Thursday, December 25, 2025

ƯỚC MƠ, EM

 duyên
 
 
Cybèle
tranh đinh cường
 
 
Đà Nẵng đẹp, có chín cây cầu, rất mới
không xuể. lượng lưu thông
 
ngày Christmas Eve
 
mưa lạnh!
người. sao mà đông quá?
có gia đình chở nhau. xe gắn máy, năm người
em bé, nhỏ xíu, ép vào anh chị. cha mẹ
chia nhau một chiếc poncho, trong veo, nghèo nàn
mắt nhìn quanh, ngơ ngác…
Em về đâu, đêm mưa?
 
Có những chiếc xe gắn máy
tấp vội bên quán hàng
nhộn nhịp. không bàn trống
gắng đợi phiên mình
không hy vọng
không tuyệt vọng…
chỉ, chờ…
 
Có những chiếc xe gắn máy
đi. đi. đi…
trong dòng xe cộ
không định hướng
theo dòng người
đời, trôi…
 
Còn Em
xuôi ngược đêm nay
Đêm Chúa Giáng Sinh ra đời
ban Phước Lành đến muôn người
Em ước mơ gì không?
bố mẹ ước mơ gì
chỉ cầu cho Em
một tương lai
thôi ngơ ngác…
 
Đà Nẵng đẹp, có chín cây cầu, rất mới
Có nhà thờ Con Gà, cổ xưa, bên đường Trần Phú
Nơi mọi người muốn về, xin lễ đêm nay
Đêm Noel, Chúa sinh ra đời
hãy cầu cho hoà bình nhân loại
chắc hiển linh?
Chưa bao giờ tôi có dịp, đến nhà thờ Con Gà
vào một đêm Giáng Sinh
sẽ huyền diệu lắm.
 
Từ nửa vòng trái đất, trở về
trùng trùng duyên khởi
cơ duyên nào, sao tôi lại gặp Em?
 
Đà Nẵng đẹp, chín cây cầu. nghẽn
lối nào, đến nhà thờ Con Gà?
và Cybèle
đã không bao giờ nhận được món quà đêm Noel
tội nghiệp, buồn…
 
Em
trên đường phố đông người qua lại
giữa dòng đời
trong vòng tay gia đình
sao em chơ vơ quá
Cybèle
chỉ là huyền thoại
trong một chuyện phim buồn
còn Em
Em, rất thật. đêm nay.
 
Đà Nẵng đẹp, có chín cây cầu, rất mới
từ xa, thật xa…
cả trên màn ảnh ảo
biểu tượng, văn minh. giầu có
nơi Em sinh. sống
nơi có nhà thờ Con Gà
một cổ tích. xưa
nơi mọi người mong ngóng
đợi. chờ…
về, xin lễ
đêm nay.
 
Em
người em nhỏ
hãy đừng là huyền thoại
trong chuyện cổ tích buồn…
Em viết cho mình
một đoạn kết thật hay:
 
“Đà Nẵng đẹp, có chín cây cầu, rất mới
dẫn Em về. với những ước mơ, Em.”
 
duyên
 

Saturday, December 13, 2025

BÀI NÓI CHUYỆN CỦA NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH TRONG BUỔI RA MẮT SÁCH “THEO DẤU THƯ HƯƠNG TẬP 2 CỦA NHÀ VĂN TRỊNH Y THƯ

Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.

 
Kính chào quý vị quan khách và thân hữu.
 
Chúng ta đang ở vào tháng cuối của năm 2025, với sự kiện Ra Mắt Sách Theo Dấu Thư Hương tập 2 của nhà văn Trịnh Y Thư.
 
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được những buổi RMS để bằng hữu có được niềm vui gặp gỡ trong không khí của văn chương?
 
