổ, mua đi bán lại vặt vãnh, làm đủ trò khỉ lem nhem, sẵn sàng ngửa tay vay mượn từ ký gạo hẩm đến mớ mì khô, có điều ai cũng vậy nên chẳng biết mượn ai thôi. Nghĩ lại, không hiểu tại sao mình vẫn nuôi được mấy đứa con đi học, bằng cách nào mà qua được tháng năm kinh hoàng đó. Chao ôi, cái thời kỳ gọi là quá độ để tiến lên…quá độ nghĩa là qua đò, đến bao giờ mới qua xong  con đò chiều nghiệt ngã để tới được bến bờ cứu rỗi đầy hứa hẹn trong  triền miên thiếu đói này!
       Cái gọi là món ăn tinh thần cũng tệ hại không kém. Chúng tôi háo hức đi xem phim Chiến Tranh và Hòa Bình do Liên Xô dàn dựng, nghe nói vô cùng vĩ đại. Xem gần hết phim mà cứ quay sang hỏi nhau:
     - Ủa, Maria là bà nào? Thì bà đó đó… làm gì phải, sao già vậy? còn ông này là Pierre hay André?...
      Công nhận là họ dàn cảnh trận Borodino rất vĩ đại nhưng cũng chỉ có thế, phim thì gần như quay theo chương hồi trong sách nên không ai hiểu gì hết. Scénario của phim khác hẳn truyện, không hiểu sao không phân cảnh lại, kỳ thiệt chớ! Bọn Mỹ, vào phim chừng năm bảy phút đã thấy tài nghệ của diễn viên, đằng này, ai lại gần hết phim mà đám nhân vật vẫn chìm nghỉm, chẳng biết ai vô ai. Thôi, về giải trí đánh banh là thượng sách.
      Thật ra lúc đầu tôi cũng cố chu toàn bổn phận, lăng xăng (như thằng mới tới) lo kiếm việc cho học trò làm. Tôi thuê xe tải lên mấy lò gốm Lái Thiêu mua loại lu phế phẩm rẻ tiền về cho học sinh tự kiếm đất cho vào để trồng cây làm vườn sinh vật. Tôi mê những dòng sông tràn bờ, những vườn cây rợp mát vùng Bình Dương nên hễ có dịp là tìm cách chạy lên đó. Thanh Tâm Tuyền cũng có thời gian dạy học ở Bình Dương, ông tả cảnh sắc vùng này bằng một thứ văn xuôi đẹp dị thường với niềm thiết tha trìu mến trong một truyện ngắn, đọc rồi không thể quên. Tôi không nhớ rõ giáo viên dạy sinh vật bảo các em trồng những gì, lúc đầu cũng có vẻ xôm tụ, rầm rộ nhưng chỉ qua năm sau cây lá héo khô vì không được chăm bón, vả lại những thứ cây đó rốt cuộc chẳng để làm gì, may ra chỉ có mấy bụi sả có ích cho mấy cô căn tin thôi. Tôi còn đến chỗ hợp tác xã sản xuất mành trúc xin làm hợp đồng cho học sinh cạo sạch lớp vỏ mỏng trên thân cây trúc cho bóng, xong giao lại cho họ thành phẩm. Tiền công rẻ tệ nhưng ai quan tâm, miễn có việc cho học sinh làm là hay rồi. Học sinh tụ tập, mỗi lớp một góc sân trường, ngồi lê lết trên hành lang, cạo cho bằng hết phần trúc được giao. Có lần một em hỏi tôi, lớp em cạo xong bó trúc lớn như vậy thì được bao nhiêu tiền, tôi nói cho em biết đại khái số tiền, em học sinh tròn xoe mắt:
     - Trời ơi, làm đúng một buổi vậy mà tiền công mỗi đứa chưa uống được li nước mía thầy! Sao tệ vậy thầy?
      Em cười nói tiếp:
     - Nếu vậy bọn em trả cho thầy gấp đôi tiền đó, thầy cho về đá banh.
      Tôi bảo tiền bạc không thành vấn đề, người ta chỉ cốt dạy cho mấy anh ý thức về lao động cùng giá trị của lao động các thứ. Em học sinh nói tiếp:
     - Tức là giá trị rẻ bèo của lao động chứ gì thầy?
       Phải công nhận chuyện lớn nhất chính quyền CM làm được lúc đó chính là việc công lập hóa tất cả trường tư thục ở đất Sài Gòn này, nó vượt quá sự suy luận thông thường, tiền ở đâu mà họ có thể trả lương cho từng ấy giáo viên cùng cán bộ quản lý rình rang…Tôi vẫn nhớ gương mặt đầy tự hào của ông Mười Tân, phó giám đốc sở Giáo dục thành phố, khi ông phát biểu trong một cuôc họp:
     - Ta công lập hóa tất cả trường tư thục của ngụy quyền Sài Gòn các đồng chí, bản chất chế độ ta là không chấp nhận lợi nhuận trong giáo dục, có khó khăn đó nhưng ta sẽ vượt qua.
      Lý tưởng thật, đáng nể lắm. Nhưng rồi tôi nghĩ bụng đây chẳng qua động tác phô trương thanh thế ngắn hạn, thế nào họ cũng phải có cách gì chớ làm sao chịu thấu gánh nặng ngân sách ngàn cân như thế. Quả nhiên chỉ một năm sau, họ bắt đầu “tổ chức lại” bằng cách bỏ hẳn một số trường cấp ba, số trường khác vẫn giữ lại nhưng chỉ có cấp 1,2. Trường tôi tồn tại cho tới 1980 thì “giài thể” hẳn. Chuyện ít ai ngờ tới, từ đây về sau, và càng về sau càng nặng, đó là học sinh trường công bắt đầu đóng tiền. Tất nhiên họ dại gì gọi là học phí mà xào nấu chữ nghĩa để gọi tên các món tiền phải đóng bằng những thứ quỹ tự nguyện, có vẻ độc lập với chính quyền, nghe có vẻ chính đáng và nhẹ nhàng hết sức. Sáng tạo nhất là đưa hội phụ huynh mà họ gọi là hội cha mẹ học sinh ra làm bung xung để kiếm tiền chi cho các hoạt động. Bao nhiêu năm trời phải đi họp phụ huynh cho mấy đứa con, buồn nhất là gặp mấy thầy cô giáo viên chủ nhiệm dạy môn văn mà hầu như không nói đúng tiếng Việt hoặc nói một thứ tiếng Việt nghèo nàn thảm hại, thứ đến hình như chỉ gặp ông hội trưởng, bà hội trưởng phụ huynh lăng xăng pha chút nịnh nọt chuyên khuyến khích đóng tiền, chẳng khác…nối giáo cho giặc (chắc cũng vì lo cho sự học của con). Trong các món tiền phải đóng, tôi nhớ có thứ gọi là “kích cầu giáo duc”, đóng khá nặng nhưng không hiểu quỹ đó dùng làm gì, nghe nói dường như để sửa hoặc xây thêm phòng học mới. Lạ thật, nếu vậy thì chuyện này dây dưa gì tới kích cầu giáo dục. Muốn chính danh việc thu tiền, chỉ cần chế thêm danh từ  (một cách lem nhem, đại khái, tùy tiện) như vậy đó. Thế là chỉ đôi ba năm sau tuyên bố hồ hởi công lập hóa tất cả trường tư thục, các đồng chí “kế thừa” của ông Mười Tân vượt qua khó khăn bằng cách…tư thục hóa tất cả trường công lập! Những năm đầu còn nhẹ nhưng càng về sau họ càng trượt dài trong chuyện thu gom tiền bạc để …củng cố lợi nhuận. Đến nay thì sự nghiệp đó tiến tới hoàn hảo: Từ Mẫu giáo đến Đại học, tất cả chỉ công lập trên danh nghĩa, thực chất từ tờ giấy thi học kỳ đến quyển sổ liên lạc học sinh đều phải trả tiền! Họ ngồi không nên còn “động não” nghĩ ra nhiều cách làm tiền học sinh hết sức tài tình. Chẳng hạn mỗi dịp có thi cử các thứ, họ đều phát hành những tập tài liệu mỏng gọi là ôn thi, đại khái cho biết chương trình hạn chế, mỗi môn học đều có bài tập, bài làm mẫu… cho tất cả các cấp lớp, “trọng tâm” là các lớp cuối cấp. Những tập sách mỏng, giá lẻ không bao nhiêu nhưng nếu tính số cả triệu học sinh các cấp thì số tiền thu được khiến ta té ngửa  kinh ngạc. Mà không phải chỉ mỗi kiểu thu thế này, còn khối cách kiếm lợi nhờ quyền lực và cách thức độc quyền trong lối tổ chức giáo duc nên từ năm này sang năm khác, quan chúc to nhỏ trở nên giàu có dễ ợt. Những chuyện này có nhắc lại chẳng qua vì tính “lịch sử” của chúng chứ so với chuyện phát hành độc quyền sách giáo khoa cùng những tài liệu học tập vẽ vời sau này…như các loại vở bài tập in sẵn cho học sinh điền vào một lần rồi bỏ cực kỳ lãng phí thì chúng trở thành …chuyện nhỏ. Càng ngày thiên hạ càng chưng hửng ra bộ giáo dục là chỗ động não hơn mọi ngành trong kiếm tìm tiền bạc với nhiều mánh lới chính danh vô phương “phản biện”. Sao xứ sở ta lắm trò  mỉa mai cay đắng vậy hỡi trời xanh không bao giờ lên tiếng!
