Sunday, August 31, 2025

THÁNH CA. NGUYỄN TÔN NHAN

Đôi lời ghi lại của Nguyễn Tôn Nhan

… Năm 1967, nhờ cơ duyên hiếm có, tôi được in miễn phí tập thơ Thánh Ca ở một nhà in nhỏ (chỉ có 2 máy pedal) nằm trong con hẻm Trần Kế Xương, Phú Nhuận. Lúc đó còn đi học và ăn bám cha mẹ, không một xu dính túi. Tập thơ in đúng 100 bản. Hăm hở ôm chồng sách lên xe buýt đến nhà sách Khai Trí ký gửi, nhưng chỉ được nhận dùm cho 20 cuốn, còn lại đem về quăng lăn lóc nên mối mọt (chắc cũng yêu thơ?!) ăn hết, đến sau 1975 coi như chẳng còn cuốn nào.
.
Mới đây, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã đưa trọn vẹn Thánh Ca lên trang Tiền Vệ (tienve.org). Tôi hết sức bất ngờ và bàng hoàng cảm động. Rất cảm ơn nhà thơ còn lưu giữ chút cuồng điên tuổi trẻ của tôi. Có thể nói thời tuổi trẻ của tôi, và của cả nền thi ca miền Nam trước 1975, sao mà bát ngát - cuồng si - thơ mộng - tự do - phóng đãng - tràn đầy sáng tạo đến vậy!
NTN

*Nguồn: Trang Thư Hương

Saturday, August 30, 2025

SÁCH MỚI CỦA ĐẶNG MAI LAN

 

Nốt Cuối Một Hợp Âm
 
Sách mi ca Đặng Mai Lan là mt truyn dài.
Tác gi đang nhun sc li mt vài ch ri s xut bn.
Bn hu ch
xem nha.

 

Friday, August 22, 2025

ĐỌC ‘THƠ NGUYỄN XUÂN THIỆP’

Việt Phương
 
NXT & Việt Phương

Hư Ngôn Mùa Đông
 
Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp
Quê quán ở Huế
Làm thơ đăng báo từ trước năm 1954
Học ở Huế và Sài Gòn
Dạy học ở Mỹ Tho, nhập ngũ 1963, làm phát thanh
Quân đội ở Pleiku, Đà Lạt, Sài Gòn.
Tháng 5, 1975 đi tù chế độ cộng sản tới 1982
1995 sang Mỹ - in thơ ở văn học, Thế kỷ 21, Hợp Lưu, Văn…
Chủ biên tạp chí Phố Văn từ 2000-2008
Hiện định cư cùng gia đình ở Dallas, Texas, làm việc với báo Trẻ.
 
Đó là tiểu sử ông cho in rất ngắn gọn sau bìa sách. Tác phẩm của ông gồm:
Tôi cùng gió mùa, (nhà Văn Học, Cali, 1998))
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp, (phố Văn, 2012)
Tản mạn bên tách cà phê, (tạp bút, Trẻ, 2012)

Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như những bức tranh siêu thực với màu sắc táo bạo. Trong những bức tranh (thơ) đó, đa số, ông dùng màu nóng (đỏ, vàng, vàng nâu).
Mỗi lời thơ là một nhát cọ mạnh, gọn và dứt khoát trên canvas, để lại ấn tượng sâu sắc:
“bạn vẽ
mảnh trăng
như chim
chết treo đầu ngọn khô
những bóng người. những vệt màu vàng
cầm đèn. đi trong mưa”
(Trong Garage Đinh Cường, tr. 103)
 
Hoặc
“rạng đông. mặt trời bị treo cổ. trên bức tường nhà
hát lớn”
(Chiều Qua Ngõ Blues, tr.152)
Những câu thơ gẫy gọn, mang đầy hình ảnh, làm ta liên tưởng đến những bài thơ Haiku của Masaoka Shiki (1867-1902).
“Hanging a lantern
On a blossoming bough, -
What pains I took!”
(Treo lồng đèn
Trên cành cây trổ hoa,-
Nỗi đau này tôi hái!)
Việt Phương dịch từ bản tiếng Anh trong cuốn “Silent Flowers” (Dorothy Price, Hallmark Card. Inc. xuất bản tại Hoa Kỳ 1967).
Thơ ông, với lối ngắt câu và không khí trong thơ có lúc mang hơi hướm của nhà thơ người Chile, Pablo Neruda (1904-1973), Nobel văn chương năm 1971:
“Pure wisdom
of someone who knows nothing,
and suddenly I saw
the heavens
unfastened
anh open”
(Memorial de Isla Negra, 1964)
Trans. Alastair Reid
(Trong trí tinh khôi
của một người không biết gì hết,
và Tôi bất ngờ thấy
thiên đàng
buông xả
và rộng mở)
Việt Phương dịch
Thơ ông còn nhuốm màu triết lý hiện sinh mà theo Jean-Paul Sartre trong bài viết “L’existentialisme est un humanisme”
(Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản)
Thuyết hiện sinh đã tràn vào miền Nam Việt Nam trước 1975, với những cuốn sách của Albert Camus (1913-1960, Nobel văn chương 1957), được dịch ra tiếng Việt, thấm vào tư tưởng của những người trí thức miền Nam mà trong đó có ông. (Thi sĩ Bùi Giáng là người đã dịch nhiều nhất tác phẩm của Albert Camus thời gian đó, 7 cuốn):
“cơn bão một thời. thổi qua đất nước. thổi qua
thanh xuân. cũng đã ngừng im
mừng chúng ta còn sống sót “
(Bài Ngợi Ca
Trước Bình Minh, tr. 53)
Không một lời than van. Nhưng đọc những câu thơ trên, chúng ta bỗng thấy buồn. Nó như một tiếng thở dài. Rất khẽ.
“ôi. măng đầu mùa. như trăng. sao chẳng ngọt
mà đường về. hoa ác. đong đưa
thế kỷ. người cày những cánh đồng chết
người đuổi người. đi về biển xa”
(Tâm Khúc Cho Một Nhà Văn, tr. 58-59)
Ông viết về những người Việt, bạn bè lưu vong như những người Pilgrims từ England trên chiếc tàu Mayflower đi tìm Tân Thế Giới, tấp vào Cape Cod, Massachusetts năm 1620, nhân một chuyến viếng thăm bạn bè ở thành phố Boston, thuộc tiểu bang này:
“này anh em. bạn bè
chúng ta đã đi hết biển
qua các đại dương. và châu lục
không về lại mái đình xưa
bá ngọ
thời của quỷ
ngói lở. cột xiêu. sen tàn. mùa hạ chết
để gặp nhau đây. điểm hẹn boston
con tàu may flower. bắc qua thế kỷ. ký ức của
tiếng sóng bờ xa”
(Chào Boston. Chào Bạn Bè. Tr. 61)
Thơ ông chuyên chở một màu vàng rực rỡ dưới ánh hoàng hôn. Hoa dã quỳ vàng được ông dùng rất nhiều lần trong thơ. Ông vẽ lại bức tranh của danh họa Van Gogh với những nét chấm phá siêu thực:
 “bỗng gặp. bức tranh. van gogh
crows over the wheatfield
những cánh quạ trên đồng lúa
vàng dã quỳ
màu nắng. điên
em. làm sao tìm lại được giấc mơ. trong mắt loài
chim dữ”
(Crows Over The Wheatfield, tr. 187)
Thỉnh thoảng, ông có xen vào vài bài thơ ngũ ngôn phá cách đầy tính sáng tạo:
“anh đi trên mái nhà
anh đi. lá thông khô
đã đầy trong màu nắng
anh chết tự bao giờ
mà hồn bay vàng phố
mà về theo gió đưa
dấu chân in lá cỏ
của những mùa hè qua
anh chết. hồn dã quỳ
chắc bây giờ thấy nhớ”
(Nhặt Trái Thông Khô, tr. 33)
Thơ ông, với những dấu chấm. Thảng thốt. Đôi khi như ánh mặt trời chìm trong mặt hồ tĩnh lặng. Tạo ra tiếng vô âm. Tiếng lòng. Nhưng khẽ khàng. Khoáy động trong tim.
“em đứng. giữa rừng hoa dã quỳ. đỏ
tưởng niệm tôi
xin đừng khóc
ngày đã tàn. và ngày sắp rơi
cô bé đi vớt mặt trời
không về nữa…”
(Dã Quỳ Đỏ, tr.69)
Thơ ông như một cuốn phim noir với quá khứ và hiện tại lẫn lộn. Nhiều flashback tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ:
“gọi em dậy
từ chiêm bao
rạng rỡ
con bướm. đậu trên đầu cán cuốc
của người tù
đã bay đi về cõi không màu
và. vầng trăng đã đi qua bãi mía “
(Gọi Em Dậy. Tr. 72-73)
Hoặc:
“chiều nay
tôi đi
những cây myrtle vật vã trong mưa
bên kia con lạch. dòng xe cộ vẫn nối đuôi nhau
một chiếc xe buýt vừa dừng lại
dường như chiếc buýt đã chạy không ngừng. từ thanh xuân tôi ở ngã tư phú nhuận”
(Ngày Cây Xuống Tóc. Tà Huy, tr.164)
Thấp thoáng trong thơ ông những địa danh tôi từng đi qua. Những nhân danh tôi từng biết đến. Nó đưa tôi về những lối xưa, với những bước chân quen, tạo một sự cộng hưởng. Một sự rung động. Của một bản giao hưởng mà cường độ âm thanh đã hòa vào nhau, với cùng một thẩm âm.
Thơ ông cũng dắt tôi về lại những cánh đồng dã quỳ vàng và bầu trời rạng vỡ, với những cánh chim đã bay đi. Bằn bặt.
 
VIỆT PHƯƠNG
Nửa đêm thức giấc
8/21/2025
 
Hư Ngôn. Mùa Đông
Thơ: Nguyễn Xuân Thiệp
Nhạc: Việt Phương
Trình bày: Cao Huy Thế
https://youtu.be/gbBhZUnnjYA?si=3fmOQRg0oơm0LD6
 
Hư Ngôn Mùa Đông
https://www.youtube.com/watch?v=gbBhZUnnjYA
  

ĐỖ NGỌC YẾN VÀ NHẬT BÁO NGƯỜI VIỆT

Phan Thanh Tâm
 
 

 Tờ Người Việt (NV) dựa vào đâu để tự quảng cáo “Hãy đến với  Nhật Báo Người Việt tờ báo Việt Ngữ lớn nhất được cộng đồng tín nhiệm trên 40 năm ”? Đọc cuốn Đỗ Ngọc Yến Giữa Bạn Bè, dày 500 trang, “một tác phẩm để đời”, tập họp năm muơi tám (58) bài viết thì sẽ rõ cội nguồn tại sao báo này đã có thể  đăng ra như vậy và sẽ biết thêm tờ NV đã được  gầy dựng ra sao từ năm 1978 cho đến nay. Sách nói về hình ảnh “một người không quen biết thì có lẽ cũng muốn được biết” - trích Lời Nói Đầu của cuốn sách – về vị sáng lập nhật báo NV.
Tác giả 58 bài là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, nhà binh thuộc mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo, thời Việt Nam Cọng Hoà (VNCH). Họ là bạn trong trường đời, trường học với người khởi xướng báo NV. Đỗ Ngọc Yến linh hồn tờ NV có tên thánh Reni sinh năm 1941 tại Saigon qua đời ngày 24/07/2006 vì bệnh tiểu đường và thận. Nhà báo họ Đỗ chính kiến thế nào, thuộc đảng Cọng Hoà, Dân Chủ, độc lập, trung dung, hay cọng sản Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ, nằm vùng, gián điệp cho Tây, cho xịa, cho Nga?
 Tuyển tập cho người đọc thấy được cung cách, chân dung anh chàng họ Đỗ, được mô tả dưới nhiều góc cạnh, từ học sinh, sinh viên cho đến những năm làm báo ở Việt Nam và hải ngọại. Ngoài ra, qua 58 bài viết, người đọc sẽ thấy thêm về phong cách và ý hướng của các tác gỉa - hay của thế hệ VNCH - trước năm 1975. Trong bài “Đỗ Ngoc Yến là ai?”, báo Saigon Giải Phóng đã tố cáo Đỗ Ngọc Yến là sản phẩm của tình báo Mỹ. Y đã có nhiều thành tích chống phá cách mạng. Sau 1975, an ninh thành phố lục tìm khắp nơi, kẻ đã núp ẩn dưới chiêu bài hoạt động thanh niên sinh viên ngăn cản bước tiến của đảng và nhân dân Việt Nam.
 Trong khi đó ở hải ngoại, một số người quốc gia đổ riết Đỗ Ngọc Yến là cọng sản nằm vùng. Nhiều cuộc biểu tình quấy phá diễn ra trước toà báo ở đường Moran. Bản thân anh bị hăm dọa nhiều lần. Tuyển tập còn cho biết Đỗ Ngọc Yến đi qua Mỹ nhờ ai?  Mỹ đưa đi? Xia không có xiá vô chuyện này như lời đồn đãi mà chỉ là sự tình cờ. Số là Đỗ Quí Toàn có người bạn cũ trong Tân Sơn Nhứt cho biết có thể ghi tên thêm một gia đình đi Mỹ vô danh sách vì còn chỗ trống. Đỗ Quí Toàn mới nhờ Đỗ Việt Anh chở đến nhà Đỗ Ngọc Yến rũ  đi Mỹ.

