Nguyễn Anh Khiêm
Về nơi phố xưa. Đinh Cường
12.
Năm 1977 tôi làm hiệu phó
lao động tại một trường cấp 3 vốn là trường tư Công giáo thuộc dòng Lasan. Một
ông frère là giáo sư trường cũ vẫn được lưu dụng dạy môn tiếng Pháp hỏi tôi
hiệu phó lao động thì làm những gì, tôi nói cũng không biết, để từ từ xem sao,
chắc không đến nỗi thất nghiệp, ông lắc đầu nhè nhẹ nhìn tôi mỉm cười. Ngôi
trường lẩn khuất yên tĩnh trong hẻm gồm hai dãy lầu, một dãy trệt, bóng mát cây
sọ khỉ và cây điệp hoa vàng cổ thụ mấy vòng tay ôm xanh um che rợp một khoảng
sân rộng. Những buổi chiều muộn vắng bóng học sinh, tôi thường ngồi bên gốc cây
xem lũ chim sẻ tụ tập rối rít kiếm ăn trên sân, nghe động, chúng bay vù mất hút sau mái ngói, giây lát cả bầy
lại hạ cánh nhảy nhót, dòm dáo dác, mổ lia lịa không biết những gì trên mặt sân
xi-măng khô; ngó qua phía nhà thờ Tân Định, trong ánh chiều nhập nhoạng, lũ dơi
túa ra chao liệng rập rờn phía trên gác chuông cao vòi vọi. Trước mặt tiền
trường có sân bóng chuyền, phía sau có sân bóng rổ rất đẹp. Điều kiện thuận lợi
vậy nên giáo viên và học sinh của trường luôn đoạt giải thể thao mỗi lần có
tranh đua toàn thành phố. Chính vì cái sân bóng chuyền này mà tôi thường bị mấy
người trong ban giám hiệu phê bình tôi làm mất “nề nếp” hoạt động dạy và học,
chỉ vì chiều nào cũng cho học sinh và nhóm thanh niên vốn là cựu học sinh của
trường trong xóm chơi bóng. Tôi nghĩ thể thao Việt Nam rồi ra sẽ đội sổ vì thể
thao học đường hầu như bị ngăn chặn kỹ. Chỉ khuyến khích trên giấy tờ văn bản
thôi chứ không thi hành một chút nào hết, mà thể thao học đường là nguồn vững
chắc căn bản nhất để chọn tuyển. Khổ nỗi họ chỉ lo thi đua học thuộc bài đậu
phổ thông bằng trường khác, giữ vững được nề nếp dạy và học là mục đích gần như
duy nhất. Bà hiệu trưởng và hai bà hiệu phó, toàn cán bộ tập kết về, luôn ám
ảnh chuyện nề nếp, thấy rõ họ là thành phẩm điển hình của kiểu giáo dục ngay
ngắn cứng nhắc, gần như răm rắp biến trường học thành trại lính, chẳng hạn ghi
tên và mã số học sinh lên áo để mỗi lần gọi là phạm lỗi gì thì thầy cô hoặc đội
sao đỏ, cờ đỏ dễ nhận ra đích danh thủ phạm; xếp hàng đúng vị trí cố định trên
sân trường, phải tuân theo một kiểu cách duy nhất khi giơ tay phát biểu ý
kiến…Đời tôi bỗng u ám dưới ách thống trị của ba bậc nữ lưu tập kết trở về Nam.
Tôi bị phê bình chắc cũng tại tôi phụ trách lao động mà chỉ gần như thuần túy
lao động… đánh banh. Trước khi trường “giải thể”, tôi còn bị cắt “lao động tiên
tiến” (chỉ tại trái bóng chuyền). Nghĩ cũng oái oăm, hiệu phó lao động tiêu
biểu cho lao động lại bị …cắt lao động tiên tiến! Phải chi có chức hiệu phó thể
thao văn hóa các thứ thì đỡ, ít nhất cũng được phần thể thao (chứ văn hóa thì
tôi e lại cũng không có!). Bị phê phán bao nhiêu tôi cũng không chừa. Thời thế
đó quả không có gì vui bằng những trò đơn giản dễ dãi như chiều nào đám bạn
giáo viên thân nhau cũng tụ tập chia phe đánh banh uống nước mía. Hơn thua chỉ
có thế mà chúng tôi cãi nhau, ăn gian nhau, banh out thì nói in và ngược lại,
không có trọng tài nên không ai phân xử, phe nào già hàm thì thắng. Chúng tôi
cười mãi chuyện một tên giáo viên trong nhóm vừa bị mấy cô mậu dịch ở “điểm”
bán gạo xúm lại xỉa xói. Chẳng là anh ta đi mua gạo, mua hoài loại gạo hẩm lẫn
đầy hột cỏ và cát sạn, anh chán quá bèn nói:
- Cô ơi, cô làm ơn để riêng
hột cỏ, cát sạn này nọ một bên, gạo hẩm một bên, tôi phấn khởi mua bằng hết các
thứ, xin đừng “trộn” vào, tôi lựa cả ngày mệt quá. Tay này nói chơi nhưng oan
cho mấy cô nên bị giũa.
Trên đường đến trường, mỗi
sáng xuống dốc cầu Kiệu tôi đều thấy anh Trần Phong Giao lom khom bưng hủ tiếu
cho khách, bà vợ tần tảo của anh kê mấy cái bàn nhựa trên vỉa hè bán quà sáng,
anh thì lầm lỳ tự nhiên bưng tô rửa bát, có vẻ chu toàn bổn phận như lúc còn
làm thư ký toà soạn báo Văn. Buổi chiều tôi ghé chơi thì thấy anh chăm chút
ngồi lựa hột cỏ và cát sạn trong gạo, tập trung cao độ, kỹ càng như lúc
chọn…thơ cho báo Văn hay ít ra đó là trò giải trí thảm hại giết thì giờ cho một
quãng đời thừa trống trải.
Chúng tôi vừa thi đấu vừa
trêu chọc, khích bác nhau, cười vui hả hê, thật sự quên đi giây lát những thiếu
thốn vật chất triền miên. Lương lãnh ra, dè sẻn đến đâu cũng chỉ thu vén được
giỏi lắm một tuần, ba tuần còn lại chạy vắt giò lên cổ, mua đi bán lại vặt
vãnh, làm đủ trò khỉ lem nhem, sẵn sàng ngửa tay vay mượn từ ký gạo hẩm đến mớ
mì khô, có điều ai cũng vậy nên chẳng biết mượn ai thôi. Nghĩ lại, không hiểu
tại sao mình vẫn nuôi được mấy đứa con đi học, bằng cách nào mà qua được tháng
năm kinh hoàng đó. Chao ôi, cái thời kỳ gọi là quá độ để tiến lên…quá độ nghĩa
là qua đò, đến bao giờ mới qua xong con
đò chiều nghiệt ngã để tới được bến bờ cứu rỗi đầy hứa hẹn trong triền miên thiếu đói này!