Và cả lúc này đây, nhờ có sách tôi được đứng ở đây để nói vài lời về người bạn quý của tôi, Trịnh Y Thư, một nhà văn, một nhà thơ, một dịch giả, một nhà nghiên cứu triết học, nhận định văn chương, một cầm thủ tây ban cầm, ở lãnh vực nào anh cũng gây được tiếng vang và được sự ngưỡng mộ. Qua hiệu quả những việc làm và những tác phẩm đã xuất bản ở hài ngoại lẫn trong nước, tôi có thể nói rằng Trịnh Y Thư là một trong những tên tuổi tiêu biểu cho dòng văn học Việt Nam đương đại. Sự thành tựu như thế, theo tôi, ngoài phần trăm của thiên phú, hầu hết nhờ vào chính bản thân của tác giả, ở anh có tính kiên trì, đam mê viết, đam mê đọc, đòi hỏi phải vượt qua chính mình, sự vun đắp không ngừng nội lực tri thức, và nhất là anh có một cõi riêng, đặt mình vào sự cô đơn cần thiết cho sáng tạo. Nên cũng không lạ gì, có một tên tuổi Trịnh Y Thư.
 
Có được người bạn đồng trang lứa như thế, đối với tôi là một thiện duyên. Người bắc duyên ấy chính là cố nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ và ba ly cà phê dưới giàn hoa giấy đỏ ở quán café Lover. Sau đó, không biết Nguyễn Lương Vỵ đã nói thế nào mà một ngày, Trịnh Y Thư giao cho tôi việc dàn trang tập tạp bút Chỉ Là Đồ Chơi trong lần in thứ nhất, của anh. Việc tôi nhận lời phải nói là liều mạng, vì lúc ấy tôi chỉ mới thọ giáo nhà thơ Khế Iêm khoảng mươi ngày, mà lại qua phone, về sử dụng phần mềm layout CS3. Đến lúc trực tiếp nhận việc, tôi mới thấm thía cái liều mạng mình, tôi làm việc với một người nghiêm nghị, ít cười, ít nói và không chấp nhận chất lượng công việc ở mức tương đối. Làm việc hễ bí tới đâu là tôi phone anh Lê Giang Trần cầu cứu, có khi trong lúc làm việc tôi bị cuốn hút bởi văn chương của Trịnh Y Thư, nên đã không tập trung, hậu quả là bản thứ nhất gửi lại đầy những notes chỉnh sửa. Cuối cùng, thì cuốn sách cũng được in ra và tôi không nghe một phiền trách nào từ ông chủ khó tính. Đây là một kỷ niệm vui và khó quên của tôi. Nhân đây tôi cũng xin có lời cảm ơn hai “ông thầy” là nhà thơ Khế Iêm và Lê Giang Trần.
 
Tình bạn chúng tôi theo thời gian cũng đã hơn mười năm, ngoài sự quý mến, tôi vẫn còn giữ được sự nể phục và ngưỡng mộ người bạn mình, ở cả hai tư cách nhà thơ, nhà văn.
 
Với tư cách nhà thơ, tôi xin nói qua về thi phẩm duy nhất Phế Tích Của Ảo Ảnh, một tựa rất hấp dẫn khiêu khích sự muốn đọc. Tập thơ là chuyến hành hương về quá khứ, mà theo lời thơ của tác giả:
 
Chỉ còn mớ ký ức thảm thương
 làm hành trang cho những
chuyến hành hương tuyệt vọng.
 
Có phải vì thế, mà hình ảnh được phóng chiếu qua tấm gương, như thể, với ảnh ảo sẽ làm dịu đi sắc cạnh của tuyệt vọng. Và – Ảo ảnh – Theo tôi, đó là vế nặng trĩu sức đam mê trong câu Phế tích của ảo ảnh. Nó nguôi ngoai được cái thê lương của “Phế tích.” Nó đầy ngụ ý, ẩn dụ, đẩy sức liên tưởng ta nhìn ra mặt kia của nó, là Sự Thật. Đó là dụng ý Trịnh Y Thư khi muốn quá khứ cùng sự im lặng nhẫn nhịn được cất lên tiếng nói, qua những câu thơ:
 
Vẫn biết sự thật là tiếng vọng thiên thu
nhưng hãy cho tôi hòa giải
bởi cuộc chiến với ký ức
là cuộc chiến với sự lãng quên.
 