Có nhiều biệt danh
Vốn là kẻ thích đi xa tìm chốn lạ, Đỗ NgọcYến mới ừ “đi thì đi.” Chàng ta mới hối vợ con thu xếp khăn gói lên đường. Chạy đôn chạy đáo đổi được 80 đô. Nếu đến nhà Yến trễ năm ba phút thì Yến đã ra đường đi uống cà phê với bạn rồi, vì có hẹn trước, thì ngày nay chẳng có tờ NV. Sinh ra trong một gia đình tương đối khá giả buôn bán hoa cườm cho các đám tang tại đường Bùi Thị Xuân Saigon, Đỗ Ngọc Yến thường chi cho các bạn trong các dip cùng đi đây đi đó.  Anh có nhiều biệt danh.
Qua các biệt danh người đọc có thể hình dung được Đỗ Ngọc Yến: một người bí ẩn, một người biết quá nhiều, người của phố Little Saigon, một từ điển sống, con mọt sách, ông vua không ngôi, hiêp sĩ mù, người tròn như hòn bi, người phóng lao, người sinh hoạt học đường, ông chủ báo, my hero, biệt kích cầm bút, người đáng nễ, một ngưòi tranh đấu, Đỗ Chưởng Môn. Sở dĩ Đỗ Ngọc Yến có nhiều tên gọi như vậy là vì anh đã thấm nhuần tinh thần hướng đạo từ hồi trẻ. Hễ thấy ai cần điều gì hay đang gặp khó khăn mà có thể phụ được thì anh nhào vô hỗ trợ ngay.
 Tinh thần này nằm trong 10 điều luật, ba lời hứa của tổ chức nói trên. Chẳng hạn như trọng danh dự, giữ lòng trung tín, chu toàn trách nhiệm. Nơi nào có ba người thì thế nào cũng có anh ta. Đỗ Ngọc Yến thích giao du, đàn đúm. Anh không ngần ngại chia xẻ vật chất mình có với thân hữu. Quần áo vợ con mua cho, anh cũng đem tặng luôn cho bạn. Cái nghiệp làm báo đến với Đỗ Ngọc Yến rất sớm. Vì sao? Có lẽ vì bẩm sinh anh ta đã có ý hướng làm báo từ thuở nhỏ. Đỗ Ngọc Yến rất tò mò. Cái gì cũng muốn nghe, muốn biết, muốn đọc, nhất là những sách về triết và lịch sử; thích giang hồ vặt, lang thang đây đó, có bộ nhớ rất tốt và là người có tầm nhìn về tương lai của báo NV hơn hẳn anh em làm việc trong tòa báo.    
Mớí 16,17 tuổi ở trường Trung học Petrus Ký  vào dịp sắp nghỉ hè, Đỗ Ngọc Yến đã gợi ý mỗi bạn viết một bài rồi đóng thành một tập gọi là báo Chuyền để làm kỷ niệm. Năm đệ nhị trường ra tờ báo xuân. Đỗ Ngọc Yến được cử làm trưởng ban báo chí. Báo vừa xong thì anh bị kêu ra toà vì năm trước anh có tham gia một cuộc biểu tình chống Bộ Giáo Dục. Bộ buộc học sinh muốn lên lớp đệ nhị cấp phải có bằng Trung học đệ nhất Cấp. Tòa không kêu án nhưng anh bị đuổi khỏi trường. Điều này cho thấy anh chàng họ Đỗ hồi trẻ thời Trung học ngoài cái máu báo bổ còn hay dính vào các sinh hoạt xã hội nữa.

Làng báo trước năm 1978
Ngoài ra, tuyển tập còn giúp độc giả biết NV đã hình thành ra sao? Tòa soạn nằm trong garage. Số đầu tiên ngày 15/10/78. Xuất bản hàng tuần với số in chi có một ngàn. Lúc bấy giờ ở Cali làng báo loạn cào cào. Có cả hơn 100 tờ. Báo nào sống báo nào chết nào ai hay biết. Để vươn lên các báo đánh nhau chí choé. Báo nhiều như các vì sao trên trời. Tờ này chết thì tờ khác nhào ra thế chỗ. Có tờ chỉ mới ra một số rồi tịch luôn. Hàng trăm cuộc bút chiến đã xảy ra giữa ký giả và ký thiệt. Nguyên nhân phần lớn chỉ vì hiềm kích cá nhân và đường lối chống cọng khác nhau.
Tờ NV dù bị tấn công nhiều lần vẫn lặng lẽ đứng ngoài vòng. Theo nhà báo Đỗ Ngọc Yên tờ báo chỉ để thông tin dù tin tốt hay xấu. Nếu tin đáng nghe, đáng biết thì phải loan tải. Tất cả chỉ để phục vụ cộng đồng chớ không phải để khích tướng, khoe mẽ, theo bè, theo cánh. NV không theo con nào hết, con voi hay con lừa, màu đỏ hay xanh, đạo này, đạo kia; hoặc bênh ông này, bỏ bà nọ. Tin tức đưa ra phải khách quan, trung thực, đầy đủ và công bằng. Bình luận phải xác đáng, không thiên vị. Nếu có sai trật hay sơ sót thì phải đính chánh ngay. Ký giả Đỗ Ngọc Yến ngại nhất là mất đi sự tín nhiệm của độc giả. 
Chính nhờ được tín nhiệm mà đến năm 2018 theo số “Kỷ Niệm 40 Năm Hành Trình Với Cô.ng Đồng 1978 - 2018”, tờ NV - sau khi đã trải qua những cơn sóng gió vì sơ suất - “đã thành một diễn đàn với mấy trăm ngàn độc giả khắp thế giới. Số người vào Người Việt online đã lên trên 60,000 trong một ngày”.  Số độc giả đông nhất sống ở Mỹ, sau đó là độc giả ở Việt Nam dù chánh quyền trong nước tìm cách ngăn cặn bằng tường lửa. Nhân sự ban nội dung đông đảo trên 50 người, chuyên lo cung cấp món ăn tinh thần cho cộng đồng. Nhờ vậy NV tồn tại và phát triển cho tới ngày nay.
Sự tín nhiệm của độc giả đã khiến NV trở thành một “chợ nổi. Mỗi ngày có 1,800 tới 2,000 mục mua bán đăng trên Rao Vặt, từ mua bán xe, cho thuê nhà,  nhận sửa điện, sửa ống nườc, cho tới tìm việc làm, tuyển người chuyên môn. NV đã là nơi quần tụ của người Việt nhập cư. Vừa là diễn đàn thông tin vừa là nơi trao đổi tâm tình. Nhà báo Nguyễn Tuyển, qua bài “ Vậy Mà Đã 40 Năm” trong số kỷ niệm năm 2018 đã viết, “ Nhìn tờ Người Việt ban đầu và những số báo Người Việt bây giờ, từ nội dung đến hình thức đã có sự khác biệt một trời một vực. Bốn mươi năm trôi qua. Tôi cứ như người nằm mơ”.

Tín nhiệm của độc giả
Để có giấc mơ trên, NV đã phải trải qua nhiều năm tích lũy lòng tín nhiệm của độc giả. Đó là nguồn nuôi dưỡng tờ báo. Gầy dựng lại sự tín nhiệm rất khó. Đỗ Ngọc Yến mong NV phải vì công ích, độc lập trong ngành truyền thông. Nó là của tất cả mọi người. Không phải của chủ nhân. Cũng không phải chỉ của người viết báo. Theo nhà báo họ Đỗ những người có quyền viết, quyền in báo phải nhớ họ không nên đem ý kiến riêng của mình nhằm định hướng người đọc. NV tốt hay xấu, mang tiếng đậm màu sắc này hay màu sắc kia hoặc ngã về đảng này hay đảng nọ, phe này, phe kia, đều tùy theo người làm việc trong tòa soạn.
Tuyển tập còn cho biết, mối quan tâm của Đỗ Ngọc Yến và Lê Đình Điểu là sau khi thế hệ thời VNCH qua đời, NV có tiếp nối được tính độc lập với mọi khuynh hướng chính trị, với mọi tôn giáo, với mọi bè đảng và vượt lên trên các cá nhân đã chung sức gầy dựng tờ báo hay không? Cũng theo Đỗ Ngọc Yến “tờ báo phải sống mãi như một định chế chung. Nó phục vụ cả cộng đồng người Việt ở nước ngoài chớ không phải của một phe nhóm nào, bây giờ cũng như mai sau.” Phản ảnh đời sống của cộng đồng người Việt khắp nơi là chức năng và trách nhiệm của NV.
Ai  có thể trả lời mối quan tâm này? Tờ NV có tiếp tục được con đường do người sáng lập, nhà báo Đỗ Ngọc Yến và bạn bè vạch ra từ thế kỷ trước hay không? Tất cả tùy vào những người đang làm và sẽ làm cho tờ này. Chỉ có chính họ mới trả lời mà thôi. Thời hoàng kim của NV ở thế kỷ trước đã qua. Thế sự đã khác. Nhân viên trong ban biên tập NV thuộc thế hệ VNCH giờ đây hầu như không còn ai. Làm báo tiếng Việt ngày nay gần như là một sứ mệnh.
Trang bìa sau cuốn sách Đỗ Ngọc Yến Giữa Bạn Bè cho biết “ tờ báo không phải của Đỗ Ngọc Yến, cũng không phải của anh chị em có các cổ đông công ty NV. Làm báo là làm việc cho tất cả những người sẽ đọc, sẽ nuôi tờ báo, tờ báo là của công chúng”. Nhìn lại số báo đầu tiên do anh xuất bản năm 1978 là có thể nhận ra anh muốn linh hồn tờ báo và công ty NV phải như thế nào. Làm báo là đáp ứng nhu cầu tin tức của người đọc. Trước hết phải tạo được lòng tin, phải được đồng bào tin tưởng vào tinh thần khách quan, trung thực.

Khác biệt chánh kiến
Công đồng người Việt tuy có cùng gốc từ 1975 nhưng sau 50 năm hội nhập, cộng đồng không còn đồng nhất như cuối thế kỷ 20. Vì khác biệt trong nhận thức về thòi sự đã tạo ra chia rẽ, mâu thuẫn giữa cấp tiến và bảo thủ, giữa già và trẻ, giữa phe con voi và con lừa. Khó cho NV đưa tin tới độc giả. Được lòng bên này thì mất lòng bên kia. Thư Chủ nhiệm của Tổng Giám Đốc, Chủ Nhiệm Bà Hoàng Vĩnh viết trong Giai Phẩm Xuân Saigon Nhỏ Ất Tỵ năm 2025 có đoạn: “ tâm tình sâu thẳm không thể nói hết của những người  làm báo, trước bối cảnh báo viết báo điện tử của người Việt mỗi lúc càng khó khăn, tương lai ngắn và vô định có thể dự đoán trước”.  
Để minh chứng cho sự thành công của “thế hệ đi trước, ra đi trong tâm thức mất nước nhưng không mất gốc “, trong thư Chủ Nhiệm Giai Phẩm Xuân Người Việt Ất Tỵ năm 2025 bà Hoàng Vĩnhg còn viết: “Cái gốc bứng đi nhưng không chết mà nó lại đâm rễ nơi xứ lạ. Những người đi sau đã may mắn thừa hưởng di sản mà những người đi trước dày công xây dựng. Sự góp mặt của tờ NV trong cộng đồng là một dấu ấn đáng kể. Khó có thể kể hết sự hy sinh khai phá của những bậc tiền bối”. Thư Chủ Nhiệm đã trích thư của chủ bút Lê Đình Điểu viết trong Giai Phẩm Xuân Mậu Thìn 1988 “Những điều mà NV cảm thấy đáng tự hào nhất là ý hướng phục vụ  cộng đồng và dân tộc trong tinh thần tự do, nhân bản”.
Chủ bút Lê Đình Điểu (1939- 1999) trong thư trên còn cho biết “với một máy chữ IBM Selectric đi mượn và 4,000 tiền vốn, người ký giả say mê làm báo 36 tuổi từ bỏ công việc có đồng hương cố định ở sở Xã hội đã lao vào một cuộc kinh doanh và cũng là một nghĩa vụ cộng đồng. Tờ NV Cali số 1 khổ lớn (standard) bốn trang chứa đựng những quảng cáo thương mại khơi nguồn cho sự vươn lên của công cuộc làm ăn buôn bán và những bài vở tin tức địa phương quốc tế Việt Nam làm nhịp cầu cho nhóm dân tị nạn Việt lúc đó còn thưa thớt và rải rác”.  
 “Tiếc rằng ông ấy đi xa quá sớm chưa hưởng được gì từ thành quả do ông đã tạo ra”. Bà Lã Phương Loan, người nữ đằng sau của Đỗ Ngọc Yến nói với người viết bài này khi bà tặng cuốn sách nói trên, trong môt dịp trò chuyện. Nhà báo họ Đỗ đã để lại một di sản tinh thấn quá quí. Thật ra, tờ NV không hẳn chỉ do ký giả họ Đỗ tạo dựng mà có sự hiệp sức của cả  gia đình ông cùng với  bạn bè thuộc thế hệ VNCH. Ông là người đứng đầu tàu. Ngoài ra, cũng phải nói nhờ có cộng đồng người Việt ở Little Saigon và sự tự do ngôn luận của xứ Cờ Hoa này nên tờ Người Việt mới có cơ phát triển.