Cái gọi là món ăn tinh
thần cũng tệ hại không kém. Chúng tôi háo hức đi xem phim Chiến Tranh và Hòa
Bình do Liên Xô dàn dựng, nghe nói vô cùng vĩ đại. Xem gần hết phim mà cứ quay
sang hỏi nhau:
- Ủa, Maria là bà nào? Thì
bà đó đó… làm gì phải, sao già vậy? còn ông này là Pierre hay André?...
Công nhận là họ dàn cảnh
trận Borodino rất vĩ đại nhưng cũng chỉ có thế, phim thì gần như quay theo
chương hồi trong sách nên không ai hiểu gì hết. Scénario của phim khác hẳn
truyện, không hiểu sao không phân cảnh lại, kỳ thiệt chớ! Bọn Mỹ, vào phim chừng
năm bảy phút đã thấy tài nghệ của diễn viên, đằng này, ai lại gần hết phim mà
đám nhân vật vẫn chìm nghỉm, chẳng biết ai vô ai. Thôi, về giải trí đánh banh
là thượng sách.
Thật ra lúc đầu tôi cũng cố
chu toàn bổn phận, lăng xăng (như thằng mới tới) lo kiếm việc cho học trò làm.
Tôi thuê xe tải lên mấy lò gốm Lái Thiêu mua loại lu phế phẩm rẻ tiền về cho
học sinh tự kiếm đất cho vào để trồng cây làm vườn sinh vật. Tôi mê những dòng
sông tràn bờ, những vườn cây rợp mát vùng Bình Dương nên hễ có dịp là tìm cách
chạy lên đó. Thanh Tâm Tuyền cũng có thời gian dạy học ở Bình Dương, ông tả
cảnh sắc vùng này bằng một thứ văn xuôi đẹp dị thường với niềm thiết tha trìu
mến trong một truyện ngắn, đọc rồi không thể quên. Tôi không nhớ rõ giáo viên
dạy sinh vật bảo các em trồng những gì, lúc đầu cũng có vẻ xôm tụ, rầm rộ nhưng
chỉ qua năm sau cây lá héo khô vì không được chăm bón, vả lại những thứ cây đó
rốt cuộc chẳng để làm gì, may ra chỉ có mấy bụi sả có ích cho mấy cô căn tin
thôi. Tôi còn đến chỗ hợp tác xã sản xuất mành trúc xin làm hợp đồng cho học
sinh cạo sạch lớp vỏ mỏng trên thân cây trúc cho bóng, xong giao lại cho họ
thành phẩm. Tiền công rẻ tệ nhưng ai quan tâm, miễn có việc cho học sinh làm là
hay rồi. Học sinh tụ tập, mỗi lớp một góc sân trường, ngồi lê lết trên hành
lang, cạo cho bằng hết phần trúc được giao. Có lần một em hỏi tôi, lớp em cạo
xong bó trúc lớn như vậy thì được bao nhiêu tiền, tôi nói cho em biết đại khái
số tiền, em học sinh tròn xoe mắt:
- Trời ơi, làm đúng một buổi
vậy mà tiền công mỗi đứa chưa uống được li nước mía thầy! Sao tệ vậy thầy?
Em cười nói tiếp:
- Nếu vậy bọn em trả cho
thầy gấp đôi tiền đó, thầy cho về đá banh.
Tôi bảo tiền bạc không
thành vấn đề, người ta chỉ cốt dạy cho mấy anh ý thức về lao động cùng giá trị
của lao động các thứ. Em học sinh nói tiếp:
- Tức là giá trị rẻ bèo của
lao động chứ gì thầy?
Phải công nhận chuyện lớn
nhất chính quyền CM làm được lúc đó chính là việc công lập hóa tất cả trường tư
thục ở đất Sài Gòn này, nó vượt quá sự suy luận thông thường, tiền ở đâu mà họ
có thể trả lương cho từng ấy giáo viên cùng cán bộ quản lý rình rang…Tôi vẫn
nhớ gương mặt đầy tự hào của ông Mười Tân, phó giám đốc sở Giáo dục thành phố,
khi ông phát biểu trong một cuôc họp:
- Ta công lập hóa tất cả trường
tư thục của ngụy quyền Sài Gòn các đồng chí, bản chất chế độ ta là không chấp
nhận lợi nhuận trong giáo dục, có khó khăn đó nhưng ta sẽ vượt qua.
Lý tưởng thật, đáng nể lắm.
Nhưng rồi tôi nghĩ bụng đây chẳng qua động tác phô trương thanh thế ngắn hạn,
thế nào họ cũng phải có cách gì chớ làm sao chịu thấu gánh nặng ngân sách ngàn
cân như thế. Quả nhiên chỉ một năm sau, họ bắt đầu “tổ chức lại” bằng cách bỏ
hẳn một số trường cấp ba, số trường khác vẫn giữ lại nhưng chỉ có cấp 1,2.