      Vì liên tưởng lan man nên sau này, lúc dạy tại trường CĐSP, có lần tôi nghe một ông Thạc sĩ sử bảo Trần Trọng Kim là Việt gian, làm bù nhìn cho Nhật, tôi ngứa miệng hỏi ông có đọc hồi ký “Một cơn gió bụi” của cụ chưa, ông thạc sĩ bảo chưa, tôi nói với ông rằng bán nước hay không là chuyện phức tạp của lịch sử, tôi chỉ thấy cụ Trần lúc ra làm thủ tướng thì đang ở nhà thuê, ôm theo mỗi cái va-li mây, lúc thôi làm, lại tiếp tục ở nhà thuê và cũng chỉ ôm về cái va-li mây. Nay, một quan chức nhỏ ngành GD hoặc, chẳng hạn, hiệu trưởng trường tiểu học thôi… chỉ ít năm là mua được nhà, có người làm văn thư ở phường cũng kiếm được miếng đất bạc tỉ (tất nhiên không phải ai cũng được thế nhưng phải nói khá nhiều người…trúng mối như thế), mấy anh nói cụ Trần là bù nhìn bán nước này nọ, nghe bất nhẫn quá, e mang tội chết.
       Năm 1978, tôi được huy động tham gia chiến dịch đánh tư sản đợt hai. Công tác có tính chất “đại trà”, thiếu cán bộ nên phải huy động đến loại cóc ké như tôi. Tôi gặp hầu hết mấy anh chị hiệu phó các trường PT, có người ngày trước là sinh viên phong trào đô thị tôi có biết mặt hoặc nghe tên. Chúng tôi được “tập huấn” mấy ngày trước khi chia tổ ba người bất ngờ thâm nhập tư gia các hộ gọi là tư sản mại bản. Người tổ trưởng của tôi là một cán bộ đoàn trẻ thuộc loại bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng như muốn chứng tỏ trung kiên, lăn lộn không mỏi mệt trên chiến trường đánh tư sản, anh tra vấn để khảo của chủ nhà anh phụ trách như công an hỏi tội. Anh còn theo dõi sát sao, làm như muốn chỉ đạo chúng tôi áp dụng biện pháp mạnh cho hữu hiệu. Mấy tổ kia không có chuyện này, đây là sáng kiến của riêng anh ta phát huy trong lúc làm tổ trưởng ba người, chúng tôi im lặng chịu đựng. Tôi nghĩ bụng anh chàng này mà làm lớn thì chết cha thiên hạ chớ chẳng chơi, đời thêm khổ vì khối người hám quyền quá đáng như anh ta. Lối nói theo kiểu cán bộ đoàn của anh tôi không biết tả làm sao, chỉ nghe mà ngán ngẩm. Không ngờ anh ta học cách phát biểu y chang lãnh đạo, nhuần nhuyễn không chỗ chê. Sau này tôi nghe phong phanh anh báo cáo rất xấu về tôi tại trường tôi đang công tác. Thật ra, không cần phải thông minh gì, ngay kẻ tối dạ chậm lụt mà nhìn thấy bản mặt chảy dài u ám của tôi trong đợt công tác đó cũng không thể báo cáo tốt gì về tôi được. Đây là chuyện đúng duy nhất anh làm được.Tôi không thể trách gì anh ta. Có điều ngạc nhiên (nhưng xem ra vô cùng lô gich) là chỉ vài tháng sau đợt công tác trở về, tôi nghe tin tay cán bộ đoàn trung kiên đó vượt biên trót lọt một cách ngoạn mục. Ngạc nhiên vì anh ta chuẩn bị quá chừng chu đáo và khổ công, thủ một vai diễn toàn vẹn trong vở kịch tự soạn kịch bản, không chút sai sót trong thời gian lâu dài, chỉ tệ ở chỗ anh ta sẵn sàng dẫm đạp những kẻ vô can một cách tàn nhẫn và không cần thiết. Phải công nhận anh ta khôn khéo quá mức, buồn một nỗi, nói như ông Nguyễn Gia Kiểng, một dân tộc nhiều người khôn (kiểu đó) là một dân tộc đần độn. Nhiều năm sau, tôi muốn xóa nhòa gương mặt này trong ký ức sơ sài của mình để còn tin “nhân chi sơ tính bổn thiện” mà vẫn thất bại. Thế mới tệ.
      Tôi vào ở chung với một gia đình người Hoa gần chợ Kim Biên. Ông chồng Tàu rặt, bà vợ Việt, người Rạch giá. (Lúc xong công tác trở về trường, bà đãi tôi một bữa cơm canh chua nấu theo kiểu Rạch giá, món ăn quen của những ngày dạy học vui vầy một thuở, tôi nhớ bữa ăn đó tới giờ).Tôi ngạc nhiên thấy họ không có gì gọi là giàu, chuyên bán vỏ ruột và phụ tùng xe gắn máy, chủ yếu là bộ phận đánh lửa (vice platiné). Hàng hóa lúc này chẳng còn gì nhiều nhưng họ có bổn phận điền vào một bản kê khai in sẵn rất chi tiết của nổi, của chìm họ đang có. Theo chủ hộ, ông không phải nhà nhập cảng mà chỉ là phân phối hàng cho một đại công ty, gần như vốn rất ít, bán hàng tới đâu thì trả tiền cho công ty tới đó, hết thì họ lại bỏ hàng mới, thậm chí số phần trăm lời của cửa hàng cũng do công ty định đoạt, do vậy ai đó xếp loại tư sản mại bản cho họ là oan. Tôi có nói là mình chỉ đến đây theo lệnh, làm những việc theo lệnh như giao nhận bản kê khai, ở lại đây để xem xét thực tế rồi báo cáo lại, không biết gì chuyện xếp loại tư sản này nọ…Nghe vậy họ còn nhờ tôi trình với cấp trên đừng bắt họ đi kinh tế mới, họ không có tội tình gì, không bóc lột ai, chỉ có căn phố trệt một lầu là mồ hôi nước mắt cha mẹ để lại cho con cháu.Tất nhiên tôi không cho biết đã được lưu ý là phải tra gạn, kể cả hăm dọa khéo léo để họ khai ra của chìm, chủ yếu là vàng (tức kim loại màu vàng, theo cách ghi trong biên bản). Có người thắc mắc vì sao ghi như vậy thì được trả lời rằng chưa xác minh nên không thể biết vàng thật hay giả nên không thể nói chính xác là vàng mà chỉ có thể nói kim loại màu vàng. Láu cá chưa! Ngạc nhiên thứ nhất là nếu người ta cấu kết với nhau đổi vàng thật ra kim loại màu vàng thì sao? Ai biết? Ngạc nhiên nữa là khi nộp biên bản kiểm kê, chúng tôi phải nộp hết, không được giữ lại phó bản nào, như vậy, biên bản đó có giá trị gì đâu, muốn làm bao nhiêu biên bản theo nội dung nào chẳng được? Tôi chán nản nghĩ tới trăm điều khuất tất, càng không muốn làm hại gì cho chủ nhà. Tôi ngượng, chưa một lần mở miệng cóc nói với chủ gia về vàng bạc các thứ. Tôi thấy rõ nếu có cũng chỉ là mồ hôi nước mắt của người ta, mình chẳng lấy quyền gì chính đáng hỏi tới mà tâm vẫn an lành được!