Chỉ có làm báo
Bà Lã Phương Loan còn cho biết, “tờ báo là đời sống, là hơi thở của nhà tôi”. Bà nói ” đời sống đối với chính ông vẫn là “anh em”, vẫn là tờ báo NV”.  Tuy đã có công ăn việc làm ổn định đầu tiên là ở Sacramento và sau đó ở Dallas, Texas, Đỗ Ngọc Yến rời bỏ tất cả quyết quay về Cali làm báo. Mộng của anh là có một tờ báo chuyên nghiệp, có năng chức thông tin giống như ở Saigon để phục vụ cộng đồng người Việt đang lớn mạnh. Kỹ thuật làm báo lúc bấy giờ không như ngày nay. Chữ tiếng Việt chưa có phải đánh dấu, phải cắt dán rất ư là thủ công nghệ.
Đỗ  Ngọc Yến, chạy đôn chạy đáo, gặp bạn xưa là rủ làm báo. Hồi thời sinh viên ở Saigon Đỗ Ngọc Yến hầu như là đầu đàng trong các phong trào sinh viên học sinh. Bản tánh hiền lành, Đỗ Nhọc Yến được lòng mọi người. Anh là vua ăn cơm nhà vác ngà voi. Anh không lo chuyện cơm áo vì nhà vốn khá giả và có một bà vợ đảm đang. Bà dạy Anh văn, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm. Anh còn lấy của hồi môn đem đi cầm để lo cho anh em đi trại khi làm Tổng Thư Ký Chương Trình Công Tác Hè. Trước 1975 anh làm cho báo chống cọng Sóng Thần và tờ Đại Dân Tộc có khuynh hướng ba phải. Ngoài ra, anh còn cùng với một số đồng ngiệp lập ra một tổ hợp cung cấp tin tức kinh tế cho báo chí đương thời. 
Tờ NV đã có cả chục lần kiệt quệ tài chính đến độ gần phải đóng cửa. Anh em bạn bè gần xa quen biết khi trước tiếp sức nên tờ báo mới tồn tại. Bà Yến phải thốt: “lúc đó khổ lắm. Khó khăn lắm”.  Nguồn nhân lực thời gian đầu đem báo phát hành là vợ, là con và bạn bè. Cái garage nhà ở thuê trở thành trung tâm tờ báo. Bạn tới phụ chẳng ai được xu ten nào mà còn bỏ tiền ra nữa. Cả gia đình vợ chồng con cái hì hụp xếp báo, đóng thùng, lè lưỡi dán tem đem đi gởi. Nhờ vậy và nhờ cộng đồng, tờ báo vững dần. Nó còn là cái nôi giúp cho vài tờ báo khác ra đời và cưu mang cho bạn bè khi vừa thoát khỏi Việt Nam. Sau đó, Anh Yến dù còn bệnh nhưng hễ hơi khỏe là mò ra tờ báo để thấy cái mộng của mình đã thành sự thật.
 Sự thật này là NV, tờ báo tư nhân có đời sống lâu nhất, lớn nhất ở hải ngoại, xuất bản năm 1978 với cả 100  nhân sự. Cơ sở tòa báo nằm ngay trong thủ đô của người tị nạn ở Little Saigon.  “Ai là chủ báo NV? Câu trả lời đơn giản là nhân viên báo Người Việt”. Báo NV đã đăng lên như vậy. Ngoài ra, tờ báo còn nói rõ “công ty là tài sản chung của một tập thể”. Cũng theo tờ này, hiện nay NV có 35,000 người vô đọc mỗi ngày và 380,000 pageviews. Tòa soạn có khoảng 20 người. 
Tác giả 58 bài đóng góp trong cuốn “Đỗ Ngọc Yến Giữa Bạn Bè” bây giờ ở đâu? Ai còn, ai mất, lưu lạc phương nao? Đó là Âu Dương Thệ, Jeffrey Brody, Bùi Bích Hà, Bùi Duy Thuyết, Đào Quí Châu, Chu Tất Tiến, Đinh Quang Anh Thái, Đinh Xuân Quân, Đoàn Thanh Liêm, Đỗ Quí Toàn, Đỗ Tăng Bí, Đỗ Bảo Anh, Du Tử Lê, Hà Quốc Bảo, Công Tử Hà Đông, Hoàng Khởi Phong, Hoàng Mai Đạt, Hoàng Ngọc Tuệ, Kiều Chinh, Lê Tường Vũ, Lê Thiệp, Minh-An La-Phạm, Lý Kiến Trúc, Ngô Nhân Dụng, Nguyễn Thị Ngọc Oanh,  Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Khắc Nhân, Nguyễn Khoa Thái Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nhã Ca, Phạm Cao Dương, Ngô Nân Dụng, Phạm Phú Minh, Phạm Quốc Bảo, Phan Huy Đạt, Phan Nhật Nam, Phan Thanh Tâm, June Pulcini, Quỳnh Giao, John Sommer, Charlie Sweet, Ruthh Talovich, Tân Văn Hồng, Thảo Trường, Thụy Khuê, Tiểu Quyên, Trần MộngTú, Trần Thị Thức, Trần Văn Khởi, Trần Văn Ngô, Vann Phan, Việt Nguyên, Võ Long Triều, Võ Phiến, Vũ Ánh, Vũ Mạnh Hùng.  

Cuốn Đỗ Ngọc Yến Giữa Bạn Bè 58 tác giả do Người Việt xuất bản lần đầu tiên năm 2006. Thiết kế bìa Uyên Nguyên và do Châu Hữu Hiền trình bày.
 PHAN THANH TÂM
 Cali 8, 2025

Thursday, August 21, 2025

HOA QUỲ. TỪ KẼ ĐÁ

nguyễnxuânthiệp
 


buổi chiều
đứng ngắm
bông dã quỳ
mọc từ kẽ đá
hồn tịch lặng
ôi. đá xưa. đâu. người
NXT 

TRỊNH Y THƯ. CUỘC CHIẾN GIỮA KÝ ỨC VÀ SỰ LÃNG QUÊN

Nguyễn Thị Khánh Minh

Tác phẩm của Trịnh Y Thư

Phế Tích Của Ảo Ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức.
Ở đây tôi chỉ lạm bàn ý nghĩa văn chương của cụm từ này theo cảm nhận của tôi khi đọc thơ Trịnh Y Thư, mà không theo ý nghĩa giáo khoa từ điển.
Nhìn từ nội dung tập thơ, “Phế tích” khơi gợi hình ảnh đầy xô lệch của quá khứ, những chấn thương của tâm hồn. Và “Ảo ảnh” là cách gọi về những điều giống như thật, hầu xoa dịu, với khát vọng vừa phủ nhận vừa lưu giữ. Và ai ngoài Thơ, lưu giữ, giải mã những nghịch lý ấy?  
Sự nghịch lý trong nhan đề lại là một gợi mở cho tôi khám phá. Trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”, Trịnh Y Thư từng bộc lộ sự đồng ý của ông với câu nói của nữ sĩ Emily Dickinson “Hãy nói lên Sự Thật nhưng hãy nói một cách nghiêng lệch.” Như thế hẳn tôi được hiểu ông dùng “Ảo ảnh” để chỉ danh Sự Thật?
Con đường đi theo hoài niệm của nhà thơ, quả thật trần ai. Nếu tôi chạm được vào đường biên mỏng manh nào trong Phế tích của ảo ảnh của Trịnh Y Thư, thì hẳn tôi đã Nghe được tiếng rền của tâm hồn tan vỡ, tiếng thầm của ký ức được phủ lên cái áo bóng tối, thì hẳn tôi đã Thấy cái thật của ảo, thì hẳn tôi đã tường tận sự đào xới gốc rễ của lãng quên. Từ những ngõ quanh của dấu hỏi, tôi nghĩ mình phải nhìn ra được nỗi thao thức của tác giả khi đã dùng nhan đề như vậy cho tập thơ của mình. Dường như không nghi ngờ khi Trịnh Y Thư để câu của thi sĩ Charles Baudelaire “Hoài niệm chỉ là hình thức khổ đau mới…” ở đầu tập thơ, như một khẳng định cho hoài niệm mình.
Chỉ còn mớ ký ức thảm thương 
     làm hành trang cho những
     chuyến hành hương tuyệt vọng.

Chuyến hành hương dù ngắn hay dài theo muôn dặm đời người, chặng cuối là điểm khởi đầu? Ý tưởng này khiến tập thơ Phế tích của ảo ảnh mang nhiều màu sắc triết lý, vừa vô vi của Lão Tử vừa vô thường của Phật Giáo. Và là sức hút ở một người làm thơ đương đại như Trịnh Y Thư, ông dung hòa cả hai phong cách tưởng như trái ngược nhau: Tinh hoa của cuồng nộ và kiệt xuất của trầm tư cùng bộc lộ làm thơ Trịnh Y Thư xô vỡ những câu hỏi trực diện, và lặng lẽ tỉnh thức với những trả lời. Tôi thích phong cách này.

CÔ ĐƠN, MỘT PHẾ TÍCH LỪNG LỮNG TRONG CUỘC LỮ (Cho dù cô đơn cũng sẽ được hiểu là ảo ảnh) 
Đó là cuộc lữ hành đối diện với quá khứ, lởm chởm phế tích: rêu phong tiếng thở dài của nghìn năm, dòng sông cạn trơ phế tích bóng tối, ban mai và huyền sử, tất cả trộn lẫn trong cuộc phát vãng Lãng Quên. 
Rêu phong mái ngói ngày tôi trở lại
     đốm chiều lập lòe ánh mắt
     sâu ký ức mù đồng cỏ nương ngô
     âm vang châu thổ
     nghe như tiếng thở dài từ nghìn năm
     bồi hồi dòng sông cạn.
Sau những bước dài cuộc viễn du
     chặng cuối là điểm khởi đầu
     nhức nhối những bào ảnh
     bóng tối thê lương
     ban mai hừng rỡ như mang dấu ấn tội đồ
     phát vãng từ thần kỳ huyền sử.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 1)
Cái khốc liệt trong cuộc mất mình của Trịnh Y Thư là luôn bị dội lại âm vang của cuộc chiến trên quê hương mình, một cuộc chiến mà mỗi tên gọi là một vết sẹo tang thương của bao phận người Việt Nam. Có một cái nhìn vừa khôi hài vừa chua chát trong tang lễ người lính sau chiến tranh, tâm trạng bi hài ấy là phản ứng sau bao lần bị sự thật và lý tưởng chà đạp:
… Người lính già hôm nay đã chết mặt trận yên tĩnh nhưng linh hồn anh không yên tĩnh tôi nhìn anh lần cuối trong quan tài bộ quân phục thẳng thớm như thể người ta vẫn ra lệnh cho anh tiếp tục chiến đấu dưới đáy ngục sâu… (Phế tích của ảo ảnh/ 7) 
Trong trận địa ấy, Trịnh Y Thư đã xoay sở gần như trăm phương nghìn kế – … dầm mình trong hồn nhiên, say sưa thư trang cồn tịch, đánh mất cả ảo ảnh, đuổi bắt trên một trận đồ khốc liệt, có bỏ chạy, có gục ngã – giữa vây hãm muôn hình trạng của phế tích, mà chỉ một cái quay đầu hay ngồi phệt dưới thềm nhà là trần gian hóa thạch, như thể không viện lý do để dừng lại. Phải tiếp tục thôi cho dẫu trong hỗn độn phế tích tua tủa gai, thứ quái thai ký ức mọc lên từ súng đạn không ngớt vang tiếng nổ. Một thứ lịch sử như vết hằn dấu đinh trên thân thể tận thế của loài người, và vì trong những tượng đài trí nhớ nó đã thuộc về vĩnh cửu, nên nó không được quên, không được phép quên. […] Người con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu… bên dưới những nấm mồ oan khốc…. 
Tôi cũng thử dầm mình trong hồn nhiên
     bông núi bay về lả tả mái hiên nhà
     đêm thư trang say sưa cồn tịch
     hay ngất ngưởng đi giữa rừng sao.

[…]
Nhưng tôi biết đấy chỉ là ảo ảnh
     một trận mưa chẳng thể xóa nhòa ký ức
     chẳng thể rũ bỏ quá khứ
     như ném vào bãi phế thải
     một món đồ hư hỏng dư thừa.

[…]
Khi dòng sông cất tiếng hát tôi bỏ chạy
     bên tai tôi trận bão lá tràn về
     đuổi bắt trên một trận đồ khốc liệt
     như thứ ngôn ngữ chiến tranh
     đóng đinh vào tận thế.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 1)
[…]
Chân trần vượt qua bãi mộ
có lúc bước chân tôi ngã gục
với gai nhọn và cạm bẫy đợi chờ.

(Ẩm ướt)
 […]
cửa mở nhưng tôi chỉ biết ngồi phệt
dưới thềm nhà
uông uông cơn ảo vọng
một trần gian hóa thạch.