Trường tôi tồn tại cho tới 1980 thì “giài thể” hẳn. Chuyện ít ai ngờ tới, từ
đây về sau, và càng về sau càng nặng, đó là học sinh trường công bắt đầu đóng
tiền. Tất nhiên họ dại gì gọi là học phí mà xào nấu chữ nghĩa để gọi tên các
món tiền phải đóng bằng những thứ quỹ tự nguyện, có vẻ độc lập với chính quyền,
nghe có vẻ chính đáng và nhẹ nhàng hết sức. Sáng tạo nhất là đưa hội phụ huynh
mà họ gọi là hội cha mẹ học sinh ra làm bung xung để kiếm tiền chi cho các hoạt
động. Bao nhiêu năm trời phải đi họp phụ huynh cho mấy đứa con, buồn nhất là
gặp mấy thầy cô giáo viên chủ nhiệm dạy môn văn mà hầu như không nói đúng tiếng
Việt hoặc nói một thứ tiếng Việt nghèo nàn thảm hại, thứ đến hình như chỉ gặp
ông hội trưởng, bà hội trưởng phụ huynh lăng xăng pha chút nịnh nọt chuyên
khuyến khích đóng tiền, chẳng khác…nối giáo cho giặc (chắc cũng vì lo cho sự
học của con). Trong các món tiền phải đóng, tôi nhớ có thứ gọi là “kích cầu
giáo duc”, đóng khá nặng nhưng không hiểu quỹ đó dùng làm gì, nghe nói dường như
để sửa hoặc xây thêm phòng học mới. Lạ thật, nếu vậy thì chuyện này dây dưa gì
tới kích cầu giáo dục. Muốn chính danh việc thu tiền, chỉ cần chế thêm danh
từ (một cách lem nhem, đại khái, tùy
tiện) như vậy đó. Thế là chỉ đôi ba năm sau tuyên bố hồ hởi công lập hóa tất cả
trường tư thục, các đồng chí “kế thừa” của ông Mười Tân vượt qua khó khăn bằng
cách…tư thục hóa tất cả trường công lập! Những năm đầu còn nhẹ nhưng càng về
sau họ càng trượt dài trong chuyện thu gom tiền bạc để …củng cố lợi nhuận. Đến nay
thì sự nghiệp đó tiến tới hoàn hảo: Từ Mẫu giáo đến Đại học, tất cả chỉ công
lập trên danh nghĩa, thực chất từ tờ giấy thi học kỳ đến quyển sổ liên lạc học
sinh đều phải trả tiền! Họ ngồi không nên còn “động não” nghĩ ra nhiều cách làm
tiền học sinh hết sức tài tình. Chẳng hạn mỗi dịp có thi cử các thứ, họ đều
phát hành những tập tài liệu mỏng gọi là ôn thi, đại khái cho biết chương trình
hạn chế, mỗi môn học đều có bài tập, bài làm mẫu… cho tất cả các cấp lớp,
“trọng tâm” là các lớp cuối cấp. Những tập sách mỏng, giá lẻ không bao nhiêu
nhưng nếu tính số cả triệu học sinh các cấp thì số tiền thu được khiến ta té
ngửa kinh ngạc. Mà không phải chỉ mỗi
kiểu thu thế này, còn khối cách kiếm lợi nhờ quyền lực và cách thức độc quyền
trong lối tổ chức giáo duc nên từ năm này sang năm khác, quan chúc to nhỏ trở
nên giàu có dễ ợt. Những chuyện này có nhắc lại chẳng qua vì tính “lịch sử” của
chúng chứ so với chuyện phát hành độc quyền sách giáo khoa cùng những tài liệu
học tập vẽ vời sau này…như các loại vở bài tập in sẵn cho học sinh điền vào một
lần rồi bỏ cực kỳ lãng phí thì chúng trở thành …chuyện nhỏ. Càng ngày thiên hạ
càng chưng hửng ra bộ giáo dục là chỗ động não hơn mọi ngành trong kiếm tìm
tiền bạc với nhiều mánh lới chính danh vô phương “phản biện”. Sao xứ sở ta lắm
trò mỉa mai cay đắng vậy hỡi trời xanh
không bao giờ lên tiếng!
Vì liên tưởng lan man nên
sau này, lúc dạy tại trường CĐSP, có lần tôi nghe một ông Thạc sĩ sử bảo Trần
Trọng Kim là Việt gian, làm bù nhìn cho Nhật, tôi ngứa miệng hỏi ông có đọc hồi
ký “Một cơn gió bụi” của cụ chưa, ông thạc sĩ bảo chưa, tôi nói với ông rằng
bán nước hay không là chuyện phức tạp của lịch sử, tôi chỉ thấy cụ Trần lúc ra
làm thủ tướng thì đang ở nhà thuê, ôm theo mỗi cái va-li mây, lúc thôi làm, lại
tiếp tục ở nhà thuê và cũng chỉ ôm về cái va-li mây. Nay, một quan chức nhỏ
ngành GD hoặc, chẳng hạn, hiệu trưởng trường tiểu học thôi… chỉ ít năm là mua
được nhà, có người làm văn thư ở phường cũng kiếm được miếng đất bạc tỉ (tất
nhiên không phải ai cũng được thế nhưng phải nói khá nhiều người…trúng mối như
thế), mấy anh nói cụ Trần là bù nhìn bán nước này nọ, nghe bất nhẫn quá, e mang
tội chết.
Năm 1978, tôi được huy
động tham gia chiến dịch đánh tư sản đợt hai. Công tác có tính chất “đại trà”,
thiếu cán bộ nên phải huy động đến loại cóc ké như tôi. Tôi gặp hầu hết mấy anh
chị hiệu phó các trường PT, có người ngày trước là sinh viên phong trào đô thị
tôi có biết mặt hoặc nghe tên. Chúng tôi được “tập huấn” mấy ngày trước khi
chia tổ ba người bất ngờ thâm nhập tư gia các hộ gọi là tư sản mại bản. Người
tổ trưởng của tôi là một cán bộ đoàn trẻ thuộc loại bảo hoàng hơn vua, lúc nào
cũng như muốn chứng tỏ trung kiên, lăn lộn không mỏi mệt trên chiến trường đánh
tư sản, anh tra vấn để khảo của chủ nhà anh phụ trách như công an hỏi tội. Anh
còn theo dõi sát sao, làm như muốn chỉ đạo chúng tôi áp dụng biện pháp mạnh cho
hữu hiệu. Mấy tổ kia không có chuyện này, đây là sáng kiến của riêng anh ta
phát huy trong lúc làm tổ trưởng ba người, chúng tôi im lặng chịu đựng. Tôi
nghĩ bụng anh chàng này mà làm lớn thì chết cha thiên hạ chớ chẳng chơi, đời
thêm khổ vì khối người hám quyền quá đáng như anh ta. Lối nói theo kiểu cán bộ
đoàn của anh tôi không biết tả làm sao, chỉ nghe mà ngán ngẩm. Không ngờ anh ta
học cách phát biểu y chang lãnh đạo, nhuần nhuyễn không chỗ chê. Sau này tôi
nghe phong phanh anh báo cáo rất xấu về tôi tại trường tôi đang công tác. Thật
ra, không cần phải thông minh gì, ngay kẻ tối dạ chậm lụt mà nhìn thấy bản mặt
chảy dài u ám của tôi trong đợt công tác đó cũng không thể báo cáo tốt gì về
tôi được. Đây là chuyện đúng duy nhất anh làm được.Tôi không thể trách gì anh
ta. Có điều ngạc nhiên (nhưng xem ra vô cùng lô gich) là chỉ vài tháng sau đợt
công tác trở về, tôi nghe tin tay cán bộ đoàn trung kiên đó vượt biên trót lọt
một cách ngoạn mục. Ngạc nhiên vì anh ta chuẩn bị quá chừng chu đáo và khổ
công, thủ một vai diễn toàn vẹn trong vở kịch tự soạn kịch bản, không chút sai
sót trong thời gian lâu dài, chỉ tệ ở chỗ anh ta sẵn sàng dẫm đạp những kẻ vô
can một cách tàn nhẫn và không cần thiết. Phải công nhận anh ta khôn khéo quá
mức, buồn một nỗi, nói như ông Nguyễn Gia Kiểng, một dân tộc nhiều người khôn
(kiểu đó) là một dân tộc đần độn. Nhiều năm sau, tôi muốn xóa nhòa gương mặt
này trong ký ức sơ sài của mình để còn tin “nhân chi sơ tính bổn thiện” mà vẫn
thất bại. Thế mới tệ.