      Suốt đợt công tác, hằng tuần chúng tôi tập trung tại hội trường một buổi để nghe báo cáo tình hình, chủ yếu là các tổ được kể là xuất sắc lên báo công, đồng thời rút ra những kinh nghiệm để các tổ khác học tập. Trong những lần đó, “ấn tượng” nhất là báo cáo của một tay cán bộ gốc ngành giáo dục. Ông ta hào hứng tường thuật gần như chi tiết quá trình “đấu tranh” tại một hộ người Hoa bề ngoài không có vẻ gì giàu (theo ông chỉ là ngụy trang). Ông đã kiên trì áp dụng những biện pháp “nghiệp vụ” riêng ông nghĩ ra, (tôi thấy đầy mùi bạo lực, chẳng có gì khéo léo nhẹ nhàng như ông tự nhận, mà cũng đúng, nhẹ nhàng thì làm sao khảo được vàng). Cuối cùng thì bà già Tàu phải xì ra nộp cho ông 10 lượng vàng hay nhiều hơn, tôi không nhớ chắc. Ông này có lối phát biểu đúng kiểu cán bộ chỉ đạo thường thấy lúc đó. Ông hay nhấn giọng những từ ông cho là quan trọng, thường khi nói hết câu rồi thì hạ thấp giọng để lặp lại từ hoặc nhóm từ quan trọng đó lần nữa. Chẳng hạn như: “Cái này rất cơ bản các đồng chí”, ông hạ giọng lặp lại: “Rất cơ bản”. Kiểu này cũng là cách ăn gian thì giờ để chuẩn bị nói câu kế tiếp. Ngồi ở hội trường nóng bức nghe hoài những điệp khúc như vậy, cộng thêm đói bụng, thời điểm đó cứ triền miên đói bụng, lại càng sốt ruột tợn. Sau đợt công tác, ai về ngành nấy, ông cán bộ trung kiên, tấm gương sáng trong công tác cũng như chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách lọt vào mắt xanh của tổ chức nên sau này trở thành quan chức trọng yếu của ngành giáo dục thành phố. Với thành tích “ấn tượng” của mình, tôi nghĩ ông công tác bất cứ ngành nào miễn không phải giáo dục thì thích hợp với khả năng ông hơn.
       Ở lại trong nhà cả tháng nên tôi và ông chủ bắt đầu thông cảm, thân tình, nhất là nói chuyện với ông rất thú, không hiểu học lúc nào mà ông sành tiếng Việt, đọc được cả thơ tiếng Việt nữa chứ. Tôi phạm nội qui là đi uống café với ông, (chuyện này không qua mặt được tay tổ trưởng tổ tam tam mặc dù y nằm tại một hộ cách tôi mấy căn), ông là thổ địa nên biết chỗ café thật, tất cả café vỉa hè lúc đó đều giả, ông cũng lấy làm lạ mọi thứ vật chất đều trở nên hiếm một cách vô lý không hiểu được, do vậy người ta tìm cách làm giả để đáp ứng nhu cầu. Người Tàu tập cho dân Sài gòn uống hạt bắp rang với vài thứ hạt khác cùng một ít café, riết rồi họ quen, khi được uống café pure, họ sẽ chê cho mà coi. Gia đình này sống gần như đạm bạc. Bữa ăn ngon nhất của họ tôi chỉ thấy vài lần là một tô thịt heo quay đặt giữa bàn, đĩa dưa cải chua, tô canh móng heo nấu với đậu phộng lột vỏ. Bàn thờ Phật, thờ tổ tiên đặt trên gác, nhỏ xíu và bày biện đơn giản, sơ sài, họ cũng ít cúng vái lâu lắc, rình rang, thấy chỉ xá xá rồi cắm nhang. Tôi không khỏi so sánh với bàn thờ gia tiên đồ sộ, rực rỡ đèn đóm, nhan nhản  hình ảnh ông bà chú bác và tượng thờ lớn nhỏ của gia đình ông bạn Bắc kỳ di cư của tôi. Cách thờ cúng của người Việt chắc cũng bắt chước người Tàu nhưng không hiểu sao chính họ lại có vẻ qua loa, đơn giản trong khi người Việt câu nệ, rườm rà hơn hẳn. Chắc vì mặc cảm bắt chước nên khắt khe và cố làm cho trang trọng hơn chăng? Cũng như đạo Khổng, đạo Mac xit, không một chút hơi hám gì liên quan đến mình nhưng người Việt cũng thực hành nghiêm túc và “kiên định” dai dẳng  hơn hẳn thiên hạ! Ông Tàu này là người buôn bán mà có học như đã nói, nhưng có lần tôi viết mấy câu chữ Nôm truyện Kiều đưa ông, ông chịu thua, không đọc được. Tôi hỏi ông có người Hoa học thức nào biết chữ Nôm không, ông bảo rằng theo ông, chắc là không, vì người Hoa thường rất tự cao, không coi trọng chữ nghĩa, văn chương các lân bang nhỏ hơn mình nên ít khi để ý tìm hiểu nghiên cứu. Có thể ông nói thật lòng nhưng tôi không khó nhận ra cái vẻ Đại Hán trong tâm lý ông ta. Tôi cũng nói với ông chuyện dịch thơ Đường ra tiếng Việt, ý kiến ông “cực đoan” cách không ngờ. Ông nói rằng chuyện rất khó, không bao giờ dịch được cái hồn của bài thơ ra tiếng Việt, may ra dịch được ý nghĩa thôi, mà cũng ít khi vẹn toàn vì bị hiểu lầm. Dịch mất công mà không chuyển được cái hay cho người khác thì dịch làm gì cho mệt. Muốn thì bỏ công học chữ Tàu cho giỏi để thưởng thức thi ca đó chớ khó có con đường tắt nhanh gọn nào khác. Có lẽ ông không đúng trong trường hợp thơ Đường với ngôn ngữ Việt. Con trai lớn của ông năm 1975 đang học cao trung, kẹt lại ở Đài bắc, gia đình không thể gởi tiền từ ngày nọ, nay nghe nói tìm cách đi làm thêm để có thể tiếp tục học đại học. Cũng năm biến động đó, cô con gái kế đang học sơ trung ở Chợ lớn, chương trình trung học của người Hoa bị bãi bỏ, cô phải theo chương trình cấp 3 tiếng Việt. Lúc đầu gặp khó nhưng rồi từ từ cũng vượt qua, sắp sửa thi tốt nghiệp. Cô không hay nói, đi học về là lên lầu vào phòng, nghe nói tôi dạy học, cô cũng chào hỏi tôi bằng thầy. Một lần hiếm hoi cô nói với tôi:
     - Xin thầy nói với chính quyền địa phương giùm đừng bắt bọn em đi kinh tế mới, mấy người bà con đi rồi nói khổ lắm, chỉ có bịnh mà chết thôi!
       Lẽ thường cô phải hỏi tôi chuyện văn chương chữ nghĩa, nay cô chỉ nói chuyện sống chết nhãn tiền, nghe không khỏi mủi lòng.Tôi thành thật nói với cô rằng không ai nói với ai được gì, nhất là hạng bét bẹt như tôi, mọi sự được quyết định ở đâu đâu, có điều cứ hy vọng, gia đình cô rõ ra không phải tư sản mại bản, chắc cũng không đến nỗi nào. Nói vậy chứ tôi cũng linh cảm một cái gì chẳng lành rình rập đâu đây. Căn nhà của họ ở vị trí quá thuận lợi cho viêc buôn bán, e là đích nhắm của những người thế lực. Tôi chưa nói cô là một thiếu nữ Hoa lai Việt đẹp nhất tôi từng thấy. Mày không xếch như phần nhiều thiếu nữ người Hoa khác, mắt nhung đen mở to giống mẹ, dáng gầy, cao dong dỏng nhưng cân đối như cha cô, đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ lại kiệm lời. Tôi có nói nhỏ với ông chủ nhà dù có gì xảy ra cũng tìm cách ở lại thành phố quơ quào sống đỡ qua ngày hay về quê bà ở Rạch Giá. Nói hờ hững cho có chứ tôi biết gì hoàn cảnh của bà đâu mà khuyên với nhủ… Tôi tự nhiên thương cảm cho đóa hoa hương sắc trong giá trắng ngần rồi ra sẽ tan tát dập vùi trong phong ba của “lịch sử lên cơn dữ bất thường”. Tôi không quên những đêm khuya bỏ nhiệm sở trốn về ngủ nhà, đạp xe một mình qua những con phố hoang tàn đèn mờ hiu hắt vùng Chợ Lớn, phố xá tấp nập ngày trước nay vắng hẳn bóng người, không buôn chẳng bán, lặng chìm quạnh quẽ  như cảnh trong phim Dernier rivage. Gió thốc trên hàng cây dầu, thổi tung bụi cát tấp vào hẻm tối, mấy con chó đói lang thang quanh quẩn bới tìm vỏ tôm ruột cá trong thùng rác. Tô Thuỳ Yên dù gì cũng nhận ra được “vinh dự lầm than của kiếp người”. Riêng tôi  thấy phận mình cũng chẳng khác nào thứ chó đói lang thang.