(Phế tích của ảo ảnh/ 6)
Trịnh Y Thư đã mượn ảnh ảo hay ảo ảnh để đánh lừa cái phế tích mồn một kia, dưới ánh nhìn của một người, luôn hình như, đứng giữa đời sống và mộng tưởng, chiêm nghiệm sự tan biến cùng nhặt nhạnh vết tích của những điều đã xảy ra, dù ông khẳng định, một quá khứ không thể rũ bỏ, một ký ức không thể xóa? Như bình minh và hoàng hôn, không còn là khái niệm thời gian nữa mà là cường độ đo nhớ quên cái không-thời-gian, dư chấn của bao lần thất lạc. […] như một kẻ hành hương lạ thất lạc/ trong ngôi đền không có nổi một lư hương…
Thậm chí tôi đánh mất cả ảo ảnh
     như buổi chiều hôm hôn ám này
     không nhớ bình minh
     làm sao tôi hiểu được hoàng hôn
     dù lịch sử trở về từ vĩnh cửu.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 1)
 
 Tôi cũng mong một lần cho tất cả, Phía bên kia bờ vực/ một đàn chim nhạn bay… đường bay nhẹ nhàng không lưu dấu, Chỉ còn sự cô độc/ ôi tôi yêu nó xiết bao…
Và nhân vật Tôi trong tập thơ này, tự thân đã là một Phế tích của Ảo ảnh. Liên tưởng từ sự hoang liêu của nó, tôi thấy, tôi nghe, tôi hiểu, mùi hương vi huyễn của Kim Cang Kinh, tất cả pháp hữu vi/ như mộng huyễn bọt bóng… 

TỘI ĐỒ TRONG TRẬN CHIẾN KÝ ỨC VÀ LÃNG QUÊN, VÀ NIỀM KHÁT KHAO TRÍ NHỚ
Nên không lạ gì, trên con đường khai quật phế tích là vực thẳm những mộ phần, và sừng sững vô ơn nhất: Sự Lãng Quên. Một sự Lãng Quên có tác động, có ý thức, nó đẩy đến tốc độ xóa sạch đường biên vốn quá mỏng manh của Quên-Nhớ. Rồi cái mà ta đã sống với nó như một cái kén là ký ức cũng ruỗng mục cùng với tâm hồn người cũng-gần-như-dần-thành-phế-tích. Lãng Quên và Ký Ức, hai “thực thể” đó cái nào là phế tích cái nào là ảo ảnh, thưa nhà thơ? Và nghệ thuật, văn chương luôn bị chúng dằn vặt để soi tỏ nỗi cô đơn trong hoài niệm cùng niềm khao khát trí nhớ.
Ký ức tôi đang rạn vữa
     còn lại chỉ là sự lãng quên
     dò dẫm bước đường về
     trên muôn trùng bến lạ
     canh cánh một tín điều mệt mỏi khôn kham.

[…]
Ký ức như mộ phần người chết
    hãy để nó vĩnh viễn nằm dưới đáy ngục sâu
    đào lên chỉ thấy toàn hồn ma
    và xương xẩu kinh người.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 2)
Nhà thơ đang đi hành hương, một mình, nhặt nhạnh những mảnh phế tích ký ức, ghép cho hoàn thiện bức tranh lãng quên của con người. 
Bến nước, ngôi đền, tưởng là cố cựu, tay bắt mặt mừng, nhưng dưới mắt kẻ tìm về, nó đã trở nên một thứ cơ ngơi ảo hoặc thánh hóa, có níu kéo, có hụt hẫng, và mất phương hướng… cho tôi xin một hồi chuông/ để làm gì tôi chẳng biết… Để thức tỉnh? Để phiền muộn, trách cứ? Để an phận với kẻ chiến bại: Sự Thật? Khi Sự Thật chỉ là một âm vọng không hơn không kém.
… bất chợt một góc trời điêu hao thành lũy
giữa muôn trùng cảnh lạ bến nước bủa giăng.

[…]
hiện hữu những cơ ngơi ảo hoặc thánh hóa
[…]
Dù tôi biết mình không còn chỗ chạy
không cả một tòa án giả hình
thu hẹp trong vòng tròn định mệnh
trên cả những giao ước biển lận trớ trêu.

[…]
Vẫn biết sự thật là tiếng vọng thiên thu
nhưng hãy cho tôi hòa giải
bởi cuộc chiến với ký ức
là cuộc chiến với sự lãng quên.

(Phế tích của ảo ảnh/ 2)
Gượm đã, Lãng Quên là phế tích của Ký Ức. Tôi tự hỏi làm sao nhìn Lãng Quên như một ảo ảnh? Dường như có cả mối tương quan nhân quả, hay là một sự đồng dạng nữa, e rằng không có cuộc hòa giải nào dễ dàng đối với hai cuộc chiến vô hình cam go này, bởi vậy mà triệu tâm hồn tan vỡ đều tồn tại trong mình nỗi đau riêng, câm lặng. Sự thúc thủ ấy khác chi một tội đồ? 
Cuộc chiến với ký ức
mới thực là cuộc chiến kinh hoàng
đốt cháy cả cuộc đời anh
vết thương mưng mủ
nhức nhối ngày đêm khôn dứt
và anh bất lực với chính sự bất lực của mình.

(Phế tích của ảo ảnh/ 7)
Trên dặm trường phế tích, ảo ảnh nào đã để lại vết thương của kỳ vọng? Trịnh Y Thư có trông cậy vào nó để phế tích nhẹ nhàng hơn là một chứng tích hiển nhiên, một thực thể vật lý, ví dụ như xã hội vô luân, con người với tâm hồn chằng chịt vết thương? Nếu ai đã từng chìm đắm đôi co với ký ức hẳn sẽ có kinh nghiệm tìm thấy cho mình câu trả lời khả dĩ đồng thuận với những trăn trở của tác giả trong tập thơ này. 
Điều tôi cảm thấy và hiểu được ẩn dụ nghịch lý của tiêu đề Phế tích của ảo ảnh, như một lối tự vệ và hóa giải khắc khoải nội tại của tác giả. Và cho cả chúng ta. Để tha thứ, nhưng, tha thứ không phải là lãng quên, mà là định hướng nhân bản cho cuộc sống ngay bây giờ và tương lai. Điều ấy chỉ Thơ làm được. 
những gì từng căm ghét
     những gì từng trân trọng
     bây giờ đều biến thành trò chơi
     cầu vực của yêu thương thù hận
     chẳng còn chỗ cho bất cứ
     một phán quyết nào.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 10)
[…]
Để về đây viếng lại
     ngôi cổ mộ u hiển điêu linh
     nơi người sống và người chết
     cùng nắm tay nhau ca hát.

    (Bởi tôi không thể dừng lại nơi đây)
[…]
Ý thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương
nhưng không hề hối tiếc một thời đã sống
     họ về đây bảo tôi
     đã qua rồi
     tất cả đã qua rồi
     nước phù sa vẫn nhóc nhách
     chảy ngang con trổ
     luồn lách giữa những
     chân lúa đang hăm hở đơm bông.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 10)
Tôi xin một lần cho tất cả, ý thức xanh xoa dịu oan khốc kiếp người. 
 
TÔI VỐN LÀ KẺ LẠ/ KHÁT VỌNG HOÀI THAI
Trong bài phỏng vấn của Việt Báo năm 2020, có câu hỏi đề cập đến cấu trúc đi xuyên thấu không-thời-gian để đem lại ý nghĩa sáng tỏ cho những điều cá biệt trong cuộc sống của Nhà thơ Arthur Sze với tập thơ Sight Lines…, tôi đã trả lời:
“Bút pháp hữu hiệu nhất dùng huyễn ảo phi thực để bật ra cái trơ trụi thực tế. … Như nhà thơ Athur Sze, qua lăng kính tưởng tượng ông kiến tạo những hình ảnh cảnh báo về sự hủy diệt. Từ cảm xúc rất thơ mộng về những ngọn tulip xanh đang mọc lên, Sze vẽ ra một Black Center, với tất cả hình ảnh chụp bắt tức thì, xô đẩy nhau trong lời thơ tạo nên một bức tranh siêu thực, để nói rằng mớ hỗn độn ấy đang và tiếp tục xảy nếu lúc này không chấn chỉnh lại sự phát triển lệch lạc, phi nhân, ích kỷ. Ông kết một sợi dây mơ mộng ngây thơ của ngọn tulip đang vươn lên (Black Center), hoa mận nở, mùi của ánh sáng (Spring Snow) với hiểm họa khủng bố và hủy diệt sinh thái, khiến thơ ông là một lời cáo buộc mạnh mẽ, mà không đánh mất nét diễm lệ của thơ. Đó cũng là cách mà tôi thấy các nhà thơ Việt Nam thể hiện, chỉ khác nhau ở sự liên tưởng, những hình ảnh đối chọi khắc nghiệt đến thế nào để bóc trần được những khác biệt tốt-xấu, an bình-nguy hiểm. Như trong tập thơ Phế tích của ảo ảnh của Trịnh Y Thư, tôi cũng gặp bút pháp đi qua không-thời-gian này. Đan xen hình ảnh giữa một di sản bi thương – những người chết bị lãng quên nằm chen chúc dưới đám ruộng – bên cạnh cái nên thơ của hoa lúa, quả ổi xanh và nhịp chày ba, xô lên ký ức thời điêu linh trong hoa lúa, lúa ấy mọc lên từ những thân vùi bị bỏ quên kia. Hình ảnh tương phản ấy có hiệu ứng của một lời kết tội chiến tranh ẩn dưới cái đẹp não nùng của thi ca.”
Hãy đọc lại những câu trong Phế tích của ảo ảnh:
Tôi trở về đây vòng quay của đất trời tê tái
     thăm hỏi những con người bị lãng quên
     nằm chen chúc
     dưới đám ruộng
     chiêm trũng
     lúc giao mùa phất phơ.
Họ là ai tôi tự hỏi
     những bản văn tự không ấn dấu
     xung quanh một bến nước
     có tiếng hát phù trầm
     quay quắt một đêm mưa
     hàng cau đánh sập sân từ đường
     vỡ vụn những viên gạch
     khép nép nghìn thu.
Trên nỗi đau phận người là những lời lừa phỉnh
     dù bóng tối không bao dung
     và nỗi khiếp sợ ngập tràn
     nhưng hy vọng vào ngày mai
     tia rực sáng vui đùa cùng cỏ cây
     còn sự lừa phỉnh là bóng tối đời đời
     nhốt chặt những linh hồn muôn kiếp
     không cơ may cứu chuộc.

[…]
Nằm đếm sao trời đêm đêm
     họ gửi chúng ta thông điệp gì
     gia phả không đủ chỗ
     viết những lời nhắn nhủ
     cựa mình chạm vào rễ gai
     trợn trừng hai hốc mắt
     không – họ chẳng nói gì
     bởi tất cả những điều cần nói
     đã được nói ra
     từ trước đó lâu lắm rồi.

     (Phế tích của ảo ảnh/ 3)
[…]
Tôi nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm
     ở nơi có ánh chiều tháng Chạp
     và những quả ổi mơn mởn xanh
     rầu rầu liếp mía
     con giẻ cùi phụ họa
     lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.
Miệng lúng liếng giọng luyến láy
     những điều tôi không hiểu
     chẳng sao cô gái ạ
     tôi vốn là kẻ lạ
     khát vọng hoài thai
     trên những rui mè
     ngôi nhà huyền sử
     thất lạc trong chuyến đi tìm
     quá khứ vong thân.
Bóng ma quá khứ không làm cô sợ hãi
     miểng bom cắm trên hương thờ
     trở thành linh thiêng
     vẫn nhịp nhàng
     như điệu chày ba thuở ấy
     ngây tạnh một đêm mưa
     nước trổ đòng đòng.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 4)
Cũng trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”, Trịnh Y Thư viết: “Trong lúc sự hư ngụy, giả trá được tâng xưng lên làm chân lý, thì thơ ca vẫn lặng lẽ nói lên Sự Thật. Sự Thật của thơ ca là hy vọng cuối cùng cho con người tìm lại được sợi dây thắt buộc mình lại với nhau sau những phân liệt tranh chấp và hận thù.” Những đoạn thơ Phế tích của ảo ảnh trên là một minh chứng rõ nhất cho quan điểm này của ông. Hình dung, ông nhìn thấy gì qua chiêm trũng buổi giao mùa, trái ổi xanh, nhịp chày ba, đôi mắt lá răm? Một hiện thực đẹp rực hơi sống lại trồi lên phế tích: những xác người đã bị vùi chôn từ thời súng đạn. Hai đối cực, một bên hừng hực sinh khí, một bên là tử khí từ xương khô, không có cách nào hơn là dùng cái đẹp lương thiện nhất của màu xanh ổi, đôi mắt lá răm để xoa dịu và bao biện cho cái đau trần trụi của chiến tranh.
Bạn thử ghép lại:
Những viên gạch nhà từ đường vỡ và Nghìn Thu. 
Bóng tối và những tù nhân linh hồn. 
Hai hốc mắt trợn trừng và vô vọng những thông điệp. 
Miểng bom cắm trên hương thờ lại âm vang nhịp chày ba. 
Sự thật và tiếng vọng bị giam hãm trong thiên thu. 
Khát vọng hoài thai từ quá khứ vong thân. 