Từ những ý trên, tôi đã gọi tập thơ này là cuộc chiến giữa ký ức và sự lãng quên. Trong cuộc chiến đó tác giả tỏ thái độ rõ ràng về quá khứ:
 
chẳng thể rũ bỏ quá khứ
như ném vào bãi phế thải
một món đồ hư hỏng dư thừa.
 
Nói cách khác, Trịnh Y Thư đã bộc lộ kỳ vọng vào sự lưu giữ ký ức, nhất là những ký ức lịch sử, bởi ở đó có một lời giải thích cho những thế hệ sau, lý do về sự lưu vong của triệu người Việt Nam. Lưu giữ ký ức lịch sử không phải để hận thù mà để tha thứ, và qua thơ Trịnh Y Thư, tôi hiểu, tha thứ không phải là lãng quên mà là một định hướng nhân bản cho cuộc sống ngay bây giờ và tương lai:
 
… những gì từng căm ghét
những gì từng trân trọng
bây giờ đều biến thành trò chơi
cầu vực của yêu thương thù hận
chẳng còn chỗ cho bất cứ
một phán quyết nào.
 
…Ý thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương…
 
… họ về đây bảo tôi đã qua rồi
tất cả đã qua rồi
nước phù sa vẫn nhóc nhách
chảy ngang con trổ
luồn lách giữa những chân lúa đang hăm hở đơm bông.
 
Sự hy vọng này vừa quyết liệt vừa thơ mộng, nó là hành trang mới để người thơ hành hương đến giấc mơ, ở đó có những câu thơ rất hay, đầy cảm xúc
 
phải bước đến tận cùng bờ vực
tôi mới nhận ra trọn kiếp tro phai
chẳng còn gì ngoài một giấc mơ…
 
…Đừng đánh thức giấc mơ tôi
trong lúc ngửa mặt lên trời
hứng những giọt mưa đêm tháng Chạp
với hình ảnh duy nhất
là đôi mắt em
 
Và đó là Nhà Thơ Trịnh Y Thư, một phong cách thơ Trữ Tình Hiện Đại.
 
Còn nhà văn Trịnh Y Thư thì sao? Tôi đặc biệt yêu thích tiểu thuyết đầu tay Đường Về Thủy Phủ của anh. Một tựa đề rất thơ cho một cuốn sách có sự hiện diện của ba thập kỷ chiến tranh Việt Nam. Mặc dù theo Trịnh Y Thư nói, anh không viết về chiến tranh mà chỉ nói lên ấn tượng về chiến tranh cùng tội ác của nó trên thân phận con người, nhưng những ấn tượng ấy của tác giả liên quan đến những giai đoạn lịch sử với bộ mặt thật tàn bạo của nó mà người ta không thể tìm đọc được nơi những trang giáo khoa sử chính thống. Như một nhà sử học đã nói, để biết sự thật của lịch sử thời nào không gì đúng hơn là tìm hiểu những tác phẩm văn học nghệ thuật nói về thời đó. Và Đường Về Thủy Phủ là một dạng của văn chương ấy. Trịnh Y Thư có thái độ quyết liệt, không khoan nhượng với cái Ác, với dụng ý đánh động lòng trắc ẩn, lương tâm và nhân tính con người, cũng vì vậy mà anh không ngần ngại chọn bút pháp tả chân một cách bạo liệt, như trong cảnh xử tử một xác chết lính Pháp, cảnh thảm sát một ngôi làng 300 người H’Mông với lý do nghi có nội gián cho Pháp. Đọc tới đoạn này tôi phải gấp cuốn sách lại, ra ngoài hít thở và xoay sở với sự phẫn nộ đang chực vỡ cả người. Theo cảm xúc khi đọc tác phẩm này, tôi cho là Trịnh Y Thư đã thành công trong sự lựa chọn bút pháp cho mình.
 