13.     
   Trong những năm vừa đói cơm rách áo vừa bị khinh miệt tận mạng của đám giáo viên thì, nói ngay, vẫn có thành phần nhỏ dạy toán lý hoá tạm kiếm tiền đủ sống. Lúc đầu chỉ nhắm đủ sống, kế đến các kỳ thi đại học bắt đầu khó khăn thì bọn họ khá hẳn nhờ mở lớp dạy thêm. Thi đại học ở VN quái lạ, ngành nào cũng phải thi toán lý hoá, không toán thì ít nhất cũng lý hoặc hoá; học sinh kém mấy môn này kể như không có cơ hội nào học tiếp và chỉ còn cách đi lao động “phổ thông” sau cấp 3. Tội nghiệp mấy em có năng khiếu văn chương và sinh ngữ, họ không có cửa nào cả. Sinh ngữ và Việt văn, những thập niên đầu sau 75 chẳng để làm gì, coi như học cho có. Chính sách giáo dục này không phải không để lại hậu quả tàn tệ. Tiếng Việt mỗi ngày dần mất đi tính chất đặc trưng trong diễn đạt, ngôn ngữ tinh tế hàng ngàn năm của tổ tiên qua ca dao, thơ phú bị bỏ lơ. Ca dao tục ngữ chỉ chọn trích học những gì có nội dung chống phong kiến thực dân, mảng này ít quá, kiếm đỏ mắt thật sự chỉ đôi câu…bà con xa xa tới chuyện chống thực dân phong kiến, cũng không sao, đã có đám thợ thơ-versificateur- bịa đặt thêm cho đủ một cách ngô nghê, kỳ cục, học xong quên ngay vì chẳng thấy hay chỗ nào như lời thầy giảng. Văn học viết thì chỉ khai thác văn học hiên thực, giáo viên chỉ rành phần này, nói không quá, hầu như họ ít biết cái gì là văn chương ngoài văn học hiên thực phê phán, hiện thực XHCN. Cũng có trích giảng truyện Kiều nhưng không phải những đoạn hay nhất về văn chương. Đoạn kém nhất là đoạn Kiều trả thù Ưng Khuyển thì được giảng là đỉnh cao nghệ thuật truyện Kiều. Tôi nghe anh bạn Lê Ng Đại kể một lần đi tập huấn về chuyên môn, bà cán bộ chỉ đạo truyền đọc tài liệu giảng dạy, có câu “văn dĩ tải đạo” , chắc do lỗi đánh máy, bà đọc thành “văn mỹ tải đạo” với bản mặt đầy tự tin. Mọi người đang buồn ngủ nhưng tỉnh ra hẳn, dòm nhau ngỡ ngàng. Lê V Bảy thì kể một lần nghe GS THT công kích thơ Nguyễn Bắc Sơn, ông bảo thơ đó phản động, tả một thế hệ thanh niên lính đánh thuê mà như những anh hùng; nhất là mấy câu:

       Mai ta đụng trận ta còn sống,
       về ghé Sông Mao phá phách chơi,
       chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm,
       đốt tiền mua vội một ngày vui.
 và
       Lũ chúng ta sống một đời vô vị,
       nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau,
       chọn trời đêm làm nơi đốt hoả châu,
       những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc,
       mượn bom đạn chơi trò chơi pháo tết,
       và máu xương làm phân bón rừng hoang”.
      Ông đặc biệt chỉ trích câu:

       Lao mình vào cuộc phân tranh,
       tiếc thương xương máu sinh thành được sao?”

       Ông còn cao hứng nói đầy tự tin:

      Khi tao đi lấy khẩu phần,
      mày đi mua rượu đế Nùng cho tao,

     - Đế Nùng là đế gì, Đế nồng chứ.
       Giờ giải lao, một anh bạn bực quá đến giải thích với ông đế Nùng là đế của người Nùng, ở Phan Thiết có xóm người Nùng từ miền Bắc di cư nấu rượu đế rất ngon. Ông nói như không: Thế à, rồi thôi. Giờ giảng tiếp ông không nói gì chuyện đế nồng đế Nùng nữa. Cây đa cây đề còn sớn sát vậy, trách gì bà cán bộ chỉ đạo mù tịt vô danh kia.
      Tiếng Việt từ xưa, không ai nói “ Anh đến từ đâu?” mà phải: “Anh từ đâu đến?” thế mà bỗng dưng, gần đây thôi, kiểu câu sau biến mất. Có người bảo sao cũng được, miễn hiểu thì thôi. Nói thế thì nói làm gì, ngôn ngữ đâu chỉ có mỗi chức năng hiểu. English-by- hand khách du lịch cũng “hiểu” mà.Tôi nghĩ  tiếng ta, do hậu quả tất yếu của cách giảng dạy, cách vận hành của các cơ quan truyền thông, ngày càng lạm dụng chữ Hán, bất chấp ngữ pháp, câu cú ngây ngô, diễn ý dài dòng, cầu kỳ (thay vì nói anh ta chạy không kịp thì lại bảo tốc độ chạy của anh ta là chưa đủ, số tiếng tăng gần gấp đôi, chỉ ma quỉ biết được nói thế thì trong sáng, hay ho chỗ nào. Xin vui lòng chịu khó nghe các biên tập viên bình luận các môn thể thao trên TV sẽ thấy tiếng Việt dài dòng lủng củng tới đâu). Ngó cái trái biết gốc cây.Trồng khế thì hái khế, sao đòi hái cam được. Hình như Lâm Ngữ Đường từng nói vậy khi bàn về văn hoá, giáo dục. Có người nói một phần rối là do toàn cầu hoá, ảnh hưởng tiếng Anh. Được vậy cũng mừng vì người Việt nay rất giỏi tiếng Anh. Nhưng không chắc. Có thứ tiếng Anh nào nói kiểu như: “Hôm qua, đã diễn ra…”. Mà tôi cũng chưa thấy một lần các chính khách, kể cả chính khách ngành ngoại giao, nói một câu tiếng Anh trước ống kính truyền hình hoặc trước công chúng.  (Trong khi Campuchia lại có!). Lúc nào cũng thấy người thông dịch ngồi thập thò phía sau lưng ông lớn, rất “đặc trưng VN”. Chuyện hài hước là ông MC khét tiếng chuyên môn nói ra rả hằng đêm kiểu câu tiếng Anh: “Chị Mẹt đến từ Thái Bình, anh Lèo đến từ Nghệ An…” lại thất thanh kêu cứu khi phải đụng tới tiếng Anh trong  một lần đại hội phim ảnh gì đó. Vậy mà bảo chịu ảnh hưởng Anh ngữ, sao không đáng ngờ được. Thì trăm năm bị Pháp đô hộ, họ vẫn dạy ta “il revient de la promenade” nhưng có người Việt nào suốt trăm năm đó dịch ra “hắn trở về từ cuộc đi dạo” đâu mà phải là “Hắn đi dạo về” chứ.
      Thời điểm bạn bè bên cánh toán lý hoá sống khoẻ nhờ nghề của họ, (bọn cũ gọi là hành nghề, tiếng Việt “hiện đại” gọi là tác nghiệp, hẳn lành nghề không Tàu bằng tác nghiệp nên bị loại), thì bọn thầy giáo văn sử địa vẫn triền miên tơi tả. Tôi có lẽ không đến nỗi ngu lắm nếu ngay từ năm lớp 10 không chọn ban văn chương C mà cứ học ban B hoặc A , nay đã khỏi dạy giảng văn láo toét có vẻ gian mà vẫn đói. Tôi tự nhiên đâm giận chính mình không dạy được mấy môn khoa học, vừa kiếm được gạo lại vừa vô can với dối trá tràn lan, lại có dịp cười mấy tay đồng nghiệp lưu dụng dạy văn say mê như thiệt. Chuyện tào lao khó tin nhưng sự thật, đời tôi chuyển theo hướng văn chương chữ nghĩa tầm phào ngay từ năm lớp 6 lớp 7 chỉ vì bị nhập tâm một cách tự nhiên mấy khổ thơ, mấy đoạn văn xuôi trong sách giáo khoa ngày trước thầy cho học. Nhiều lắm nhưng xin chỉ trích thí dụ đoạn này:

                                                       Nắng mới.

Sinh tới vén rèm mở tung cửa sổ, ánh sáng ùa tràn vào thành luồng lớn khiến chàng ngợp trong sóng vàng chói lọi.
Màu nắng vàng tươi, không nồng lắm và trong như lọc. Da trời xanh lơ lơ, thứ màu xanh e lệ của một thời tiết muốn đẹp nhưng còn ngập ngừng. Những mái tranh, những khóm lá, cho tới những nếp núi lượn ngoài xa tít đều hiện ra với những hình sắc rõ rệt.
Những thanh âm rộn rã bay lên thinh không. Tiếng người nói, tiếng trẻ em nô đùa đâu ở phía chùa làng Sinh nghe lạ tai. Tiếng kêu khô khan của một thân cây nào nứt nẻ không biết vì căng nhựa xuân hay vì phơi nắng mới. Tiếng guốc đập lộp cộp ròn rã trong ngõ hẻm khô ráo, tiếng răng cào lê trên sân thóc nghe rào rạo.
Sinh hé miệng cười. Chàng vừa nghe tiếng chim hót, một tiếng chim quen. Cứ mỗi mùa xuân trước, lang thang dưới những lùm cây, chàng thường lắng nghe tiếng ca của giống chim ri, giọng trong và nhọn hoắt, điệu kỳ quặc: lúc đầu ba tiếng dài lơi nhịp rồi sau bỗng tiếng hót đổ hồi.
 Chàng yêu chúng lắm, gần như ta yêu bạn đồng tâm, bởi mỗi khi xuân về, chúng lại trở lại ca mừng để hợp điệu với niềm vui sướng của lòng chàng.
                                BÙI HIỂN-NẰM VẠ                      