Đó là những cặp phế tích và ảo ảnh được Trịnh Y Thư trưng ra như hai mặt của một tấm gương, phản chiếu những truân chuyên của bao thế hệ, đeo đẳng hành trang của người khách lạ trên con đường ruột thịt quê hương. Cảm giác “kẻ lạ” ấy, là một phế tích của hàng triệu thân phận lưu vong. Và khát vọng hoài thai là một ảo ảnh đẹp chưa từng, hoài thai để được nguyên vẹn của Đêm mưa nước trổ đòng đòng? Để thời đoạn gian truân chỉ còn là ảo ảnh mây trong một buổi ngắm trăng suông…?
Chỉ có Thơ mới đảm nhận sự hoài thai ngây thơ và ý nghĩa ấy.
Nơi tôi đứng chiều nay
     những mái nhà nâu 
     những chiếc cầu lung linh bóng nước
     sẽ tan biến cả và còn lại
     chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 1)
Và, tôi nhủ thầm, Nên quán tưởng như thế (Kinh Kim Cang)

MỘT THOÁNG XANH VỀ TRONG LỆ XANH
Với cái khép lại của huyền diệu ảo hóa câu kinh, tôi muốn đi vào hạn kỳ đẹp nhất của vô thường, hạn kỳ xanh trong thơ Trịnh Y Thư.
Con nước chảy hoài bờ biên tái
     một thoáng xanh về trong lệ xanh
     tan đi giữa cõi mù sương ấy
     hoa lê một nụ điểm trên cành.
Một mai trở lại với cồn sương
     dùng dằng dăm bước ngẫm đoạn trường
     phân vân nước chảy hồn nẻo ý
     một nhánh phù dung cũng đủ thương.
Đến hạn tôi về trong mây thôn
     trống chiêng không gọi đã khua dồn
     đếm đi đếm lại chừng năm tháng
     điểm tóc tro phai mặt mạc hồn.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 4)
[…]
Nghe trong cô quạnh tiếng mưa
rơi thầm vào những bến bờ mù tăm
rừng xưa lỡ hẹn trăm năm
ngoảnh trông mộ chí chỗ nằm mộng dư.

(Nghìn thu từ độ)
[…]
Chờ ngày hóa thân 
cõi lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát trắng mái nhà nâu hàng dừa.

(Tháng ba, hãy trôi đi)
[…]
nghe tiếng tim mình thong thả
     bởi tôi biết đó là
     mộ phần tôi được tiên tri.

    (Bóng tối)
Một vị lai tâm hồn đang chờ đợi sau nhịp tim thong thả ấy. Vầng trăng cổ độ được vớt lên từ đại dương trầm tích theo người về, dự phòng cho một không gian, ở đó, một nhánh phù dung cũng đủ thương?
Và nếu theo những lời mà Trịnh Y Thư nhắn nhủ: Một mai về với mây ngàn/ Chỉ xin nhớ chút dịu dàng của nhau, thì những câu thơ trên quả là ngàn cân dịu dàng mà người đọc sẽ mãi còn lay động.
… từ tốn tách cà phê buổi sáng
     hay vội vã bữa cơm chiều
     khoan hòa với giấc ngủ
     mặc tưởng một vầng trăng
     chỉ để mặc cả với bóng đêm
     về những điều không có thật.

    (Phế tích của ảo ảnh/ 10)
[…]
Tôi muốn mặc cả với đêm yên
     hãy cho tôi đầu thai
     làm hòn cuội
     nằm yên dưới lòng suối này
     đến thiên thu.

    (Đêm yên)
 
Tôi tin người thơ là kẻ thắng trong cuộc mặc cả ấy để có cho mình sự thật, có cho mình sự bình yên trong suốt của viên cuội trong đêm yên.
Ôi, giấc mơ ư, ảo ảnh ư. Đó là vế nặng trĩu sức đam mê trong câu Phế tích của ảo ảnh. Nó nguôi ngoai được cái thê lương của “Phế tích.” Nó là những liên tưởng mang ngụ ý, ẩn dụ, được Thơ phóng chiếu để người ta nhìn ra được hiện thực. Đó là dụng ý Trịnh Y Thư khi muốn quá khứ cùng sự im lặng nhẫn nhịn được cất lên tiếng nói. 
Và “Ảo ảnh” – tấm khiên lãng mạn hóa niềm vô vọng – đây là thủ pháp tinh tế nhạy cảm bướng bỉnh của Thơ Ca mà Trịnh Y Thư đã thuần hóa nó với phong cách của riêng mình.
Và nghĩ cho cùng đa chiều, thì tất cả nghịch lý hàm chứa trong tiêu đề đã trở nên vô cùng thuận lý, nhất là khi ta đứng về phía của giấc mơ cùng sự lãng mạn cần thiết của nó, để ánh sáng dịu dàng của “Ảo ảnh” cứu chuộc những “Phế tích” ruỗng mục tâm hồn chúng ta.
Đừng đánh thức giấc mơ tôi
     trong lúc ngửa mặt lên trời
     hứng những giọt mưa đêm tháng Chạp
     với hình ảnh duy nhất
     là đôi mắt em.

    (Mưa đêm tháng Chạp)

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
(Upland, tháng 8.2025)

Bạn đọc có thể đọc một bài viết khác về Trịnh Y Thư của Nguyễn Thị Khánh Minh viết năm 2016, ở link này:
https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2016/09/27/trinh-y-thu-lang-nghe-hai-co/


 

Wednesday, August 20, 2025

ANH ĐỨNG ĐỢI

 Huỳnh Liễu Ngạn

Thủ bút tác giả
anh đứng đợi một ngàn mây trên tóc
giữa lưng trời buồn đậu ở trên tay
anh đứng đợi một ngàn mưa rớt hột
biết thuở nào gặp lại gió rung cây.
16.8.2025
HLN

Tuesday, August 19, 2025

GIẤC MƠ CON NGƯỜI

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Giấc mơ
 
Bỗng nhớ những dòng thơ Trinh Chí:
“Đêm nay anh mơ thấy đêm nhân từ
Trên khắp quê hương vắng bóng nhà tù
Chính những nơi này trở thành trường học
Anh nghe vang trời tiếng trẻ u ư.” (*)
 
Khi rời những mảnh quê hương loạn lạc
Đến xứ sở này tìm kiếm “nhân từ”
Những con người mang trái tim khao khát
Ánh đuốc an lành chiếu sáng tâm tư
 
Xứ sở bao dung, trái tim mở rộng
Đón những con người đói khổ ly hương
Tìm đến tự do, an vui, cơ hội
Xây đắp tương lai ở chốn “thiên đường”.
 
Một thuở đất lành mặt trời rạng rỡ
Phút chốc thành nơi tăm tối mịt mù
Khi khắp nơi xây trại giam lớn, nhỏ
Giấc-mơ-con-người bỗng hóa âm u.
 
CAM LI NGUYỄN THỊ MỸ THANH
(*) Trích tập thơ “Giấc Mơ Thanh Bình” (xuất bản năm 1971) của Trinh Chí, nhà thơ Tuổi Hoa.
 
 

GIÁO SƯ TRẦN NGỌC NINH 1923 -2025 VÀ ƯỚC VỌNG DUY TÂN

NGÔ THẾ VINH
 
Lời giới thiệu: Giáo sư Trần Ngọc Ninh (1923–2025) là cựu giáo sư y khoa của Y khoa Đại học Đường Sài Gòn ngày xưa. Ông cũng là một cựu Thuyền Nhân, vượt biên năm 1977. Ông vừa mới qua đời ở California, và Bs Ngô Thế Vinh có viết một bài bằng tiếng Anh về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trong cuộc đời kéo dài hơn một thế kỷ, ông là hiện thân của một trí thức đích thực, kết hợp hài hòa giữa chuyên môn y khoa và những đóng góp cho văn hóa, giáo dục, và văn học Việt Nam. Từ những ngày đầu là sinh viên y khoa tại Hà Nội, đến vai trò giáo sư danh tiếng về phẫu thuật chỉnh hình và nhi khoa tại Sài Gòn, và sau này là một học giả văn hóa tại Mỹ, hành trình của ông phản ảnh sự tận tụy không ngừng nghỉ cho giấc mơ về một Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc văn hóa. Qua bài viết này, Bs Ngô Thế Vinh ghi lại di sản đáng kinh ngạc của ông – sự nghiệp y khoa tiên phong, những tác phẩm ảnh hưởng về văn hóa Việt Nam, và tầm ảnh hưởng trường tồn với tư cách một học giả và nhà nhân văn, kết thúc bằng sự ra đi thanh thản ở tuổi 103 tại California. GS Nguyễn Văn Tuấn
 
                         Tôi mơ về một nước Việt Nam hòa bình, tân tiến trên nền tảng của những
                         giá trị tinh thần mà lịch sử đã nhồi vào nền văn hiến của nước ta.
                          Cả cuộc đời xã hội của tôi là để đóng góp vào sự ước mong ấy.
                                               TRẦN NGỌC NINH, ƯỚC VỌNG DUY TÂN, 2012
 
 
 
Hình 1: trái, đến thăm Gs Trần Ngọc Ninh, Huntington Beach
ngày 21 & 29 tháng 06.2018, ở tuổi 95 mà Thầy vẫn còn rất minh mẫn và sắc bén;
trên bàn là những số báo Tình Thương (1963-1967) có các bài viết của Thầy; phải, Gs Trần Ngọc Ninh
đang ký tặng Ngô Thế Vinh cuốn Làm Gì (1979), bên cạnh là tác phẩm Nuôi Sẹo của Thư Quán Bản Thảo
do nhà văn Trần Hoài Thư tặng Gs Trần Ngọc Ninh. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
TIỂU SỬ
Trần Ngọc Ninh, tên thật, còn có bút hiệu Kỳ Ngọc, Trần Ngọc, Trần Lê sinh ngày 6 tháng 11 năm 1923 tại Hà Nội, nguyên quán Ninh Bình Bắc Việt, thân phụ là giáo viên nghèo, đôi khi nhà không đủ ăn; vừa đi học vừa viết báo phổ thông y học như với tờ Vui Sống để kiếm sống với bút hiệu Kỳ Ngọc; một số bài báo còn sưu tập được đã đăng lại trong Tuyết Xưa. (2)
1939: Học sinh trường Bưởi, sinh viên Khoa học ban Toán cùng với Triều Sơn, rồi chuyển sang học Y khoa.
1946-1948: Cựu nội trú các bệnh viện Hà Nội.
1948: Luận án Tiến sĩ Y khoa: “Contribution à la Physiopathologie des Traumatismes Thoraciques“.
1948-1952: Bác sĩ thường trú bệnh viện Yersin / Phủ Doãn Hà Nội.
1952-1954: Sang Pháp du học với Gs Robert Merle d’Aubigné ở bệnh viện Cochin về ngành giải phẫu chỉnh trực và với Gs Pierre Petit về ngành giải phẫu tiểu nhi ở bệnh viện St Vincent de Paul; qua Anh tu nghiệp về giải phẫu thần kinh ngoại vi và xương sống với Gs Herbert Seddon.
1954: Di cư vào Nam sau Hiệp định Genève, cùng với các giáo sư Phạm Biểu Tâm, Nguyễn Hữu, Đào Đức Hoành, Ngô Gia Hy, Nguyễn Đình Cát… và trở thành ban giảng huấn cốt cán của Đại học Y Khoa Sài Gòn sau khi người Pháp rút đi.
1961: Thạc Sĩ Y khoa Pháp / Agrégation des Facultés Françaises de Médecine, Section Chirurgie Orthopédique.
1961-1967: Giáo sư phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi khoa, Đại học Y khoa Sài Gòn, Việt Nam.
1966-1967: Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, chủ trương phát triển phong trào thanh niên, đưa Hướng đạo vào sinh hoạt học đường.
1956-1977: Trưởng khoa phẫu thuật chỉnh trực, bệnh viện Bình Dân Sài Gòn.
1966-1975: Giáo sư Văn minh Đại cương và Văn Hóa Việt Nam, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Việt Nam.
1967: Thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO / Southeast Asian Ministers Education Organization) Bangkok & Singapore.
1968-1975: Hội viên Hội đồng Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Sài Gòn, Việt Nam.
1969-1975: Hội viên Hội đồng Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn Việt Nam.
1977: Ngày 6 tháng 6, cùng gia đình vượt biển tới đảo Pulau Besar Mã Lai, chọn định cư tại Hoa Kỳ.
1978-1980: Thi ECFMG & FLEX như một bác sĩ ngoại quốc, vẫn phải qua thời gian thực tập tại các bệnh viện ở Denver, Colorado; rồi Pittsburg với các Gs James S. Miles và Gs William B. Kiesewetter cùng là giáo sư y khoa bạn cũ trong ngành phẫu nhi khoa / Pediatric Surgery với ông trước kia.
Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn hoàn tất một tập luận đề chính trị “Làm Gì” trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu“. (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado / ghi chú của người viết)
1980: Trở lại hành nghề Y khoa tại Nam California, nhưng chủ yếu vẫn là các hoạt động văn hóa giáo dục; viết bài cho các báo Tập San Y Sĩ, Thế Kỷ 21, Khởi Hành…
2000: Tham gia Ban Cố vấn Viện Việt Học (Westminster, California) do Gs Nguyễn Đình Hòa sáng lập.
2003-2008: Viện trưởng Viện Việt Học, giáo sư giảng dạy lớp Ngữ pháp Việt ngữ tại Viện Việt Học.
 