Tôi vào ở chung với một gia
đình người Hoa gần chợ Kim Biên. Ông chồng Tàu rặt, bà vợ Việt, người Rạch giá.
(Lúc xong công tác trở về trường, bà đãi tôi một bữa cơm canh chua nấu theo
kiểu Rạch giá, món ăn quen của những ngày dạy học vui vầy một thuở, tôi nhớ bữa
ăn đó tới giờ).Tôi ngạc nhiên thấy họ không có gì gọi là giàu, chuyên bán vỏ
ruột và phụ tùng xe gắn máy, chủ yếu là bộ phận đánh lửa (vice platiné). Hàng
hóa lúc này chẳng còn gì nhiều nhưng họ có bổn phận điền vào một bản kê khai in
sẵn rất chi tiết của nổi, của chìm họ đang có. Theo chủ hộ, ông không phải nhà
nhập cảng mà chỉ là phân phối hàng cho một đại công ty, gần như vốn rất ít, bán
hàng tới đâu thì trả tiền cho công ty tới đó, hết thì họ lại bỏ hàng mới, thậm
chí số phần trăm lời của cửa hàng cũng do công ty định đoạt, do vậy ai đó xếp
loại tư sản mại bản cho họ là oan. Tôi có nói là mình chỉ đến đây theo lệnh,
làm những việc theo lệnh như giao nhận bản kê khai, ở lại đây để xem xét thực
tế rồi báo cáo lại, không biết gì chuyện xếp loại tư sản này nọ…Nghe vậy họ còn
nhờ tôi trình với cấp trên đừng bắt họ đi kinh tế mới, họ không có tội tình gì,
không bóc lột ai, chỉ có căn phố trệt một lầu là mồ hôi nước mắt cha mẹ để lại
cho con cháu.Tất nhiên tôi không cho biết đã được lưu ý là phải tra gạn, kể cả
hăm dọa khéo léo để họ khai ra của chìm, chủ yếu là vàng (tức kim loại màu
vàng, theo cách ghi trong biên bản). Có người thắc mắc vì sao ghi như vậy thì
được trả lời rằng chưa xác minh nên không thể biết vàng thật hay giả nên không
thể nói chính xác là vàng mà chỉ có thể nói kim loại màu vàng. Láu cá chưa!
Ngạc nhiên thứ nhất là nếu người ta cấu kết với nhau đổi vàng thật ra kim loại
màu vàng thì sao? Ai biết? Ngạc nhiên nữa là khi nộp biên bản kiểm kê, chúng
tôi phải nộp hết, không được giữ lại phó bản nào, như vậy, biên bản đó có giá
trị gì đâu, muốn làm bao nhiêu biên bản theo nội dung nào chẳng được? Tôi chán
nản nghĩ tới trăm điều khuất tất, càng không muốn làm hại gì cho chủ nhà. Tôi
ngượng, chưa một lần mở miệng cóc nói với chủ gia về vàng bạc các thứ. Tôi thấy
rõ nếu có cũng chỉ là mồ hôi nước mắt của người ta, mình chẳng lấy quyền gì
chính đáng hỏi tới mà tâm vẫn an lành được!
Suốt đợt công tác, hằng
tuần chúng tôi tập trung tại hội trường một buổi để nghe báo cáo tình hình, chủ
yếu là các tổ được kể là xuất sắc lên báo công, đồng thời rút ra những kinh
nghiệm để các tổ khác học tập. Trong những lần đó, “ấn tượng” nhất là báo cáo
của một tay cán bộ gốc ngành giáo dục. Ông ta hào hứng tường thuật gần như chi
tiết quá trình “đấu tranh” tại một hộ người Hoa bề ngoài không có vẻ gì giàu
(theo ông chỉ là ngụy trang). Ông đã kiên trì áp dụng những biện pháp “nghiệp
vụ” riêng ông nghĩ ra, (tôi thấy đầy mùi bạo lực, chẳng có gì khéo léo nhẹ
nhàng như ông tự nhận, mà cũng đúng, nhẹ nhàng thì làm sao khảo được vàng).
Cuối cùng thì bà già Tàu phải xì ra nộp cho ông 10 lượng vàng hay nhiều hơn,
tôi không nhớ chắc. Ông này có lối phát biểu đúng kiểu cán bộ chỉ đạo thường thấy
lúc đó. Ông hay nhấn giọng những từ ông cho là quan trọng, thường khi nói hết
câu rồi thì hạ thấp giọng để lặp lại từ hoặc nhóm từ quan trọng đó lần nữa.
Chẳng hạn như: “Cái này rất cơ bản các đồng chí”, ông hạ giọng lặp lại: “Rất cơ
bản”. Kiểu này cũng là cách ăn gian thì giờ để chuẩn bị nói câu kế tiếp. Ngồi ở
hội trường nóng bức nghe hoài những điệp khúc như vậy, cộng thêm đói bụng, thời
điểm đó cứ triền miên đói bụng, lại càng sốt ruột tợn. Sau đợt công tác, ai về
ngành nấy, ông cán bộ trung kiên, tấm gương sáng trong công tác cũng như chấp
hành tốt mọi chủ trương chính sách lọt vào mắt xanh của tổ chức nên sau này trở
thành quan chức trọng yếu của ngành giáo dục thành phố. Với thành tích “ấn
tượng” của mình, tôi nghĩ ông công tác bất cứ ngành nào miễn không phải giáo
dục thì thích hợp với khả năng ông hơn.
Ở lại trong nhà cả tháng
nên tôi và ông chủ bắt đầu thông cảm, thân tình, nhất là nói chuyện với ông rất
thú, không hiểu học lúc nào mà ông sành tiếng Việt, đọc được cả thơ tiếng Việt
nữa chứ. Tôi phạm nội qui là đi uống café với ông, (chuyện này không qua mặt
được tay tổ trưởng tổ tam tam mặc dù y nằm tại một hộ cách tôi mấy căn), ông là
thổ địa nên biết chỗ café thật, tất cả café vỉa hè lúc đó đều giả, ông cũng lấy
làm lạ mọi thứ vật chất đều trở nên hiếm một cách vô lý không hiểu được, do vậy
người ta tìm cách làm giả để đáp ứng nhu cầu. Người Tàu tập cho dân Sài gòn
uống hạt bắp rang với vài thứ hạt khác cùng một ít café, riết rồi họ quen, khi
được uống café pure, họ sẽ chê cho mà coi. Gia đình này sống gần như đạm bạc.