      Đoạn văn thể hiện một thứ tiếng Việt trong sáng và tinh tế hiếm thấy. Tôi chỉ cho đám học trò nhỏ tác giả rất kiệm lời, chữ nghĩa cô đọng, chọn lọc, không hề một lần phải dùng thì, mà, là, cái, có…Những cảm giác về thị quan và thính quan được phân tích hết sức chính xác và tế nhị, phép so sánh và nhân hoá được vận dụng tài tình.(ba lần phân tích màu nắng, ba lần phân tích màu trời chỉ trong hai câu văn ngắn). Từ ngữ giản dị mà gợi tả, từ láy âm tượng thanh thích nghi, câu văn đầy nhạc điệu êm xuôi như reo vang một niềm xuân phơi phới. Đọc đoạn này không cách gì khỏi liên tưởng tới làng quê tôi xinh đẹp thanh bình ngày cũ, những buổi sáng nắng xuân rạng rỡ, êm đềm trên ngàn hoa lá, chim chóc ríu rít sau vườn. Cũng tự nhiên nhớ đến trường đoạn tả mùa xuân trong tấu khúc Bốn mùa của Vivaldi, nhất là chỗ tả tiếng chim trong văn và trong nhạc, có cái gì trùng hợp như hai kẻ tri âm cùng cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, trộm nghĩ ngôn ngữ VN đâu kém gì âm nhạc của Vivaldi! (Tiện đây xin tỏ lòng biết ơn người bạn hiền gửi cho đĩa nhạc toàn bộ flute của Vivaldi, nghe xong, quả thấy đời đáng sống hơn và nghĩ điên điên, ngoài…mì Quảng tôm cua với chút nước lèo cô đặc thì thứ âm nhạc  này chính là loại thực phẩm trần gian mình phước đức may mắn được hưởng, đâm ra bắt đầu …sợ chết không được ăn mì và nghe flute tây phương nữa!).
      Ở đây tôi chỉ nói tâm hồn mình đã được nuôi dưỡng thế nào, mỹ cảm đã được rèn luyện ra sao, đã được hấp thụ thứ văn hoá theo kiểu giáo dục không thực dụng mà thiên về cái đẹp nào chứ cũng biết nay không ai viết văn xuôi như truyện ngắn Bùi Hiển hay Xuân Diệu trong Phấn Thông Vàng hoặc Trường Ca nữa. Ai để tâm cũng có thể nhận ra câu văn Việt ngữ thời Tự Lực Văn Đoàn khác xa thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh ra sao, rồi thì câu văn xuôi của Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam tân kỳ hơn thời Tự Lực xa lắc mấy lần. Nhất định tôi phải tìm cách trở lại chuyện này, nói lên lòng biết ơn nhà văn quá cố Thanh Tâm Tuyền một lần về công trạng to lớn của ông đối với câu văn xuôi tiếng Việt. Tôi cũng xin vô phép mà thưa rằng cụ Nguyễn Hiến Lê và cả cụ Võ Phiến đã có phần sơ sót không đánh giá đủ văn xuôi đặc sắc của tác giả này và có vẻ không công bình lắm khi nói tới thơ ông. Có thật giá trị không, cái gọi là văn chương hiện nay trên net, đó chẳng qua chỉ là những câu chuyện ngăn ngắn có ý nghĩa xã hội hay tình cảm gì đó. Thời buổi nó vậy thì ta chấp nhận vậy chứ chả thấy chút gì hào hứng về chữ nghĩa văn chương. Nghe lời lẽ trong các bài hát hiện nay của đám trẻ, ai không kinh hoảng cho cái thứ văn hoá tạo ra các lời ca đó quả là kẻ phi thường hoặc là người đã đạt tới bậc tu hành chánh quả, bịt tai nhắm mắt trước chuyện ngôn từ quái dị, khùng điên.
      Một người bạn ở Na Uy viết cho tôi có ý khen mấy dòng ký ức đơn sơ này, tôi thưa với anh rằng tôi chẳng phải nhà văn nhà báo gì, chẳng là thời gian dạy học dài, nhận ra lắm điều ngang trái, tìm cách nói lên cho nhẹ lòng, nhắm tới đám bạn bè cùng học chung là chính. Tôi sống vất vưởng cuộc đời hèn mọn, thường ngày thấy sư bạo hành đâm sợ sệt triền miên, tâm tình hiếm khi tịnh ổn. Ngoài nhóm bạn bè cùng học chỉ loe hoe năm bảy mống, tôi e dè nhút nhát chẳng dám giao du. Không đáng sợ sao ta như sống những tháng ngày không luật pháp trong một xã hội tận cùng sa đoạ, cả thiên hạ chạy theo tiền, xây dựng cơ ngơi trên dối gạt và ngang ngược, chẳng biết vì đâu nên nỗi. Cũng chẳng hiểu vì đâu ngôi trường từng dạy mấy mươi năm đến quen từng gốc cây, viên gạch, lúc giã biệt sao chẳng một niềm lưu luyến nhỏ, bao năm rồi chưa một lần trở lại, cả những gương mặt người  cũng lẹ làng tan nhòe trong tâm tưởng, cớ gì đôi khi còn thấy nhẹ nhõm như cất được gánh nặng từng đeo đẳng dài lâu. Chẳng bù bè bạn tôi, những người bạn học bình thường, có khi tầm thường dưới mắt thiên hạ vì mọi người đâu biết họ là ai, nhưng không có họ trong những tháng năm dữ dội đó, hẳn tôi sẽ không biết sống làm sao. Khi Ng Th Cường cùng gia đình được bảo lãnh trèo lên máy bay qua Mỹ, tôi và Lâm H Tài như chết rồi. Tên Cường là người vẽ đẹp và kể chuyện hay (nhất thế giới!), có điều đáng tiếc là hắn làm biếng vẽ nhưng được cái phát huy món kể chuyện, toàn những chuyện thời thế trên báo chí mà chỉ riêng hắn mới nhận ra được khía cạch khôi hài xạo láo, đôi khi chúng tôi ngớ người ra như được khai tâm. (Tôi khoái câu thơ của Thận Nhiên: “Đọc báo Công an để mở mang trí tuệ”, sao ông không bổ sung: “Đọc báo Nhân dân để nâng cao kiến thức” cho đủ bộ).Quả thật đời mất vui khi không còn được nghe chuyện của Cường nữa. Hắn đi học tập cải tạo cũng khác người. Sau 75 quân nhân miền Nam đều vào trại cải tạo, kể cả thành phần giáo sư trung học học xong lớp sĩ quan trừ bị Thủ đức được “biệt phái” về bộ giáo dục. Ngạc nhiên là những người dạy các trường thuộc địa phận tỉnh Long an thì chỉ phải học chính trị một tuần chung với hạ sĩ quan. (Nghe đâu tỉnh Khánh hoà cũng  như vậy, không biết thực hư) Được đâu một vài tháng gì đó thì dường như sáng kiến nhân đạo chơi trội của chính quyền tỉnh Long an bị khiển trách thế nào mà để bù lại, họ tiến hành cuộc bắt bớ còng tay dữ dằn bọn biệt phái ngay lúc đang dạy học tại trường. Một buổi chiều công an đến đọc quyết định rồi còng tay cả lũ dẫn đi. Cường dạy tại một trường cấp 2,3 vùng quê Đức hoà, hàng rào kẽm gai quanh trường bị phá mất, trong giờ dạy tiếng Anh, trẻ chăn trâu đứng bên cửa sổ lớp cầm roi chỉ chỉ ông thầy như đe doạ trong khi đứa học sinh nhỏ xóm Bắc kỳ di cư nói ngọng, chỉ biết mỗi câu trả lời “Lô, ít lót” (No, it is not), hắn bực quá quằm rằm:
     - Tiên sư chúng mày, hỏi gì cũng lô ít i lót, trong thì thù ngoài thì giặc!
       Trại cải tạo lúc hắn vào vẫn do một đơn vị bộ đội quản lý, thời gian sau, giao lại công an. Vì quản lý hồ sơ lộn xộn sao đó, họ tiến hành “rà soát” lại, họ hỏi cung từng người để lập lại hồ sơ. Cường ngồi nghe đối đáp giữa viên công an và tay giáo viên dạy Việt văn có hỗn danh Dũng điên:
     - Lúc tiến hành bắt anh, người ta tuyên bố anh bị bắt vì tội gì?
      - Dạ, tôi không nhớ chắc, hình như tôi nghe họ nói cản bánh xe lịch sử gì đó. Thưa cán bộ, tôi không có cản gì bánh xe lịch sử, tôi toàn … né thôi.
      Viên công an nghiêm mặt, ghi ghi chép chép gì đó. Lúc trở về trại, Cường nói với Dũng điên:
     - Mày …điên vừa vừa thôi chứ, dù có thật thế mà kiểu nói của mày như chọc cười, nó nhốt mút mùa nghe con.
      Dũng bảo tao tính nói bánh xe lịch sử chạy xà niễng cọ quẹt lung tung, chạy tới đâu, tao né tới đó, tao xuống ruộng đứng nhường đường cho nó chạy chứ cản sao đươc, không biết nó ghi cụ thể tao bị bắt vì tội gì nữa, kinh quá. Tới phiên mình, Cường cũng bị hỏi câu nọ. Cường nói:
     - Lúc bắt tôi, họ đọc cái gì đó tôi không còn nhớ nguyên văn, nghe như có tiếng phản động…
       Viên cán bộ cướp lời:
     - Vậy là anh mắc tội phản động rồi!” liền lăm le cầm bút ghi tội danh phản động. Cường hoảng hốt đưa tay ngăn:
     - Đó là họ nói theo lý thuyết gì đó chứ tôi chỉ dạy tiếng Anh theo phân công, làm gì mà phản động, xin cán bộ đừng ghi tội đó.
      Đêm trở về trại Cường lo sợ mất ngủ, nói với Dũng điên:
     - Mày cản bánh xe lịch sử còn nhẹ tội hơn tao phản động. Ma quỷ xui khiến tao cũng…điên như mày hay sao mớm cho nó tiếng phản động, khốn nạn thật!
       Cường còn kể câu chuyện Nam triều mà hắn cam đoan là thật 100%. Tài liệu học chính trị có nhắc tới chuyện Ngô Đình Diệm làm quan ở Nam triều, có người cắc cớ hỏi “báo cáo viên” rằng làm quan ở Nam triều là ở đâu, ông này là người Bắc bị hơi ngọng, trả lời trôi chảy ngon ơ:
     - Nam chiều tức nà Nam chiều tiên mà bọn Nguỵ gọi nà Nam hàn, tức nà… Đài noan đấy.
      Lâm H Tài thì kể lúc vào trại, đám trại viên được lệnh đập phá các nhà vệ sinh bàn cầu nắp đậy bằng nước mà đi đào hố để “giải quyết” chuyện ỉa đái. Y lầm bầm:
- Chết mẹ rồi, mất cả trăm năm cải tiến từ hố xí mới lên được nhà cầu, nay lại phải đập phá để ngược về hố xí, cũng như mất ngàn năm máu me cách mạng các thứ mới tới tam quyền phân lập, nay lại dồn lại một đống cho tiện bề cai trị! Thua!”
(còn tiếp)