TÁC PHẨM
Văn Hóa
_ Những Vấn đề Văn hóa Giáo dục và Xã hội [Sưu tập Diễn Văn của Gs Trần Ngọc Ninh, Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa] Sài Gòn Việt Nam 1966
_ Văn hóa Dân tộc trước những Nhu cầu của Đất nước; Nxb Vovinam, Sài Gòn Việt Nam 1969
_ Đức Phật Giữa Chúng Ta. Nxb Lá Bối, Sài Gòn Việt Nam 1972
_ Làm Gì? Tập Luận đề Tháng Chín. Với bút hiệu Trần Lê. Nxb Việt Nam Hải Ngoại, California 1979
_ Tuyết Xưa: Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000
_ Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh: với những giả thuyết mới về Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân Thanh, cũng như mối liên hệ giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Nxb Khởi Hành & Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2004
_ Cơ Cấu Việt Ngữ, Nxb Lửa Thiêng Sài Gòn Việt Nam 1973; Viện Việt Học California Hoa Kỳ tái bản 2009
_ Dạy Đọc Dạy Viết Tiếng Việt. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2010
_ Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012
_ Ngữ Pháp Việt Nam [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]
_ Ngữ Pháp Tiếng Việt Đầu Tiên, Cho Tuổi 5 Năm – 15 Năm [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]
 
Y Học
_ Nhà Thương, Phóng sự, Nxb Văn Hóa Hà Nội, Việt Nam 1946
_ Thượng Kinh Ký Sự / Éthique Médicale de la Médecine Traditionnelle du Vietnam, d’ après les Mémoires d’un Voyage à la Capitale de Hải Thượng Lãn Ông (18e siècle), Isis, Bruxelles, Belgique 1950
_ Những Bệnh Cần Cấp Cứu, Gió Việt, Sài Gòn Việt Nam 1956
_ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
_ Lịch sử hình thành hai Chuyên khoa Y Học: Phẫu khoa Chỉnh trực và Phẫu Nhi khoa ở Việt Nam. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
_ Hơn 200 bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa xuất bản tại Việt Nam, Pháp và Mỹ
 
 
Hình 2: Hình bìa một số những cuốn sách của Gs Trần Ngọc Ninh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
THƯ TỊCH BÁO CHÍ
Ngoài những tác phẩm đã in thành sách, và các bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các tạp chí Y khoa Việt Nam và quốc tế, Giáo sư Trần Ngọc Ninh còn viết nhiều bài báo liên quan tới các đề tài văn hóa. Sau đây là phần Thư Tịch trên ba tạp chí đã được số hóa/ digitized: Tình Thương, Bách Khoa, Thế Kỷ 21 do thủ thư Phạm Lệ Hương, Viện Việt Học sưu tập. Cũng phải kể thêm những bài báo trên tạp chí Khởi Hành (1996-2018), chưa có trong phần thư tịch này.
 
TÌNH THƯƠNG
https://vietecologypress.blogspot.com/p/tinh-thuong.html
– Y tế và chính trị / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 1 (tháng 1-1964), tr. 9-10.
– Mười lăm năm ấy, kỷ niệm về Triều Sơn / Trần Ngọc [pseud. Trần Ngọc Ninh]. Tình Thương, số 1, (tháng 1-1964.), tr. 46-50.
– Những vấn đề hiện tại của giáo dục Việt Nam / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 3-4 (tháng 3 & 4-1964), tr. 9-11.
– Tinh thần đại học; hay là phiếm luận chung quanh vấn đề đại học / Trần Ngọc Ninh. / Tình Thương, số 5 (tháng 5-1964), tr. 6-12.
– Ngô Thế Vinh & Nguyễn Hữu Ân: Phỏng vấn giới giáo sư đại học về vấn đề sinh viên – GS. Trần Ngọc Ninh Tình Thương, số 12 (tháng 12-1964), tr.6-7.
– Ngày mai của nền đại học y khoa Việt Nam / Trần Ngọc Ninh]. Tình Thương, số 14 (Xuân Ất Tỵ, tháng 1-1965), tr. IV-VI.
– Các vấn đề thanh viên và sinh viên trong thời đại / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 20 (tháng 8-1965), tr. 17-20.
 
BÁCH KHOA
https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php?thuvien=1-30
– Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 343, tr. 5-14.
– Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 344, tr. 29-37.
– Đức Phật và sự cải tạo xã hội (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 345, tr. 9-16.
– Đức Phật và sự cải tạo xã hội (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 346, tr. 31-39.
– Đức Phật và sự cải tạo xã hội (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 347, tr. 33-41.
– Tương lai chúng ta / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 348, tr. 9-12; 71-77.
– Viết về xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 349, tr. 39-45.
– Sự kết thúc của chiến tranh Đông Dương II / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 351, tr. 9-11.
– Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 351, tr. 23-30.
– Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 352, tr. 23-27.
– Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 353, tr. 31-40.
– Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học của giáo dục (pt.1 – Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 368, tr. 31-38.
– Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học của giáo dục (pt.2 – Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 369, tr. 23-31.
– Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học của giáo dục (pt.3 – Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 370, tr. 23-29.
– Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc] (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 373, tr. 19-26.
– Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc] (pt.2) / Trần Ngọc Ninh, Bách Khoa, số 374, tr. 29-37.
– Văn hóa và y khoa / Trần Ngọc Ninh. Bách khoa, số 374, tr. 43-50.
– Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc] (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 375, tr.19-22,
– Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc] (pt.4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 376, tr. 23-30.
– Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 381, tr. 13-22.
– Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 382, tr. 23-31.
– Nguyễn Trãi, huyễn thực và sắc không / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 390, tr. 9-15; tr. 82-85.
– Sống với ý thức hệ (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 394, tr. 9-17.
– Ngữ lí học và cơ cấu Việt ngữ / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395, tr. 21-28.
– Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395, tr. 29-34.
– Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo (pt.3)/ Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 396, tr. 39-42.
– Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo (pt. 4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 397, tr. 33-40.
– Huyền thoại học và huyền thoại lí học trong sự đi tìm nguồn gốc dân tộc / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr. 39-46.
– Y khoa và văn chương / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr. 73-79.
– Tư tưởng Việt Nam (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 421-422, tr. 49-54; 113-117.
– Tư tưởng Việt Nam (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 423, tr. 29-33.
– Tư tưởng Việt Nam (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 424, tr. 31-37.
– Bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 425, tr. 39-44.
 
THẾ KỶ 21
https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/TheKy21.php
– Tưởng nhớ ký giả Trần Việt Sơn / bài nói chuyện của Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, Bích Hằng ghi. Thế Kỷ 21, số 111 (7-1998), tr. 24-31.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn (pt. 1) / Thế Kỷ 21, số 132 (4-2000), tr. 26-34.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn (pt. 2) / Thế Kỷ 21, số 133 (5-2000), tr. 39-44.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn (pt. 3) / Thế Kỷ 21, số 134 (6-2000), tr. 35-38.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn (pt. 4) / Thế Kỷ 21, số 135 (7-2000), tr. 43-48.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn (pt. 5) / Thế Kỷ 21, số 136 (7-2000), tr. 43-47.
– Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: Đặt vấn đề (pt. 6) / Thế Kỷ 21, số 137 (9-2000), tr. 73-80.
– Những người rỗng (The Hollow men: một bài thơ của T.S. Elliot (1888-1965). Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 148 (8- 2001), tr. 38-44. [thơ dịch sang Việt ngữ được tác giả chép tay trang 44]
– Tưởng nhớ nhà văn Phạm Duy Tốn / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 174 (10-2003), tr. 38-41 & 17.
– Bốn mươi năm sau / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 175 (11- 2003), tr. 15-19.
– Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh [Pt.1] / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 193 (5-2005), tr. 31-37.
– Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh [Pt. 2] / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 196 (8-2005), tr. 36-40.
– Những vấn đề và thách thức của thời đại / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 207 (7-2006), tr. 18-23.
– Tuyên dương một nhà trí thức Việt Nam / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 215 (3-2007), tr. 23-24.
 
GIÁO SƯ Y KHOA LỖI LẠC
Nguyễn Lương Tuyền là một trong số môn sinh hiếm hoi của GS Trần Ngọc Ninh, đã nhận viết về phần sự nghiệp Y khoa của Thầy Ninh. Nguyễn Lương Tuyền, sinh năm 1945 tại Hải Dương, lớn lên ở Hà Nội. 1954 di cư vào Nam, học sinh Chu Văn An, 1963 sinh viên Y khoa Sài Gòn, 1968 thủ khoa kỳ thi Nội trú các Bệnh viện. Làm nội trú rồi thường trú Khu Giải phẫu Trẻ em BV Nhi Đồng với GS Trần Ngọc Ninh là Trưởng khoa. 1975 tỵ nạn Canada, đã đậu 2 Boards về General Surgery, và Pediatric Surgery. 1980 Associate Professor in Pediatric Surgery tại The Montreal Children’s Hospital, McGill University.
 
Nguyễn Lương Tuyền viết:
Những dòng sau đây là phác họa một phần Y nghiệp của vị Thầy của nhiều thế hệ bác sĩ Việt Nam. Năm nay 2021, Thầy Ninh sắp tròn 100 tuổi.
 
Bài viết của Thầy Ninh gần đây nhất, liên quan đến Y Học, mà Thầy gọi là “Bài Giảng cuối cùng”, được đăng trong một số Tập San Y Sĩ tại Canada, Thầy đã kết thúc bài viết: “Tôi rời Sài Gòn năm 1977 và chế độ Xã hội Chủ nghĩa bóp méo nền Y Khoa nhân dân, chủ trương kết hợp một Y Khoa khoa học phôi thai và Nghề thuốc Dân tộc. Trái tim của tôi vẫn hướng về đất nước và nhân dân Việt Nam. Kí ức của tôi vẫn đầy những hình ảnh yêu thương những cuộc đời, những hi vọng không thành của con người Việt Nam. Tôi nhìn nhận sự chịu đựng và can đảm của các anh, các chị khi đổi đời, sự hội nhập rất rực rỡ của các anh, các chị là một chứng minh rằng nền Giáo dục Y khoa ở Sài Gòn của nước Cộng Hòa Việt Nam không phải là dở… bài giảng cuối cùng của đời tôi mong rằng sẽ đem lại cho các anh, các chị một niềm tự tin và tự hào xứng đáng. Xin chào các anh và các chị – cựu sinh viên của Y khoa Đại học Sài Gòn”.
GS Trần Ngọc Ninh sinh năm 1923 trong một gia đình có truyền thống làm nghề dạy học. Năm 1941, Thầy vào học Y Khoa Hà Nội. Thầy kể lại trong tập sách Một chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn [6]: Sự học thuốc ngày xưa là chuyện thiên nan vạn nan. Anh của Thầy bị lao hạch, một người em 5 tuổi chết vì lao phổi và khi thấy Mẹ của Thầy than khóc: phải chi gia đình có một người làm thầy thuốc! Thầy quyết định vào học Y Khoa. Trong nhiều năm, Thầy vừa đi học vừa viết báo Văn Hóa để kiếm thêm tiền giúp gia đình. Một gia đình thanh bạch của một nhà giáo.
 
 
Hình 3: từ phải, Gs May, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Hữu,
Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trịnh Văn Tuất. [Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]
 
Hình 4: Một buổi họp Hội Đồng Khoa Đại học Y Khoa Sài Gòn,
từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet,
Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu,
Gs Ngô Gia Hy. [Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]
 
Việc học thuốc của Thầy, vào lúc đó, hoàn toàn bên người bệnh tại nhà thương. Còn sách vở thì phải vào thư viện gần như mỗi ngày, từ chiều đến tối, cho đến khi thư viện đóng cửa. Thiết tưởng cũng nên biết trường Y Khoa được thành lập từ năm 1902 là trường duy nhất dành cho 3 nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào). Cho tới khi Thầy Ninh vào học 40 năm sau, trường vẫn không có nhiều cải thiện vì do tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến tranh mà người cộng sản gọi là giải phóng, giành độc lập, chống lại quân Pháp xâm lược, bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946. Trường Y Khoa Hà Nội được chia làm hai: một số theo BS Tôn Thất Tùng vào bưng biền chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp do Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản xách động, một số BS và nhân viên Y Tế đã ở lại Hà Nội, trong số này có các BS Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh. Ông cùng một số đồng nghiệp đã từng bị Pháp bắt vào tù ở Hà Nội. Ít lâu sau, tất cả được trả tự do khi vị Khoa trưởng Y khoa lúc đó là GS Pierre Huard đã can thiệp với quân Pháp để các BS, và nhân viên Y tế về làm việc tại các Bệnh viện ở Hà Nội.
Từ năm 1946 đến năm 1948, nội trú các Bệnh viện Hà Nội.
Năm 1949, tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ với luận án Pathophysiologie des traumatismes thoraciques.
Từ năm 1948 tới năm 1950, BS thường trú các Bệnh viện Hà Nội. Năm 1952, sang Pháp du học, Thầy bắt đầu học ở Lyon với GS Guilleminet theo thư giới thiệu của GS Pierre Huard, Khoa trưởng Đại học Y khoa Hà Nội. Guilleminet là một GS nổi tiếng bên Pháp về Giải phẫu Chỉnh trực (Chirurgies Orthopédiques) và Giải phẫu Trẻ em (Chirurgies Infantiles). Ông đã học được từ GS Guilleminet rất nhiều kỹ thuật, thí dụ như mổ môi bị sứt và chẻ hàm (bec de lièvre et division palatine), bệnh giả khớp bẩm sinh (pseudarthrose congénitale). Sau một thời gian học ở Lyon, ông được GS Guilleminet gửi lên Paris, tiếp tục học Giải phẫu Chỉnh trực với GS rất nổi tiếng tại nhà thương Cochin là GS Robert Merle d’Aubigné. Đi học với các GS nổi tiếng ở Pháp là một hành trình đầy gian nan.
 