Bữa ăn ngon nhất của họ tôi chỉ thấy vài lần là một tô thịt heo quay đặt giữa
bàn, đĩa dưa cải chua, tô canh móng heo nấu với đậu phộng lột vỏ. Bàn thờ Phật,
thờ tổ tiên đặt trên gác, nhỏ xíu và bày biện đơn giản, sơ sài, họ cũng ít cúng
vái lâu lắc, rình rang, thấy chỉ xá xá rồi cắm nhang. Tôi không khỏi so sánh
với bàn thờ gia tiên đồ sộ, rực rỡ đèn đóm, nhan nhản hình ảnh ông bà chú bác và tượng thờ lớn nhỏ
của gia đình ông bạn Bắc kỳ di cư của tôi. Cách thờ cúng của người Việt chắc
cũng bắt chước người Tàu nhưng không hiểu sao chính họ lại có vẻ qua loa, đơn
giản trong khi người Việt câu nệ, rườm rà hơn hẳn. Chắc vì mặc cảm bắt chước
nên khắt khe và cố làm cho trang trọng hơn chăng? Cũng như đạo Khổng, đạo Mac
xit, không một chút hơi hám gì liên quan đến mình nhưng người Việt cũng thực
hành nghiêm túc và “kiên định” dai dẳng
hơn hẳn thiên hạ! Ông Tàu này là người buôn bán mà có học như đã nói,
nhưng có lần tôi viết mấy câu chữ Nôm truyện Kiều đưa ông, ông chịu thua, không
đọc được. Tôi hỏi ông có người Hoa học thức nào biết chữ Nôm không, ông bảo
rằng theo ông, chắc là không, vì người Hoa thường rất tự cao, không coi trọng
chữ nghĩa, văn chương các lân bang nhỏ hơn mình nên ít khi để ý tìm hiểu nghiên
cứu. Có thể ông nói thật lòng nhưng tôi không khó nhận ra cái vẻ Đại Hán trong
tâm lý ông ta. Tôi cũng nói với ông chuyện dịch thơ Đường ra tiếng Việt, ý kiến
ông “cực đoan” cách không ngờ. Ông nói rằng chuyện rất khó, không bao giờ dịch
được cái hồn của bài thơ ra tiếng Việt, may ra dịch được ý nghĩa thôi, mà cũng
ít khi vẹn toàn vì bị hiểu lầm. Dịch mất công mà không chuyển được cái hay cho
người khác thì dịch làm gì cho mệt. Muốn thì bỏ công học chữ Tàu cho giỏi để
thưởng thức thi ca đó chớ khó có con đường tắt nhanh gọn nào khác. Có lẽ ông
không đúng trong trường hợp thơ Đường với ngôn ngữ Việt. Con trai lớn của ông
năm 1975 đang học cao trung, kẹt lại ở Đài bắc, gia đình không thể gởi tiền từ
ngày nọ, nay nghe nói tìm cách đi làm thêm để có thể tiếp tục học đại học. Cũng
năm biến động đó, cô con gái kế đang học sơ trung ở Chợ lớn, chương trình trung
học của người Hoa bị bãi bỏ, cô phải theo chương trình cấp 3 tiếng Việt. Lúc
đầu gặp khó nhưng rồi từ từ cũng vượt qua, sắp sửa thi tốt nghiệp. Cô không hay
nói, đi học về là lên lầu vào phòng, nghe nói tôi dạy học, cô cũng chào hỏi tôi
bằng thầy. Một lần hiếm hoi cô nói với tôi:
- Xin thầy nói với chính
quyền địa phương giùm đừng bắt bọn em đi kinh tế mới, mấy người bà con đi rồi
nói khổ lắm, chỉ có bịnh mà chết thôi!
Lẽ thường cô phải hỏi tôi
chuyện văn chương chữ nghĩa, nay cô chỉ nói chuyện sống chết nhãn tiền, nghe
không khỏi mủi lòng.Tôi thành thật nói với cô rằng không ai nói với ai được gì,
nhất là hạng bét bẹt như tôi, mọi sự được quyết định ở đâu đâu, có điều cứ hy
vọng, gia đình cô rõ ra không phải tư sản mại bản, chắc cũng không đến nỗi nào.
Nói vậy chứ tôi cũng linh cảm một cái gì chẳng lành rình rập đâu đây. Căn nhà
của họ ở vị trí quá thuận lợi cho viêc buôn bán, e là đích nhắm của những người
thế lực. Tôi chưa nói cô là một thiếu nữ Hoa lai Việt đẹp nhất tôi từng thấy.
Mày không xếch như phần nhiều thiếu nữ người Hoa khác, mắt nhung đen mở to
giống mẹ, dáng gầy, cao dong dỏng nhưng cân đối như cha cô, đi đứng khoan thai,
nói năng nhỏ nhẹ lại kiệm lời. Tôi có nói nhỏ với ông chủ nhà dù có gì xảy ra
cũng tìm cách ở lại thành phố quơ quào sống đỡ qua ngày hay về quê bà ở Rạch Giá.
Nói hờ hững cho có chứ tôi biết gì hoàn cảnh của bà đâu mà khuyên với nhủ… Tôi
tự nhiên thương cảm cho đóa hoa hương sắc trong giá trắng ngần rồi ra sẽ tan
tát dập vùi trong phong ba của “lịch sử lên cơn dữ bất thường”. Tôi không quên
những đêm khuya bỏ nhiệm sở trốn về ngủ nhà, đạp xe một mình qua những con phố
hoang tàn đèn mờ hiu hắt vùng Chợ Lớn, phố xá tấp nập ngày trước nay vắng hẳn
bóng người, không buôn chẳng bán, lặng chìm quạnh quẽ như cảnh trong phim Dernier rivage. Gió thốc
trên hàng cây dầu, thổi tung bụi cát tấp vào hẻm tối, mấy con chó đói lang
thang quanh quẩn bới tìm vỏ tôm ruột cá trong thùng rác. Tô Thuỳ Yên dù gì cũng
nhận ra được “vinh dự lầm than của kiếp người”. Riêng tôi thấy phận mình cũng chẳng khác nào thứ chó
đói lang thang.
13.