Bên cạnh đó, chúng ta còn được tác giả cho thấy niềm tin của anh vào lòng biết ơn và sự ấm áp trong tình bạn, sự chân thật chung thủy trong tình yêu, và nhất là một niềm tin rất đông phương –nhân chi sơ tính bổn thiện – Anh tin vào bản tính lương thiện như một mầm có sẵn nơi con người, vấn đề là phải nuôi dưỡng và đem ra dùng trong những mối tương quan giao tiếp. Có được niềm tin, giữ được niềm tin và rao giảng niềm tin, là một dũng khí, dũng khí của một ngòi bút giúp ta sức mạnh để tin vào cuộc sống, với hy vọng và bao dung. Đó là Trịnh Y Thư, một nhà văn Hiện Thực Hiện Đại.
 
Xin chân thành cảm ơn quý vị.
 
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH 

Wednesday, December 3, 2025

PALESTINE. NHỮNG DÒNG THƠ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

Phan Tấn Hải

Chụp lại từ video đọc bài thơ “Nếu tôi phải chết” để tưởng niệm
nhà thơ Refaat Alareer (1979 - 2023). (Hình: YouTube)
 
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót.
Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được  nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụn, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm, rút dao, đâm kiếm để hoàn tất những cuộc thập tự chinh, hay đi chiếm đất từ Á sang Âu, từ Nam ra Bắc. Các thương binh thời đó không được chữa trị, vì cũng chẳng có bác sĩ quân y nào, phải nằm chờ chết nơi ven rừng, góc biển. Bây giờ thì chiến tranh dữ dội hơn, phần lớn là chết liền, chết chớp nhoáng, và kể cả chết mà chẳng hiểu vì sao.
Hãy đọc những dòng này của Mosab Abu Toha, một nhà thơ Palestine 33 tuổi, khi anh kể về một cái chết ở Gaza:
 
Chị ngủ trên giường,
không bao giờ thức dậy nữa.
Giường của chị đã trở thành nấm mồ của chị,
một nấm mồ bên dưới trần phòng,
trần nhà, một đài tưởng niệm.
Không tên, không năm sinh,
không năm chết, không bia mộ.
Chỉ có máu và một khung ảnh bị vỡ
kế bên chị.
 
Nhà thơ Mosab Abu Toha là một người Palestine sinh trưởng trong rào kẽm gai và các nhà lều tỵ nạn ở Gaza. Năm 2014, nhà thơ Mosab Abu Toha đã được truyền cảm hứng từ một cuốn sách mà anh cứu được từ đống đổ nát để thành lập Thư viện Công cộng Edward Said tại Thành phố Beit Lahia, thư viện tiếng Anh đầu tiên của Gaza. Học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky đã ca ngợi thư viện là "một tia sáng và hy vọng hiếm hoi cho những người trẻ tuổi ở Gaza". Abu Toha ước mơ qua thư viện và thi ca sẽ kể lại những ước mơ hạnh phúc với những người dân Gaza khác trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm dưới sự chiếm đóng của Israel, cũng như những trở ngại mà anh phải đối mặt trong việc tiếp cận các nguồn lực, từ sách vở đến nhà cửa. Abu Toha là nhà thơ thế hệ trẻ. Trước anh, đã có những nhà thơ Palestine khác đã bị quân đội Israel giết.

Nhà thơ Mosab Abu Toha cứu được 1 cuốn sách
từ gạch vụn Gaza năm 2014
 
Trong các bài thơ mà bom đạn Israel muốn xóa sổ, có những dòng thơ của Refaat Alareer (1979 - 2023) về lời dặn dò người sống sót rằng khi anh chết đi (và vài tuần sau khi làm bài thơ này, anh và gia đình cùng chết vì bom Israel tại Gaza) thì hãy tìm vải để may lại, làm một chiếc diều cho trẻ em Palestine sau này nhìn lên bầu trời sẽ vẫn nhìn thấy chiếc diều hy vọng của dân tộc. Bài thơ có tên là "Nếu tôi phải chết" ("If I must die") của Refaat Alareer như sau:
 