NAK

THƠ HẢI PHƯƠNG



Ta  Đứng  Hát  Không  Lời  Bài  Ca  Hành  Lữ 


 
                        Ngôi nhà có hàng rào sơn màu đỏ

Tặng Queen , Trương Thị Thịnh , Kiều Loan , Vy +  Nguyễn Xuân Hoàng ,
Thường Quán , Sao Biển , Nguyễn Xuân Thiệp , Lữ Quỳnh  ,Hà Cẩm Tâm …

Là khi đám mây ngũ sắc
nứt rạn kẽ hở tiền thân
kiếp trước rụng lá trơ trụi
ngày tháng mọc cỏ
mùa màng em hưu canh
mặt đất khô cạn dòng nước
buổi chiều trái tim kẻ du mục phóng túng đứng trên núi hát bài ca hành lữ cầu cứu diện mạo của hư vô
ảo .

Là khi đầu đông đến tình cờ
chiếc lá cuối cùng
của Tuấn Khanh
rơi
trước sân nhà
buổi chiều nhiều âm sắc trôi lặng lẽ
bức tranh pha trộn màu vàng đất con đường lên đồi gió lao xao
hàng cây phong vàng tươi sắc lá sau mấy ngày mưa nhẹ như rây cảnh tượng
ta rủ rê Queen lên núi chơi
đôi tình nhân tìm mãi hạnh phúc đời thường
hát . 

Là khi trở lại
buổi tối dưới chân đồi
căn nhà nhỏ có hàng rào gỗ sơn đỏ
sân xanh mượt cỏ
Queen bày bữa tiệc đơn sơ
đón tiếp bạn bè ngày lễ Tạ Ơn
cũng có nến lung linh / gà tây /rượu đỏ / linh tinh các cái
có bạn ở gần
có bạn ở tiểu bang xa
có bạn ở Úc châu xa xôi như anh Thường Quán
quây quần lại
tạ ơn nhau
tạ ơn đời sống
và hát như kẻ du mục không có đất đai khi dừng chân lại nhớ nhung quê nhà luôn cầu nguyện mưa thuận gió hòa thời vụ em mùa màng bội thu lương thực xẻ chia cho thế giới đói  .

Là khi trở lại với ta
tiếng dương cầm đá
buổi chiều cầu cứu diện mạo hư vô
căn nhà nhỏ dưới chân đồi có hàng rào gỗ
con đường vàng đất lá vàng rơi
mưa rây ảnh tượng
ta hát
cảm ơn Queen bày biện trong ngoài sau trước
cảm ơn bạn bè
vì ta mà tới
đêm khuya nhóm lửa thắp tình nhau .

Là khi trở lại với ta
thơ mọc nhánh buổi chiều đầu đông đứng trên núi hát như kẻ hành lữ cầu cứu diện mạo của hư vô
thơ cứa nghiến vành đai  trí nhớ bùn đen biến tấu khúc luân vũ không đoạn cuối
ta đứng hát không lời
thơ nỗi niềm nguy nga
gởi lại .