Trong những năm vừa đói cơm rách áo vừa bị khinh miệt tận mạng của đám
giáo viên thì, nói ngay, vẫn có thành phần nhỏ dạy toán lý hoá tạm kiếm tiền đủ
sống. Lúc đầu chỉ nhắm đủ sống, kế đến các kỳ thi đại học bắt đầu khó khăn thì
bọn họ khá hẳn nhờ mở lớp dạy thêm. Thi đại học ở VN quái lạ, ngành nào cũng
phải thi toán lý hoá, không toán thì ít nhất cũng lý hoặc hoá; học sinh kém mấy
môn này kể như không có cơ hội nào học tiếp và chỉ còn cách đi lao động “phổ
thông” sau cấp 3. Tội nghiệp mấy em có năng khiếu văn chương và sinh ngữ, họ
không có cửa nào cả. Sinh ngữ và Việt văn, những thập niên đầu sau 75 chẳng để
làm gì, coi như học cho có. Chính sách giáo dục này không phải không để lại hậu
quả tàn tệ. Tiếng Việt mỗi ngày dần mất đi tính chất đặc trưng trong diễn đạt,
ngôn ngữ tinh tế hàng ngàn năm của tổ tiên qua ca dao, thơ phú bị bỏ lơ. Ca dao
tục ngữ chỉ chọn trích học những gì có nội dung chống phong kiến thực dân, mảng
này ít quá, kiếm đỏ mắt thật sự chỉ đôi câu…bà con xa xa tới chuyện chống thực
dân phong kiến, cũng không sao, đã có đám thợ thơ-versificateur- bịa đặt thêm
cho đủ một cách ngô nghê, kỳ cục, học xong quên ngay vì chẳng thấy hay chỗ nào
như lời thầy giảng. Văn học viết thì chỉ khai thác văn học hiên thực, giáo viên
chỉ rành phần này, nói không quá, hầu như họ ít biết cái gì là văn chương ngoài
văn học hiên thực phê phán, hiện thực XHCN. Cũng có trích giảng truyện Kiều
nhưng không phải những đoạn hay nhất về văn chương. Đoạn kém nhất là đoạn Kiều
trả thù Ưng Khuyển thì được giảng là đỉnh cao nghệ thuật truyện Kiều. Tôi nghe
anh bạn Lê Ng Đại kể một lần đi tập huấn về chuyên môn, bà cán bộ chỉ đạo truyền
đọc tài liệu giảng dạy, có câu “văn dĩ tải đạo” , chắc do lỗi đánh máy, bà đọc
thành “văn mỹ tải đạo” với bản mặt đầy tự tin. Mọi người đang buồn ngủ nhưng
tỉnh ra hẳn, dòm nhau ngỡ ngàng. Lê V Bảy thì kể một lần nghe GS THT công kích
thơ Nguyễn Bắc Sơn, ông bảo thơ đó phản động, tả một thế hệ thanh niên lính
đánh thuê mà như những anh hùng; nhất là mấy câu:
Mai ta đụng trận ta còn sống,
về ghé Sông Mao phá phách chơi,
chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm,
đốt tiền mua vội một ngày vui.
và
Lũ chúng ta sống một đời vô vị,
nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau,
chọn trời đêm làm nơi đốt hoả châu,
những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc,
mượn bom đạn chơi trò chơi pháo tết,
và máu xương làm phân bón rừng hoang”.
Ông đặc biệt chỉ
trích câu:
Lao mình vào cuộc phân tranh,
tiếc thương xương máu sinh thành được
sao?”
Ông còn cao hứng nói đầy
tự tin:
Khi tao đi lấy khẩu phần,
mày đi mua rượu đế Nùng cho tao,
- Đế Nùng là đế gì, Đế nồng
chứ.
Giờ giải lao, một anh bạn
bực quá đến giải thích với ông đế Nùng là đế của người Nùng, ở Phan Thiết có
xóm người Nùng từ miền Bắc di cư nấu rượu đế rất ngon. Ông nói như không: Thế
à, rồi thôi. Giờ giảng tiếp ông không nói gì chuyện đế nồng đế Nùng nữa. Cây đa
cây đề còn sớn sát vậy, trách gì bà cán bộ chỉ đạo mù tịt vô danh kia.
Tiếng Việt từ xưa, không ai
nói “ Anh đến từ đâu?” mà phải: “Anh từ đâu đến?” thế mà bỗng dưng, gần đây
thôi, kiểu câu sau biến mất. Có người bảo sao cũng được, miễn hiểu thì thôi.
Nói thế thì nói làm gì, ngôn ngữ đâu chỉ có mỗi chức năng hiểu. English-by-
hand khách du lịch cũng “hiểu” mà.Tôi nghĩ
tiếng ta, do hậu quả tất yếu của cách giảng dạy, cách vận hành của các
cơ quan truyền thông, ngày càng lạm dụng chữ Hán, bất chấp ngữ pháp, câu cú
ngây ngô, diễn ý dài dòng, cầu kỳ (thay vì nói anh ta chạy không kịp thì lại
bảo tốc độ chạy của anh ta là chưa đủ, số tiếng tăng gần gấp đôi, chỉ ma quỉ
biết được nói thế thì trong sáng, hay ho chỗ nào. Xin vui lòng chịu khó nghe
các biên tập viên bình luận các môn thể thao trên TV sẽ thấy tiếng Việt dài
dòng lủng củng tới đâu). Ngó cái trái biết gốc cây.Trồng khế thì hái khế, sao
đòi hái cam được. Hình như Lâm Ngữ Đường từng nói vậy khi bàn về văn hoá, giáo
dục. Có người nói một phần rối là do toàn cầu hoá, ảnh hưởng tiếng Anh. Được
vậy cũng mừng vì người Việt nay rất giỏi tiếng Anh. Nhưng không chắc. Có thứ
tiếng Anh nào nói kiểu như: “Hôm qua, đã diễn ra…”. Mà tôi cũng chưa thấy một
lần các chính khách, kể cả chính khách ngành ngoại giao, nói một câu tiếng Anh
trước ống kính truyền hình hoặc trước công chúng. (Trong khi Campuchia lại có!). Lúc nào cũng
thấy người thông dịch ngồi thập thò phía sau lưng ông lớn, rất “đặc trưng VN”.
Chuyện hài hước là ông MC khét tiếng chuyên môn nói ra rả hằng đêm kiểu câu
tiếng Anh: “Chị Mẹt đến từ Thái Bình, anh Lèo đến từ Nghệ An…” lại thất thanh
kêu cứu khi phải đụng tới tiếng Anh trong
một lần đại hội phim ảnh gì đó. Vậy mà bảo chịu ảnh hưởng Anh ngữ, sao
không đáng ngờ được. Thì trăm năm bị Pháp đô hộ, họ vẫn dạy ta “il revient de
la promenade” nhưng có người Việt nào suốt trăm năm đó dịch ra “hắn trở về từ
cuộc đi dạo” đâu mà phải là “Hắn đi dạo về” chứ.
Thời điểm bạn bè bên cánh
toán lý hoá sống khoẻ nhờ nghề của họ, (bọn cũ gọi là hành nghề, tiếng Việt
“hiện đại” gọi là tác nghiệp, hẳn lành nghề không Tàu bằng tác nghiệp nên bị
loại), thì bọn thầy giáo văn sử địa vẫn triền miên tơi tả. Tôi có lẽ không đến nỗi
ngu lắm nếu ngay từ năm lớp 10 không chọn ban văn chương C mà cứ học ban B hoặc
A , nay đã khỏi dạy giảng văn láo toét có vẻ gian mà vẫn đói. Tôi tự nhiên đâm
giận chính mình không dạy được mấy môn khoa học, vừa kiếm được gạo lại vừa vô
can với dối trá tràn lan, lại có dịp cười mấy tay đồng nghiệp lưu dụng dạy văn
say mê như thiệt. Chuyện tào lao khó tin nhưng sự thật, đời tôi chuyển theo
hướng văn chương chữ nghĩa tầm phào ngay từ năm lớp 6 lớp 7 chỉ vì bị nhập tâm
một cách tự nhiên mấy khổ thơ, mấy đoạn văn xuôi trong sách giáo khoa ngày
trước thầy cho học. Nhiều lắm nhưng xin chỉ trích thí dụ đoạn này:
Nắng mới.