Nếu tôi phải chết,
bạn phải sống
để kể câu chuyện của tôi
để bán đồ đạc của tôi
để mua một mảnh vải
và vài sợi dây,
(chọn vài trắng rồi kết một cái đuôi dài)
để một đứa trẻ, ở đâu đó tại Gaza
khi nhìn lên bầu trời trong mắt
chờ đợi người cha đã ra đi trong biển lửa
--– và không nói lời từ biệt với bất kỳ ai
kể cả với xác thịt của cha
kể cả với chính lòng cha –--
nhìn thấy con diều, con diều bạn làm, bay lên trên cao
và thoáng nghĩ rằng có một thiên thần ở đó
mang lại tình yêu
Nếu tôi phải chết
hãy để cái chết mang lại hy vọng
hãy để nó là một câu chuyện.
.
Thơ viết như tiền định, vì 5 tuần lễ sau, nhà thơ chết vì bom Israel. Refaat Alareer là một nhà văn, nhà thơ, dịch giả, giáo sư đại học và nhà hoạt động người Palestine đến từ Dải Gaza, nơi bị quân Israel chiếm đóng. Vào ngày 6 tháng 12/2023, nhà thơ Alareer đã bị giết trong một trận bom của Israel cùng với anh trai, chị gái và 4 người con của anh chị trong cuộc bao vây diệt chủng đang diễn ra của Israel tại Gaza năm 2023.
Chỉ năm tuần trước khi bị giết, anh đã phóng lên mạng bài thơ có tựa đề "Nếu tôi phải chết" và ghim nó lên trang Twitter cá nhân. Giữa dòng người đau buồn, khi tin về cái chết của  lan truyền trên mạng, nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đã bày tỏ lòng kính trọng đối với Refaat bằng cách cung cấp bản dịch bài thơ tiên tri của ông sang ngôn ngữ địa phương của họ.
Sau cái chết của Alareer, bài thơ "If I Must Die" đã lan truyền nhanh chóng, đạt hơn 33 triệu lượt xem chỉ riêng trên Twitter và được dịch sang hơn 100 ngôn ngữ. Bài thơ đã được đọc công khai tại các buổi cầu nguyện, biểu tình và các buổi tụ họp nghệ thuật trên khắp thế giới. Bài thơ được coi là một ví dụ điển hình về văn học đòi tự do của một dân tộc, vang vọng vượt ra ngoài bối cảnh của Gaza và đóng góp vào các cuộc đối thoại xuyên quốc gia về sự phản kháng và bất công.
Bài thơ vừa là một tác phẩm văn học vừa là một hiện vật văn hóa của sự phản kháng. Nó gói gọn nỗi đau buồn, sự bất khuất và niềm hy vọng bền bỉ của một dân tộc đang bị bao vây. Bài thơ tiếp tục ảnh hưởng đến các cuộc thảo luận toàn cầu về công lý, ký ức và sức mạnh của việc kể chuyện.
Bài thơ “Nếu tôi phải chết” được đọc trên YouTube, một video ngắn 1:36 phút:
Alareer sinh ra tại Thành phố Gaza vào năm 1979 trong thời kỳ Israel chiếm đóng Dải Gaza, điều mà anh cho rằng đã ảnh hưởng tiêu cực đến mọi hành động và quyết định của anh. Alareer lấy bằng Cử nhân tiếng Anh năm 2001 tại Đại học Hồi giáo Gaza (Islamic University of Gaza) và bằng Thạc sĩ tại Đại học College London năm 2007. Anh lấy bằng Tiến sĩ Văn học Anh tại Đại học Putra Malaysia năm 2017 với luận án về John Donne. Anh dạy văn học và sáng tác tại Đại học Hồi giáo Gaza và đồng sáng lập tổ chức We Are Not Numbers, một tổ chức kết nối các tác giả giàu kinh nghiệm với các nhà văn trẻ ở Gaza, đồng thời thúc đẩy sức mạnh của việc kể chuyện như một phương tiện kháng cự của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel.
 
Nhà thơ Refaat Alareer (1979 - 2023) và thi tập "If I Must Die".
 