Khi ở Sillicon Valley
Tháng chạp 2012

HẢI  P H Ư Ơ N G

Wednesday, December 12, 2012

thơ nguyễn thị khánh minh


CÕI ĐẸP



                                                                 POETRY. Marc Chagall

Cõi nhân gian, Nhà thơ ơi, cái gì Ngài có thể nhận?
Nơi đây có dòng sông nước mắt
Nhiều đến nỗi đang on sale
Nơi đây có nỗi buồn quen đến nỗi đã bị coi thường
Nơi đây có niềm đau nhiều đến mức đã bị làm ngơ
A. Tôi biết Ngài sẵn lòng đón nhận với trái tim đau đớn của riêng mình

Nhà thơ ơi, có những phẩm vật chỉ có thể tặng riêng Ngài*
Nơi đây đầy nắng mùa xuân, Ngài có thể khơi lửa ấm áp gọi thầm một nỗi dấu yêu phù dung phù dung từ trái tim thần thoại
Có màu hoa vông khóc cùng Ngài hạt lệ đỏ tiễn anh em vào xa vắng
đá xanh mở đêm xanh ngục tối hát cùng Ngài lời của tự do
Có một chốn đi về, hạt lệ sẽ cùng Ngài rơi vì một đóa quỳ vàng diễm ảo
Và mùa hạ thắp hồng cánh phượng sẽ rung lên ngàn tơ ve sầu đưa Ngài về trên con đường quê xưa bé con cánh phồng tiếng dế
Và đây, phải là Ngài đang đi tìm, một bếp lửa mùa đông? Reo hoa lời nhớ lời thương bập bùng mắt nhỏ một vòng tròn rất mỏng rất thơ
Ánh sáng những vì sao sẽ vỡ ngàn mơ ước, một mảnh riêng người thầm lặng trên đồi nghe cỏ hát, đồi bình yên cho sợi tóc ngủ trên vai, biết nơi Ngài, cõi, tình yêu là tiếng nói duy nhất của con người
Phải chăng, trái tim bi cảm Ngài đã riêng dành quà tặng?

Nhà thơ ơi, có những phẩm vật chỉ có thể của riêng Ngài**
Tiếng vĩ cầm trôi đêm dạt dào huyết âm mẹ
Tiếng mưa dầm tặng người nhạc tủy xương réo rắt**
Vầng trăng sáng nét lưng cong Ngài tượng hình bóng mỏng ôm con nặng một bóng đời
Có cõi hư không Ngài về đối ẩm huyết lệ rưng ma khóc chập chờn
Gọi bạn xưa trời cao xuống thấp
Gọi đất lên vỗ trán hát âm
Hát âm sao rền huyết âm tiệc máu xương động mấy tầng ngọn cỏ
Bóng hoàng hôn trao Ngài bờ núi thanh tân tan vào tiếng gầm nỗi nhớ
Có bước chân về níu áo tiếng mẹ ru chiêm bao một giấc mộng hồn nhiên
Gió sẽ thổi, những mảnh huyết tan thành mảnh tuyết
Có phải không, trái tim bi thương Ngài đã sẵn dành quà tặng?

Nhà Thơ ơi, có những phẩm vật chỉ có Ngài mới có quyền được lấy***
Trái tim mẹ hiền đập nhịp dấu yêu con, hạt mầm quý trữ ngàn năm cho trái đất mãi tươi non
Giòng sữa tinh khôi gieo hạt mùa nhân ái, Mùa Yêu Con, Ngài hát thơ hoa mẫu tử ngát ngát sinh sôi, những đường phố máu loang hóa thành võng ru giấc bé thơ say ngủ
Có cánh đồng ban mai Ngài về mở hội, những bà tiên Mẹ cầm đũa phước lành trải lòng thương yêu cho bước chân con trẻ, những đứa con lớn lên từ nước mắt chảy xuống không nguôi, từ nụ cười bao dung nhẫn nại, ôi hội trần gian cho người tao nôi hạnh phúc
Cõi Đẹp ấy lòng Mẹ, có phải Ngài, trái tim hồn hậu, sẵn lòng riêng cùng nhau nhân lên nghìn nghìn hoa nhân ái?

Nhà Thơ ơi****, có một nơi rất quen.
Cuộc đời kia, dẫu Ngài có ra đi một trống vắng Ngài đem theo cũng đủ một không gian bay những lời tình tự cho những kẻ yêu nhau dắt díu về quanh
Có một nỗi buồn, rất riêng, Ngài phổ nên nghìn giai điệu, trái tim yêu thương đâu nhỏ máu riêng người
Có bóng đêm nuôi sâu giấc mộng, khúc thụy du tìm ai đánh mất ở nghìn thu, Ngài sẽ gọi, lời thơ tình bất tuyệt, bóng sẽ về từ bức tranh đôi bím tóc đong đưa hai bờ sinh tử
Có bình minh khai sinh có trưa mặt trời ngất nắng có tà huy buông tím, ngồi nghe, Ngài rao giảng kinh tình cấy lại niềm tin vào tình yêu vĩnh cửu.
Có phải Ngài, trái tim tình yêu đang chan hòa nhịp gọi nhau gần lại?

Tôi ơi, nơi đây có mùa thu đã sắp sửa ra đi chiếc lá vàng rất xưa mang tên người yêu tôi có thể bất cứ lúc nào với câu thần chú ấy, mùa thu sẽ đi về
Mùa thanh xuân sẽ đi về, Giấc Mơ sẽ trở lại cùng hạt mưa thơm mùi hoa sứ
Nắng non ai rót tôi ơi, hãy để lại chiếc bóng trong đêm đi vào dòng lụa xanh đầu gió ban mai
Có một nơi chỉ riêng mình, quầy thời gian mộng ảo
Nơi tôi đã nghe một lời đẹp nhất cõi đẹp trên đời
Lời anh nói yêu em
Ôi tôi có thể mua đứt cho mình phút giây mong manh ấy?

Và thưa Ngài Platon, đó là những điều mà Đô Thị Lý Tưởng của Ngài không có được
Thì làm sao kham nổi Nhà Thơ?*****


nguyễn thị khánh minh
11.12. 2012

*Tặng thi sĩ Nguyễn Xuân Thiệp, chữ và những hình ảnh trong thơ NXT
**Tặng thi sĩ Nguyễn Lương Vỵ, chữ và hình ảnh trong tập thơ Huyết Âm
***Tặng thi sĩ TrangĐài Glassey Trầnguyễn, tên tập thơ Mùa Yêu Con của TĐ.
****Tặng thi sĩ Du Tử Lê, bài thơ phổ nhạc Khúc Thụy Du, và tranh cô gái với bím tóc của DTL.
*****Theo Triết gia Platon, về một đô thị lý tưởng, trong đó không có chỗ cho Nhà Thơ, Nghệ Sĩ. (diendankienthuc.net : Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh . và ba là giai cấp thương nhân .  ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái, . kể cả tình mẫu tử thiêng liêng. vì thế ông mới chủ trương chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm đến phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người.  Do vậy, Will Durant mới nhận xét: "Quốc gia của Platon là một quốc giai thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẽo, nó đề cao trật tự mà không ?ề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không biết nuôi dưỡng nghệ sĩ")