Sinh tới vén rèm mở tung cửa
sổ, ánh sáng ùa tràn vào thành luồng lớn khiến chàng ngợp trong sóng vàng chói
lọi.
Màu nắng vàng tươi, không nồng
lắm và trong như lọc. Da trời xanh lơ lơ, thứ màu xanh e lệ của một thời tiết
muốn đẹp nhưng còn ngập ngừng. Những mái tranh, những khóm lá, cho tới những
nếp núi lượn ngoài xa tít đều hiện ra với những hình sắc rõ rệt.
Những thanh âm rộn rã bay lên
thinh không. Tiếng người nói, tiếng trẻ em nô đùa đâu ở phía chùa làng Sinh
nghe lạ tai. Tiếng kêu khô khan của một thân cây nào nứt nẻ không biết vì căng
nhựa xuân hay vì phơi nắng mới. Tiếng guốc đập lộp cộp ròn rã trong ngõ hẻm khô
ráo, tiếng răng cào lê trên sân thóc nghe rào rạo.
Sinh hé miệng cười. Chàng vừa
nghe tiếng chim hót, một tiếng chim quen. Cứ mỗi mùa xuân trước, lang thang
dưới những lùm cây, chàng thường lắng nghe tiếng ca của giống chim ri, giọng
trong và nhọn hoắt, điệu kỳ quặc: lúc đầu ba tiếng dài lơi nhịp rồi sau bỗng
tiếng hót đổ hồi.
Chàng yêu chúng lắm, gần như ta yêu bạn đồng
tâm, bởi mỗi khi xuân về, chúng lại trở lại ca mừng để hợp điệu với niềm vui
sướng của lòng chàng.
BÙI
HIỂN-NẰM VẠ
Đoạn văn thể hiện một thứ
tiếng Việt trong sáng và tinh tế hiếm thấy. Tôi chỉ cho đám học trò nhỏ tác giả
rất kiệm lời, chữ nghĩa cô đọng, chọn lọc, không hề một lần phải dùng thì, mà,
là, cái, có…Những cảm giác về thị quan và thính quan được phân tích hết sức
chính xác và tế nhị, phép so sánh và nhân hoá được vận dụng tài tình.(ba lần
phân tích màu nắng, ba lần phân tích màu trời chỉ trong hai câu văn ngắn). Từ
ngữ giản dị mà gợi tả, từ láy âm tượng thanh thích nghi, câu văn đầy nhạc điệu
êm xuôi như reo vang một niềm xuân phơi phới. Đọc đoạn này không cách gì khỏi
liên tưởng tới làng quê tôi xinh đẹp thanh bình ngày cũ, những buổi sáng nắng
xuân rạng rỡ, êm đềm trên ngàn hoa lá, chim chóc ríu rít sau vườn. Cũng tự nhiên
nhớ đến trường đoạn tả mùa xuân trong tấu khúc Bốn mùa của Vivaldi, nhất là chỗ
tả tiếng chim trong văn và trong nhạc, có cái gì trùng hợp như hai kẻ tri âm
cùng cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, trộm nghĩ ngôn ngữ VN đâu kém gì âm nhạc của
Vivaldi! (Tiện đây xin tỏ lòng biết ơn người bạn hiền gửi cho đĩa nhạc toàn bộ
flute của Vivaldi, nghe xong, quả thấy đời đáng sống hơn và nghĩ điên điên,
ngoài…mì Quảng tôm cua với chút nước lèo cô đặc thì thứ âm nhạc này chính là loại thực phẩm trần gian mình
phước đức may mắn được hưởng, đâm ra bắt đầu …sợ chết không được ăn mì và nghe
flute tây phương nữa!).
Ở đây tôi chỉ nói tâm hồn
mình đã được nuôi dưỡng thế nào, mỹ cảm đã được rèn luyện ra sao, đã được hấp
thụ thứ văn hoá theo kiểu giáo dục không thực dụng mà thiên về cái đẹp nào chứ
cũng biết nay không ai viết văn xuôi như truyện ngắn Bùi Hiển hay Xuân Diệu
trong Phấn Thông Vàng hoặc Trường Ca nữa. Ai để tâm cũng có thể nhận ra câu văn
Việt ngữ thời Tự Lực Văn Đoàn khác xa thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh ra sao,
rồi thì câu văn xuôi của Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam tân kỳ hơn thời Tự Lực xa
lắc mấy lần. Nhất định tôi phải tìm cách trở lại chuyện này, nói lên lòng biết
ơn nhà văn quá cố Thanh Tâm Tuyền một lần về công trạng to lớn của ông đối với
câu văn xuôi tiếng Việt. Tôi cũng xin vô phép mà thưa rằng cụ Nguyễn Hiến Lê và
cả cụ Võ Phiến đã có phần sơ sót không đánh giá đủ văn xuôi đặc sắc của tác giả
này và có vẻ không công bình lắm khi nói tới thơ ông. Có thật giá trị không,
cái gọi là văn chương hiện nay trên net, đó chẳng qua chỉ là những câu chuyện
ngăn ngắn có ý nghĩa xã hội hay tình cảm gì đó. Thời buổi nó vậy thì ta chấp
nhận vậy chứ chả thấy chút gì hào hứng về chữ nghĩa văn chương. Nghe lời lẽ
trong các bài hát hiện nay của đám trẻ, ai không kinh hoảng cho cái thứ văn hoá
tạo ra các lời ca đó quả là kẻ phi thường hoặc là người đã đạt tới bậc tu hành
chánh quả, bịt tai nhắm mắt trước chuyện ngôn từ quái dị, khùng điên.