Tờ báo Euro-Med Monitor đã đưa ra một tuyên bố cho biết nhà thơ Alareer đã bị nhắm mục tiêu, dội bom cố sát, "bị đánh bom theo mục tiêu xóa sổ toàn bộ tòa nhà", và diễn ra sau nhiều tuần lễ "nhà thơ Refaat nhận được những lời đe dọa giết người trực tuyến và qua điện thoại từ các tài khoản Israel".
Hơn một năm sau, vào ngày 26 tháng 4 năm 2024, con gái lớn và đứa cháu mới sinh của Alareer cũng bị giết trong một cuộc không kích của Israel vào ngôi nhà của họ ở Thành phố Gaza. Alareer và vợ có sáu người con. Anh trai ông, Hamada, cùng với ông nội, anh trai, chị gái và ba cháu gái của vợ ông, Nusayba, đã chết trong Chiến tranh Gaza năm 2014 do một chiến dịch ném bom của Israel. Tổng cộng, Israel đã giết chết hơn 30 người thân của Alareer và vợ. Trong cuộc khủng hoảng Israel-Palestine năm 2021, Alareer đã viết một bài bình luận trên tờ The New York Times mô tả những ảnh hưởng của cuộc chiến đối với các con ông. Anh là một tình nguyện viên của Sở thú Gaza, và tiếp tục công việc này trong suốt cuộc chiến ở Gaza.
Nói về cái chết của nhà thơ Alareer, người sáng lập Tổ chức Giám sát Nhân quyền Euro-Mediterranean, Ramy Abdu, tuyên bố rằng quân đội Israel đã "nhắm mục tiêu, truy đuổi và giết chết tiếng nói của Gaza, một trong những học giả xuất sắc nhất, một con người, người bạn thân thiết và quý báu của tôi."
Nhà thơ Najwan Darwish nói với tờ The Guardian rằng Alareer là "một tiếng nói có sức ảnh hưởng", đồng thời nói thêm: "Chúng ta không chỉ mất Alareer, mà còn mất cả thơ ca của ông; tất cả đều nằm dưới đống đổ nát, tất cả những bài thơ tương lai mà ông sẽ viết. Và tất cả những nghệ sĩ đã bị giết hại... điều gì đã xảy ra với nghệ thuật của họ?"
Trong khi đó, nhà thơ Mosab Abu Toha (người mà chúng ta trích thơ từ đầu bài) viết: "Trái tim tôi tan nát, người bạn và đồng nghiệp của tôi, Refaat Alareer, đã bị giết cùng gia đình."
Bài thơ "Hỡi Đất Mẹ" (O, Earth) của Alareer viết vào tháng 1/2012 cũng là một ám ảnh tiền định về cái chết của anh trên đất mẹ Palestine, như dường anh có thể làm cho đất mẹ bớt đau khổ, trong khi anh tự biết anh không phải là chiến binh. Bài thơ như sau:
 
Hỡi Đất Mẹ
Hãy ôm tôi
Và hãy giữ chặt tôi
Hoặc nuốt chửng tôi
Để không còn đau khổ nữa.
Tôi yêu người
Vậy hãy mang tôi đi.
Hãy làm tôi giàu có.
Hãy làm tôi thành bụi đất.
Những ngày tháng tịch lặng đã qua rồi.
Súng đạn là ngôn từ của nhân loại.
Tôi chẳng có thực phẩm gì ngoài cái gai,
Chẳng có môn thể thao nào ngoài tiếng thở dài.
Bởi một người lính cần cảm thấy phấn chấn.
Hỡi Đất Mẹ,
Nếu trong đời, tôi sẽ phải bị thương tích
Hãy để bụi đất thân tôi trong đất mẹ sinh sôi.
Hỡi Đất Mẹ.
.
Bài thơ sau đây là viết cho người lính Do Thái, nhắc rằng 70 năm trước dân tộc Israel của các anh đã bị đàn áp như bây giờ các anh đàn áp dân tộc Palestine chúng tôi, Bài thơ "Tôi là anh" (I am You) của Refaat Alareer viết:
.
…Hãy nhìn vào gương:
Kinh hoàng, kinh hoàng!
Báng súng M-16 của anh nện trên gò má tôi
Vết vàng nó để lại
Vết sẹo hình viên đạn lan rộng
Như chữ vạn phát xít,
In lằn trên mặt tôi,
Nỗi đau trong tim tuôn trào
Từ đôi mắt tôi nhỏ giọt
Từ lỗ mũi tôi xuyên thủng
Tai tôi ù đi
Nơi này.
Như nó đã từng với bạn
70 năm trước
Hay khoảng đó.
.
Bài thơ sau đây có nhan đề "Mẹ" (Mom), viết năm 2012, nhà thơ Refaat Alareer viết:
 