Một người bạn ở Na Uy viết
cho tôi có ý khen mấy dòng ký ức đơn sơ này, tôi thưa với anh rằng tôi chẳng
phải nhà văn nhà báo gì, chẳng là thời gian dạy học dài, nhận ra lắm điều ngang
trái, tìm cách nói lên cho nhẹ lòng, nhắm tới đám bạn bè cùng học chung là
chính. Tôi sống vất vưởng cuộc đời hèn mọn, thường ngày thấy sư bạo hành đâm sợ
sệt triền miên, tâm tình hiếm khi tịnh ổn. Ngoài nhóm bạn bè cùng học chỉ loe
hoe năm bảy mống, tôi e dè nhút nhát chẳng dám giao du. Không đáng sợ sao ta
như sống những tháng ngày không luật pháp trong một xã hội tận cùng sa đoạ, cả
thiên hạ chạy theo tiền, xây dựng cơ ngơi trên dối gạt và ngang ngược, chẳng
biết vì đâu nên nỗi. Cũng chẳng hiểu vì đâu ngôi trường từng dạy mấy mươi năm
đến quen từng gốc cây, viên gạch, lúc giã biệt sao chẳng một niềm lưu luyến
nhỏ, bao năm rồi chưa một lần trở lại, cả những gương mặt người cũng lẹ làng tan nhòe trong tâm tưởng, cớ gì
đôi khi còn thấy nhẹ nhõm như cất được gánh nặng từng đeo đẳng dài lâu. Chẳng
bù bè bạn tôi, những người bạn học bình thường, có khi tầm thường dưới mắt
thiên hạ vì mọi người đâu biết họ là ai, nhưng không có họ trong những tháng
năm dữ dội đó, hẳn tôi sẽ không biết sống làm sao. Khi Ng Th Cường cùng gia
đình được bảo lãnh trèo lên máy bay qua Mỹ, tôi và Lâm H Tài như chết rồi. Tên
Cường là người vẽ đẹp và kể chuyện hay (nhất thế giới!), có điều đáng tiếc là
hắn làm biếng vẽ nhưng được cái phát huy món kể chuyện, toàn những chuyện thời
thế trên báo chí mà chỉ riêng hắn mới nhận ra được khía cạch khôi hài xạo láo,
đôi khi chúng tôi ngớ người ra như được khai tâm. (Tôi khoái câu thơ của Thận
Nhiên: “Đọc báo Công an để mở mang trí tuệ”, sao ông không bổ sung: “Đọc báo
Nhân dân để nâng cao kiến thức” cho đủ bộ).Quả thật đời mất vui khi không còn
được nghe chuyện của Cường nữa. Hắn đi học tập cải tạo cũng khác người. Sau 75
quân nhân miền Nam đều vào trại cải tạo, kể cả thành phần giáo sư trung học học
xong lớp sĩ quan trừ bị Thủ đức được “biệt phái” về bộ giáo dục. Ngạc nhiên là
những người dạy các trường thuộc địa phận tỉnh Long an thì chỉ phải học chính
trị một tuần chung với hạ sĩ quan. (Nghe đâu tỉnh Khánh hoà cũng như vậy, không biết thực hư) Được đâu một vài
tháng gì đó thì dường như sáng kiến nhân đạo chơi trội của chính quyền tỉnh
Long an bị khiển trách thế nào mà để bù lại, họ tiến hành cuộc bắt bớ còng tay
dữ dằn bọn biệt phái ngay lúc đang dạy học tại trường. Một buổi chiều công an
đến đọc quyết định rồi còng tay cả lũ dẫn đi. Cường dạy tại một trường cấp 2,3
vùng quê Đức hoà, hàng rào kẽm gai quanh trường bị phá mất, trong giờ dạy tiếng
Anh, trẻ chăn trâu đứng bên cửa sổ lớp cầm roi chỉ chỉ ông thầy như đe doạ
trong khi đứa học sinh nhỏ xóm Bắc kỳ di cư nói ngọng, chỉ biết mỗi câu trả lời
“Lô, ít lót” (No, it is not), hắn bực quá quằm rằm:
- Tiên sư chúng mày, hỏi gì
cũng lô ít i lót, trong thì thù ngoài thì giặc!
Trại cải tạo lúc hắn vào
vẫn do một đơn vị bộ đội quản lý, thời gian sau, giao lại công an. Vì quản lý
hồ sơ lộn xộn sao đó, họ tiến hành “rà soát” lại, họ hỏi cung từng người để lập
lại hồ sơ. Cường ngồi nghe đối đáp giữa viên công an và tay giáo viên dạy Việt
văn có hỗn danh Dũng điên:
- Lúc tiến hành bắt anh,
người ta tuyên bố anh bị bắt vì tội gì?
- Dạ, tôi không nhớ chắc,
hình như tôi nghe họ nói cản bánh xe lịch sử gì đó. Thưa cán bộ, tôi không có
cản gì bánh xe lịch sử, tôi toàn … né thôi.
Viên công an nghiêm mặt,
ghi ghi chép chép gì đó. Lúc trở về trại, Cường nói với Dũng điên:
- Mày …điên vừa vừa thôi
chứ, dù có thật thế mà kiểu nói của mày như chọc cười, nó nhốt mút mùa nghe
con.
Dũng bảo tao tính nói bánh
xe lịch sử chạy xà niễng cọ quẹt lung tung, chạy tới đâu, tao né tới đó, tao
xuống ruộng đứng nhường đường cho nó chạy chứ cản sao đươc, không biết nó ghi
cụ thể tao bị bắt vì tội gì nữa, kinh quá. Tới phiên mình, Cường cũng bị hỏi
câu nọ. Cường nói:
- Lúc bắt tôi, họ đọc cái gì
đó tôi không còn nhớ nguyên văn, nghe như có tiếng phản động…
Viên cán bộ cướp lời:
- Vậy là anh mắc tội phản
động rồi!” liền lăm le cầm bút ghi tội danh phản động. Cường hoảng hốt đưa tay
ngăn:
- Đó là họ nói theo lý
thuyết gì đó chứ tôi chỉ dạy tiếng Anh theo phân công, làm gì mà phản động, xin
cán bộ đừng ghi tội đó.
Đêm trở về trại Cường lo sợ
mất ngủ, nói với Dũng điên:
- Mày cản bánh xe lịch sử
còn nhẹ tội hơn tao phản động. Ma quỷ xui khiến tao cũng…điên như mày hay sao
mớm cho nó tiếng phản động, khốn nạn thật!
Cường còn kể câu chuyện
Nam triều mà hắn cam đoan là thật 100%. Tài liệu học chính trị có nhắc tới
chuyện Ngô Đình Diệm làm quan ở Nam triều, có người cắc cớ hỏi “báo cáo viên”
rằng làm quan ở Nam triều là ở đâu, ông này là người Bắc bị hơi ngọng, trả lời
trôi chảy ngon ơ:
- Nam chiều tức nà Nam chiều
tiên mà bọn Nguỵ gọi nà Nam hàn, tức nà… Đài noan đấy.
Lâm H Tài thì kể lúc vào
trại, đám trại viên được lệnh đập phá các nhà vệ sinh bàn cầu nắp đậy bằng nước
mà đi đào hố để “giải quyết” chuyện ỉa đái. Y lầm bầm:
- Chết mẹ rồi, mất cả trăm năm cải tiến từ hố xí mới lên được nhà cầu,
nay lại phải đập phá để ngược về hố xí, cũng như mất ngàn năm máu me cách mạng
các thứ mới tới tam quyền phân lập, nay lại dồn lại một đống cho tiện bề cai
trị! Thua!”
(còn tiếp)
NAK