Mẹ
Trên khuôn mặt mẹ
Có một cuốn sách
Và lời tựa của cuộc đời.
Giữa những dòng chữ này
và trong hai hang động này
Đời sống ngự trị.
Dòng chữ kia là hy vọng.
Dòng chữ kia là yêu thương.
Cái chết đó
Khi mẹ mỉm cười,
Mẹ trao hy vọng,
Mẹ trao tình yêu
Mẹ trao sự sống,
Cho cuộc đời.
.
Sau khi nhà thơ Alareer bị giết, chiếc diều thi ca của dân tộc Palestine vẫn đang bay lơ lửng trên các dòng chữ của các nhà thơ còn sống sót. Trong đó, nổi bật có nhà thơ Mosab Abu Toha, người sinh ngày 17 tháng 11/1992 trong trại tỵ nạn Al-Shati ở Bắc Gaza. Toba tốt nghiệp bộ môn văn học tiếng Anh tại Đại học Hồi giáo Gaza. Năm 2017, anh thành lập Thư viện Edward Said, một thư viện công cộng tiếng Anh tại Beit Lahia, và chi nhánh thứ hai của thư viện này đã được mở tại Thành phố Gaza vào năm 2019.
Năm 2023, Abu Toha tốt nghiệp Đại học Syracuse (New York) với bằng Thạc sĩ Mỹ thuật chuyên ngành Sáng tác văn học. Nhà thơ Mosab Abu Toha đã bị quân đội Israel bắt giữ vào tháng 11/2023 khi đang cố gắng chạy trốn sang Ai Cập cùng gia đình. Sau đó, anh được thả sau khi bị thẩm vấn và kể từ đó làm việc như một người ghi chép về cuộc chiến từ xa. Anh đã được Giải thưởng Pulitzer cho Bình luận năm 2025 cho bài viết về cuộc chiến ở Gaza trên tờ The New Yorker.
Nhà thơ Mosab Abu Toha đã viết về sự mong manh của cuộc sống dưới sự bao vây của Israel làm chủ đề cho các tác phẩm của mình, nhấn mạnh những hành động nhỏ bé, bất chấp sự tàn phá để sống. Ngôi nhà của anh bị dội bom và người thân của anh đã chết. Nhà thơ – người đã được vinh danh với Giải thưởng Pulitzer năm 2025 – đã trở thành người sống sót sau chính sự tàn phá mà anh đã mô tả từ lâu.
Giờ đây, câu chuyện về Abu Toha và hành trình của anh từ Gaza đến Mỹ, cùng với gia đình, đang được kể lại trên màn ảnh. Một bộ phim tài liệu dài 24 phút do TRT World sản xuất hiện đang được trình chiếu tại các liên hoan phim, mang đến cái nhìn sâu sắc hơn về tác động của cuộc chiến tranh Israel lên Gaza và việc chia sẻ đau khổ có thể giúp xoa dịu nỗi đau như thế nào. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu từ tháng 10/2023 tới giờ, Israel đã giết chết gần 69.000 người Palestine ở Gaza, hầu hết là phụ nữ và trẻ em. Sau đây là một bài thơ, nhan đề "Không đề" (Untitled) của Mosab Abu Toha viết về các trận bom Gaza đã thổi đủ thứ màu của máu, bùn, đất lên các bức tường còn sót lại các tranh vẽ trẻ em:
Một người cha thức dậy vào ban đêm, nhìn thấy
các màu sắc ngẫu nhiên trên tường
do cậu con trai bốn tuổi vẽ.
Nhưng cậu bé đã chết sau một trận bom.
 
Các màu sắc này cao khoảng 1,2 mét.
Năm sau, chúng sẽ cao khoảng 1,5 mét hoặc 1,6 mét.
Nhưng người vẽ đã mất và
bảo tàng không có tranh mới nào
để trưng bày.
.
Vậy thì, sống sót như thế nào? Hãy như một cánh hồng, đó là cách dân tộc Palestine sống còn. Bài thơ ngắn nhan đề "Một bông hồng vươn vai" (A Rose Shoulders Up) của Abu Toha viết:
Đừng bao giờ ngạc nhiên
khi thấy một bông hồng vươn vai
giữa đống đổ nát của ngôi nhà:
Đây là cách chúng tôi sống sót.
 
Sau đây là bài thơ nhan đề "Hãy ghi nhớ giấc mơ của bạn" (Memorize Your Dream) của Mosab Abu Toha, có nhiều ngắt đoạn, như các giấc mơ rời trong đêm:
Hãy nhắm mắt lại
hãy bước đi trên đại dương.
 
Hãy nhúng tay
vào nước
bắt lấy những lời thơ của bạn.
 
Hãy viết lời thơ lên
những đám mây.
Đừng lo, chúng sẽ tìm thấy
đất của chúng.
 
Hãy mở mắt của bạn ra.
Trong đêm,
biển không còn xanh nữa.
 
Hãy nhìn xung quanh và từ
những giọt mưa đang rơi
hãy nhặt những dấu chấm câu.
 
Hãy mặc đồ bơi,
hãy lặn sâu xuống
và tìm một nhan đề
cho thiên sử thi của bạn.
 
Hãy dấn thân
về quê hương đang chuyển động—
con thuyền của bạn.
 
Hãy lên giường
và, trong giấc ngủ,
hãy bắt đầu ghi nhớ
giấc mơ của bạn.
 
Chúng ta không thể đoán rằng dân tộc Palestine sẽ có thể thoát nạn đô hộ để trở thành một quốc gia độc lập hay không. Thậm chí cũng không thể biết bao giờ thực sự sẽ có hòa bình nơi những phần đất còn lại của họ, trong đó Gaza đã gần như là gạch vụn hoàn toàn. Khi nhà thơ Refaat Alareer hy vọng cái chết của anh sẽ trở thành chiếc diều cho các thế hệ trẻ em tương lai nhìn lên, giữ hy vọng cho ngày độc lập, nhà thơ Mosab Abu Toha của thế hệ kế tiếp đã kêu gọi dân tộc Palestine nhìn lên mây, hãy lặn ra biển, và hãy ghép chữ từ giấc mơ để sẽ làm thành chiếc thuyền chuyển động quê hương.
Đời người quá ngắn, tình yêu thương quê hương lại rộng vô bờ. Nhưng đời họ đã trở thành những dòng thơ không bao giờ chết. Bạn hãy ngẩng đầu nhìn lên mây để dò xem chiếc diều của nhà thơ Refaat Alareer đã bay tới đâu. Và bạn hãy nhìn xa ra biển để ngó xem bài thơ đang ghép chữ của Mosab Abu Toha đang lơ lửng nơi nào trong giấc mơ của anh. Phải chăng, hạnh phúc không bao giờ nắm được trong tay, mà phải nhìn lên mây và ngó ra biển?
 PTH 

Monday, December 1, 2025

M Ũ I N H Ọ N

Hoàng Xuân Sơn
 
Tranh Tào Linh
 
Tôi quá dữ
Tôi yêu em
Khi không đất sét dận thềm hoa cương
Đôi giày da
Cứng
Hay mềm
Bất chấp bảy dặm mười thiên hẹn hò
Giở đi em
Lật
Từng tờ
Gió xanh thổi nhẹ vào tơ tóc này
Ừ. thoảng qua là heo may
Sao không độ lượng bề dày thi thư
Thơ tôi bài toán loại trừ
Em cứ phân loại tàn dư tuyệt tình
Đáy cốc nào
Chẳng vô hình
Thủy tinh vỡ. vụn . cây đinh. mũi chiều
 
)(
H O À N G X U Â N S Ơ N
23 novembre 2025
@sanjose.losgatos