 
Hình 5: Nguyễn Lương Tuyền tới thăm Thầy, GS Trần Ngọc Ninh tại
Huntington Beach, California 2018. [tư liệu Nguyễn Lương Tuyền]
 
Ta hãy nghe GS Ninh kể lại thời gian đầu của GS trong Service của GS Merle d’Aubigné:
“Tôi từ Lyon lên Paris để vào làm việc trong Khu Trực Nhi (Service d’Orthopédie Infantile) của Bệnh viện Cochin, cát bụi tôi lại trở về với cát bụi. Bốn tháng đầu, tôi lang thang ở hành lang, không được mó tới bệnh nhân. Muốn xem một tấm X-ray cũng phải xin phép bà Y tá trưởng. Thân phận của một anh phụ tá ngoại quốc là thân phận của một kẻ lạc loài. Buổi sáng ở nhà thương, ngồi chồm hổm, mỗi tuần hai lần vào lớp nghe giảng về các bệnh trong tuần, thu hình một xó như con chó tiền rưỡi… ở cửa ngõ, có khi lên lầu để ngó qua cửa kính xem Thầy mổ. Buổi chiều ra thư viện hoặc vào phòng thí nghiệm Mô học / Histologie xem những slides mà chẳng ai thèm xem. Chán nản quá, một bữa tôi xin với Thầy để được đi xem những sưu khảo tài liệu của GS Leucène, đồng thời tôi xin Thầy một đề tài để khảo sát. Hôm sau, Ông cho gọi tôi lên và bảo tôi thử xem có thể rút tỉa ra được một cái gì từ “Hội chứng Volkmann đã thành tật”. Ông còn dặn tôi “nếu không làm được thì hãy nói sớm, Ông sẽ cho một đề tài khác. Từ hôm đó, mỗi buổi sáng, nếu không theo Thầy, tôi lại đi tìm hồ sơ các bệnh nhân cũ và lần lượt gọi bệnh nhân trở lại để khám.
Buổi chiều, tôi ra khảo sát ở thư viện, nhưng trong 10 năm sau cùng cũng chỉ tìm được dăm bài mà không bài nào có thực chất. Tôi đã hơi nản thì thấy một bài của Sterling Bunnell nói về bệnh của các cơ nhỏ ở bàn tay, không dính líu gì đến đề tài của tôi nhưng nhờ nó mà tôi có được một ý kiến mới. Sau khi đã kiểm chứng là ý kiến của mình đúng. Tôi khởi sự viết luận văn và hoàn thành sau một tuần để trình Thầy.
Hai ngày sau, tôi được nhắn vào gặp Thầy khi Thầy mổ xong. Cas mổ lớn, gần 3 giờ chiều mới xong. Bà thư ký mời tôi vào gặp Thầy. Ông hỏi tôi: “Ai dạy anh trình bầy bài khảo luận?” Tôi trả lời là tự tôi. Thầy nói: tôi thích cách anh trình bày, tôi đọc bài anh viết tối qua, đọc một mạch. Anh có ý kiến mới. Từ lâu lắm rồi, tôi không được đọc một bài lí thú như bài anh viết.”
Bài viết của BS Ninh được GS Merle d’Aubigné gửi đăng ở Revue de Chirurgie Orthopédique et de Traumatologie – một Revue rất có uy tín ở Pháp với tác giả là R. Merle d’Aubigné et Trần Ngọc Ninh. Sau “biến cố” đó, GS Ninh, một cách gián tiếp, được thế giới phẫu khoa về xương công nhận Ông là được xuất thân từ “Trường phái Merle d’Aubigné, BV Cochin ở Paris”. Bài viết đã được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. GS Ninh đã được tham dự vào mọi hoạt động của Khoa / Service. GS R. Merle d’Aubigné còn để GS Ninh được giảng dạy tại đại giảng đường. GS Ninh nói “sự học của tôi được bảo đảm ở Paris cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới.”
 
 
Học Giải phẫu Trẻ em với GS Pierre Petit
GS Merle d’ Aubigné giới thiệu Thầy Ninh với GS Pierre Petit, một GS nổi tiếng về Giải phẫu Trẻ em, đang làm Trưởng Khu Giải phẫu Trẻ em tại nhà thương St Vincent de Paul ở Paris. Hai người rất “tâm đầu ý hiệp”. Thầy vẫn giữ liên lạc mật thiết với GS Pierre Petit sau khi rời Pháp để trở về VN năm 1954. Mỗi năm, GS Ninh đều qua Pháp, làm việc với GS Petit ở BV St Vincent de Paul để “update” về Giải Phẫu Trẻ em trong một tháng.
GS Petit có sang VN vào khoảng năm 1965 để giảng dạy sinh viên Y Khoa Sài Gòn tại BV Nhi Đồng trong suốt một năm ở Khu Giải Phẫu Trẻ em của GS Ninh.
 
Hiệp Định Genève 20/7/1954, GS Ninh về nước.
Sau nhiều tháng bị vây hãm, Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp phải ký Hiệp định đình chiến tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Đất nước bị “chia đôi” tại vĩ tuyến 17, miền Bắc cộng sản còn miền Nam là người Việt quốc gia. Hiệp định cũng dự trù sau 2 năm sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Cuộc tổng tuyển cử đã không diễn ra. CSVN đã chuẩn bị chiếm miền Nam bằng võ lực. Đó là chuyện xảy ra sau này.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, chánh phủ quốc gia vừa mới thành lập, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh ngày 7 tháng 7 năm 1954 với gánh nặng phải định cư gần 1 triệu người Bắc chạy trốn chế độ cộng sản di cư vào Nam. GS Ninh từ biệt các GS Petit, Merle d’Aubigné, để trở về miền Nam, cùng lúc các bác sĩ, nhân viên y tế từ miền Bắc, nhất là từ các BV Phủ Doãn, Bạch Mai, di cư vào miền Nam.
GS Phạm Biểu Tâm và một số đông đảo các BS của miền Bắc đã “di chuyển” trường Y Hà Nội vào miền Nam sáp nhập với chi nhánh Y Khoa ở Sài Gòn để thành lập Đại học Y khoa Sài Gòn, cùng với các BS thuộc Section de Saigon như các GS Trần Quang Đệ, Đặng Văn Chiếu, Thái Minh Bạch, Trần Lữ Y, Nguyễn Phước Đại… Các GS hai miền đã cùng nhau xây dựng một Trường Y Khoa tiên tiến, đã đào tạo ra những người thầy thuốc có đầy đủ khả năng vững vàng với trình độ không thua kém các bác sĩ xuất thân từ những trường Y khoa của các nước tân tiến trên thế giới. GS Trần Ngọc Ninh đã sáng lập và điều hành hai Khu thiết yếu: Khu Giải phẫu Chỉnh trực, điều trị các bệnh về xương (Orthopédies) tại BV Bình Dân và Khu Ngoại Khoa Trẻ em (Chirurgie Infantile) tại BV Nhi Đồng Sài Gòn.
 
GS Trần Ngọc Ninh và kỳ thi Thạc sĩ Pháp Quốc
GS Ninh đã viết, cũng trong Tập sách “Một chút Lịch Sử Y khoa Đại học Sài Gòn” [6] do Hội Y Sĩ VN Canada ấn hành 2002: “Với chức vụ phụ trách lớp hay giảng sư, tôi chỉ là con số không: không được vào Hội đồng Khoa để chính thức dự bàn vào công việc của trường Y Khoa. Tôi quyết định lấy bằng Agrégé / bằng Thạc sĩ Pháp. Trên thực tế chỉ là bằng để dạy học.
Năm 1962, tôi được các GS Guilleminet, Merle d’Aubigné cho biết các ông sẽ về hưu và một kỳ thi Thạc sĩ sẽ được tổ chức, tuyển Thạc Sĩ cho 2 môn này. Sau khi hỏi rõ về ngày giờ thi, tôi xin phép ông Khoa Trưởng để đi thi và được phép xuất ngoại.
Đến Paris, tôi mới biết rằng có 12 người dự thi cho 8 chỗ: Paris 2, Lyon 1, Bordeaux 1 nhưng không có chỗ nào do Sài Gòn xin và tôi không có tên trong danh sách các thí sinh dự thi. Tôi là đứa con côi, vô thừa nhận. Còn có 7 ngày thì kỳ thi bắt đầu, tôi lên Văn phòng Khoa Trưởng Y Khoa thì được trả lời là việc thi cử đó không phải là việc của Khoa Trưởng. Tôi lên hỏi Bộ Giáo Dục. Bộ Giáo dục trả lời là quyết định về kỳ thi là do Hội đồng Giáo dục cao cấp, 6 tháng nữa mới họp lại. Vả lại Sài Gòn không có chỗ trống thì thi rồi sẽ về đâu?
Trước cái viễn tượng khăn gói trở về, tay trắng lại hoàn tay trắng, tôi quyết định một quân bài chót, viết một lá thư gửi cho Tổng thống Pháp Charles de Gaulle, xin được đặc cách đi thi, không phải để lấy chỗ nào cả. Lá thư được gửi bằng ống hơi / pneumatique đến Điện Élysée. Điều lạ lùng là sáng ngày hôm sau, tôi nhận được một lá thư bằng pneumatique từ văn phòng của TT gửi ra, cho biết TT sẽ tiếp tôi vào ngày mai lúc 10 giờ sáng. Cuộc tiếp xúc diễn ra ở phòng đợi và rất ngắn. TT bước ra với một ông béo, lùn và chỉ nói: “Tôi xin lỗi, tôi không nghe ông được. Ông nói với Cố vấn Giáo Dục của tôi” rồi đi vào.
Sau khi nghe tôi trình bày, Ông Cố vấn nói: “Tôi sẽ trình TT, tôi không hứa gì cả. Ông sẽ nhận được tin vào lúc thuận tiện”. Và tôi ra về.
Hai hôm sau, tôi nhận được lá thư bằng pneumatique. Giấy của Bộ Giáo dục nói rằng tôi được phép dự kỳ thi Agrégation des Facultés Françaises de Médecine, Section de Chirurgie Orthopédique. Tôi chỉ cần có thế, đúng in như thế. Tôi đã đến, đã thi và đã đỗ. Sau khi thi, GS Guilleminet, đến từ Lyon đã đón tôi. Ông dẫn tôi vào một restaurant để ăn món ốc bourgogne. Tôi mời ông sang VN. Ông đã nhận lời. Khoa Giải phẫu trẻ em được thành lập từ đó, trong vinh quang”.
GS Trần Ngọc Ninh đã xây dựng lên hai chuyên khoa quan trọng của Đại học Y khoa Sài Gòn. Ông điều hành hai chuyên khoa này, và không ngừng phát triển, tiến bộ không thua bất kỳ nơi nào trên thế giới. Công trình vun đắp của ông đã bị những người CS miền Bắc phá vỡ, đưa Y khoa của miền Nam giật lùi hàng ba, bốn chục năm. [Nguyễn Lương Tuyền, MD, FRCSc]
 
VỚI BÁO SVYK TÌNH THƯƠNG
Học Y khoa, tôi không phải là học trò theo cái nghĩa là đệ tử ruột của Gs Trần Ngọc Ninh: học trò của Thầy Ninh ở trường Y có thể đếm trên mười đầu ngón tay: rất sớm có Bùi Duy Tâm, Phạm Văn Biểu, cả hai đều dở dang, rồi Vũ Văn Nguyên mất sớm khi du học Mỹ, và sau này là Trần Xuân Ninh (Ninh Con, để phân biệt với Ninh Bố là Thầy Ninh), Võ Thành Phụng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Lương Tuyền… Khác với Gs Phạm Biểu Tâm được sinh viên Y khoa yêu mến; với Gs Trần Ngọc Ninh, sinh viên có thể nể phục tài năng kiến thức và cả cái uy của ông nhưng một số không thích ông vì quá nghiêm khắc.
 
Tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh không phải bên giường bệnh hay trong phòng mổ nơi các bệnh viện, mà chủ yếu qua những hoạt động sinh viên với tờ báo Tình Thương trong khoảng thời gian 1963-1967. Các bài viết của Thầy Ninh trên báo SVYK Tình Thương đều với một tầm nhìn chiến lược đặt ra những vấn đề lớn của nền Y tế, Giáo dục và Văn hóa Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự:
TT 1: Y tế và Chính Trị
TT 3-4: Những Vấn đề Hiện tại của nền Giáo dục Việt Nam
TT 5: Tinh Thần Đại Học
TT 12: Phỏng vấn Giới Gs Đại học về Vấn đề Sinh viên
TT 14: Nền Đại học Y khoa Việt Nam
TT 20: Các Vấn đề Thanh niên và Sinh viên trong Thời đại
 
TRẦN NGỌC NINH VÀ NUÔI SẸO
Ngay từ số Tình Thương ra mắt, qua Gs Trần Ngọc Ninh, tòa soạn đã nhận được bản thảo truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn và bắt đầu cho đăng từng kỳ trên báo với lời giới thiệu trang trọng: “Nuôi Sẹo là một tác phẩm mà nhiều nhà văn tìm đọc từ hơn 10 năm nay [thời điểm 1964, ghi chú của người viết]. Cuốn truyện đã không thể xuất bản được ở miền Bắc, cộng sản. Nó cũng không thể ra đời được ở miền Nam, dưới chế độ cũ. Tác giả là Triều Sơn, một sinh viên đã rời mái trường để đi làm cách mạng, đã làm đủ nghề, đã đặt chân tới nhiều nơi trên thế giới. Và Triều Sơn đã chết ở Paris khi Nuôi Sẹo sửa được gần xong tập đầu, mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây. Nhưng vài dòng ngắn ngủi này không thể đủ để các bạn, nhất là các bạn trẻ biết rõ Triều Sơn và Nuôi Sẹo. Bởi vậy chúng tôi xin nhường chỗ cho Trần Ngọc [bút hiệu của Gs Trần Ngọc Ninh], một người bạn thiết của Triều Sơn viết “Kỷ niệm về Triều Sơn.” Trần Ngọc đã gặp lại Triều Sơn sau 15 năm xa cách và đã làm quen với Nuôi Sẹo ở đó. Triều Sơn đã sống những ngày sau cùng với Trần Ngọc. Cuộc tao ngộ đó là cái nhân cho sự ra mắt của Nuôi Sẹo ở đây. Và chúng tôi xin ghi đậm một nét chân thành cám ơn Trần Ngọc, người đã cho chúng tôi cái hân hạnh đón chào Nuôi Sẹo.” [Trích dẫn Tình Thương số 1, 01/1964]
Bài viết giới thiệu Nuôi Sẹo của Gs Trần Ngọc Ninh, một tài liệu hiếm quý tưởng đã bị thất lạc mà nay tìm lại được. Tuy là viết về Triều Sơn nhưng cũng là tấm gương phản chiếu một chân dung khác thời trai trẻ của Trần Ngọc Ninh nên chúng tôi chủ ý cho trích đăng trong bài viết này.
“Mười Lăm Năm Ấy, Kỷ Niệm về Triều Sơn” của Trần Ngọc
Tôi không biết làm thế nào để nhìn thấy trong một người trẻ tuổi cái mầm của tài năng. Tôi bắt đầu quen Triều Sơn khi vào lớp Toán Chuyên khoa năm 1939. Tôi còn nhớ Triều Sơn nói với tôi, khi hai người vào ngồi cùng một ghế:
_ Có anh em cũ thì học cả Toán cho vui, nhưng tôi học Triết cũng thích.
“Anh em cũ” là hai anh bạn khác, cùng học với Triều Sơn những năm về trước ở trường Bưởi; nhưng ngay từ buổi đầu ấy, tôi cũng đã là “anh em cũ” của Triều Sơn. Năm ấy Triều Sơn 18 tuổi, người to lớn, má đầy, mặt trắng nổi lốm đốm những mụn nhỏ của thiếu niên, tóc thưa và chải lật về đằng sau, mình đóng một cái áo the đen. Cả lớp chỉ có hai chúng tôi mặc ta, nhưng có lẽ đấy là hai điểm độc nhất giống nhau.
 
 
Hình 6: Chân dung Triều Sơn Bùi Văn Sinh 1921-1954
[nguồn: báo Văn 15.05.1965, số Đặc biệt Truy Niệm Triều Sơn]
 
Triều Sơn thích đọc Triết hơn Toán, và tôi thích học Toán hơn Triết.
Thực ra Triều Sơn đã tiến sâu vào Triết học từ khá lâu rồi; khi mới học năm thứ ba Trung học phổ thông, anh đã đọc hết Kant, Fichte và Hegel; ảnh hưởng của Triết học Đức sau này còn sâu xa hơn nữa vào anh, qua Marx, qua Husserl, nhưng Triều Sơn không phải là người của một dòng tư tưởng, và anh đã học cả Triết lý cận đại của Âu châu lẫn triết lý cổ Phật-Lão của Á đông. Hơn nữa, Triều Sơn ngay từ lúc ấy đã có một cái công phu suy nghĩ sau này sẽ đưa tư tưởng của anh vượt lên trên những lý thuyết vụn vặt của các môn phái. Tuy vậy mà trong lớp, không có dấu hiệu gì tỏ ra rằng Triều Sơn đã hiểu biết nhiều như thế; số điểm của anh chỉ vào hạng trung bình, kể cả về triết học; có lẽ cái mầm vẫn còn thu hình trong hạt, hoặc giả những ý nghĩ đã có chút đặc sắc của Triều Sơn không hợp với cách học trọng hư văn trong các trường chăng?
Sau khi đậu Trung học, mỗi người chúng tôi theo một ngả đường. Triều Sơn, người không thích Toán, lại vào lớp Toán học đại cương. Nhưng Triều Sơn không học Toán vì Toán; suốt ngày tôi gặp anh ở thư viện đọc về triết lý của toán học; những sách của Whitehead, của Bertrand Russell, của Hamilton được giũ bụi thời gian và ăn sâu vào óc người sinh viên trẻ tuổi. Hồi ấy anh chỉ nói chuyện về “vô cùng“, về “số giả“, về cách lý luận trong toán học, về căn bản của sự hiểu biết… Kết quả là cuối năm, sau khi thi hỏng, Triều Sơn bỏ học nhưng hài lòng vì đã lấp được một lỗ hổng trong tư tưởng.
Trong ít lâu, tôi không gặp Triều Sơn nữa. Thời kỳ này mới chính là thời kỳ nẩy nở của tài năng. Cái gì đã làm cho cái mầm nẩy lá, đục đất và vươn lên trời xanh? Sau này khi Triều Sơn viết Con đường văn nghệ mới, anh sẽ nhấn mạnh về điểm phải gần dân chúng; văn nghệ sĩ nào xa dân chúng sẽ cằn cỗi, hoặc trụy lạc tinh thần; đi vào quần chúng, sống với đại chúng, hòa nhịp sống của mình vào đời sống chung, phải là phương châm của văn nghệ sĩ tiền phong. Đấy là một lời khuyên sống: quần chúng đã rèn luyện tài năng của Triều Sơn, đã nuôi tinh thần Triều Sơn, đã nung đúc tư tưởng của Triều Sơn. Anh lăn mình vào cách mạng, làm thợ ở mỏ than Hòn Gay, làm hành chính ở Hải Dương, dạy học ở Phú Thọ, làm phu ở dưới tàu, lưu lạc qua Quảng Đông để chung đụng với người dân Trung Hoa mới, ở Hồng Kông, Tích Lan, đi Phi châu làm thợ nguội, rồi về Pháp, sống với anh em lính thợ ở Marseille, Bordeaux và Ba Lê.
Và tôi gặp lại Triều Sơn ở Ba Lê.
Thực ra giữa quãng, tôi còn gặp Triều Sơn vài ba lần khác, thời gian vội vàng của một cuộc lên bộ, nhưng cũng không có gì đáng kể. Một bữa thì anh mới ở ngoài Khu vào, và nói chuyện về những thắc mắc tinh thần mà duy vật lịch sử không giải quyết nổi; một bữa khác anh bàn luận về quan niệm của Trang Tử về tự do; một bữa nữa, phê bình văn nghệ, và nói chuyện về sự trụy lạc của người trí thức bị khoa cử đưa đến một con đường danh lợi dễ dàng xa cách hẳn với đời sống của người dân cần lao. Rồi Triều Sơn vào Sài Gòn làm báo, giũa ngòi bút trong những truyện ngắn, trong những bài thơ tự do (dưới tên là Ninh Huy), hay thơ trào lộng (dưới tên Thang Thang), hoặc tranh luận về Nghệ thuật, về Triết lý hay về những vấn đề xã hội. Trong khoảng này, anh viết bản kịch thơ Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp kể sự thức tỉnh của một tâm hồn thấm nhuần Phật học trước sự đau khổ hiện tại của cả dân tộc. Giặc Cờ đen có một cấu tạo rất cổ điển; Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp vào xã hội của Việt Nam và dùng lời thơ cổ phong, khi âm u, khi thâm trầm, khi dồn dập, để tả tâm tình của các nhân vật. Tuy thế sau này, Triều Sơn có nói rằng về phương diện thơ thì Giặc Cờ đen chỉ được có vài câu là anh vừa ý; về phương diện kịch thì sự thành công chắc chắn hơn, nếu anh có thì giờ để thực hiện sự ra mắt của vở kịch trên sân khấu.
Nhưng lúc ấy Triều Sơn còn ôm trong người cái mộng lớn về Nuôi Sẹo.
Nuôi Sẹo là gì? Tôi gặp lại Triều Sơn trong một căn phòng nhỏ hẹp, méo mó, chật sách, than và giấy ở phố Bièvre, quận Năm Ba Lê, và cũng làm quen với Nuôi Sẹo ở đó.
Nuôi Sẹo là nhân vật chính của một tiểu thuyết dài về xã hội Việt Nam trong buổi cuối cùng của thời thuộc Pháp. Làm mõ làng, chuyên nghề đòi nợ thuê và chôn người. Nuôi Sẹo là một con sâu bọ trong cái xã hội có tôn ti trật tự của một làng Bắc Việt. Triều Sơn đã muốn nhờ con mắt của Nuôi Sẹo để tả cái xã hội phong kiến ấy, rồi lại nhờ con người của Nuôi Sẹo để mở hé một cái quan niệm về cuộc đời.
Đây không phải là một chuyện dễ. Một bức họa đồ sộ đòi hỏi công phu và thì giờ rất nhiều: Triều Sơn để vào đó năm, sáu năm của anh, lúc nào cũng cặp chặt tập bản thảo trong người, từ Khu ra Hà Nội, và trong tất cả những chặng đường luân lạc của anh; xúc than nuôi lò cả ngày, buổi chiều tối lại trút bộ áo xanh của người phu tàu ra để chữa một hai câu văn; hoặc là nằm ở Yễm Yễm thư trang, sửa lại vài đoạn chưa được vừa ý. Lúc nào trong đầu óc anh cũng có Nuôi Sẹo; Nuôi Sẹo chưa ra đời mà làng văn Việt Nam đã biết cả hình dáng của gã, các nhà xuất bản đã tranh nhau đỡ đầu cho gã, đã có nhà văn Pháp hẹn với tác giả để dịch chuyện gã sang tiếng Pháp, đã có họa sĩ đi tìm tài liệu để vẽ lại vài cảnh trong cuộc đời gã. Triều Sơn cứ đắn đo, sửa chữa, xóa bỏ, thêm thắt, và để vào đây tất cả sức khoẻ của anh, cho đến ngày không cầm được bút nữa.
Nhưng bức họa xã hội không phải là cái khổ tâm chính của Triều Sơn. Cái khổ tâm chính của Triều Sơn là Nuôi Sẹo, là con người Nuôi Sẹo, là tâm lý Nuôi Sẹo…
Thỉnh thoảng tôi đi uống nước với Triều Sơn. Ở khu Saint-Germain-des-Prés, khu văn nghệ của Ba Lê, có một quán café, cửa sơn màu đỏ hung, nhỏ nhắn và ấm áp, lúc nào cũng đông khách; khi nào vào đấy thì Triều Sơn ngồi hàng giờ không đứng dậy, với một chén suc-cu-la bốn mươi lăm quan. Tại sao Triều Sơn thích cái quán ấy, tôi không biết. Ở Ba Lê, anh có giao thiệp với các văn sĩ Pháp Vercors, Marcel Aymé, Jean-Paul Sartre; có lẽ vì sự gặp gỡ của anh với những nhà văn ấy thường dùng cái khung cảnh của quán này. Cũng có lẽ rằng Triều Sơn hay tới họp ở hội Triết học cũng ở khu ấy, đã có lần anh tới diễn giảng ở hội và khi ra về quen rẽ vào quán đó. Ngồi đấy với Triều Sơn, tôi đã được nghe anh nói cho nghe về những vấn đề trong Nuôi Sẹo…
 
 
Hình 7: từ phải, một trang Nuôi Sẹo, đăng từng kỳ trên báo Sinh viên Y khoa
Tình Thương số 14 với mẫu bìa Nghiêu Đề, tháng 2 Xuân Ất Tỵ 1965 [tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
Tôi biết Triều Sơn đã xét lại tất cả văn phạm Việt Nam và có những ý nghĩ rất đặc sắc về văn phạm. Anh không lùi khi thấy những điểm cần phải bổ khuyết cho nghề được tinh vi. Khi dùng một chữ không chắc chắn về chính tả, Triều Sơn lại xem lại các tự điển, và tuy đã cẩn thận, nhưng vẫn lo là bỏ sót nhiều chữ viết sai. Thích triết học như anh, mà phải nhịn không giở một cuốn triết lý trong hằng tháng, để khỏi tiêm nhiễm cách viết trừu tượng của các triết gia…
Triều Sơn sửa đi chữa lại Nuôi Sẹo năm sáu lần, vẫn chưa chịu cho in. Tập đầu, lúc mới viết xong dài 900 trang, đúc lại còn 400 trang. Triều Sơn vẫn chưa cho là đủ, “Còn dài quá, 300 trang thôi”, anh nói. Các bạn thì sợ rằng rút quá sẽ thành khô. Nhưng Triều Sơn chỉ hứa lần này chữa nữa là “lần cuối cùng”, rồi sẽ đưa cho tất cả các bạn xem lại và phê bình, và rồi chữa theo những lời phê bình ấy thôi, trước khi in. Anh nói: “Xong đây, tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm học nghề của tôi thành một quyển Tôi tập viết văn“. Nhưng Nuôi Sẹo cũng chưa xong hẳn, công việc còn dở dang thì bệnh nặng phát ra và anh phải bỏ dở mãi mãi.
Triều Sơn còn để lại một tập truyện dài bằng thơ lục bát, vài truyện ngắn, mấy bài thơ, một cuốn triết học nhập môn viết nửa chừng, và bản thảo của những thư từ bàn luận về triết học và xã hội học với mấy giáo sư ở Collège de France và Sorbonne (Jean Wahl, Gurwich). Nuôi Sẹo đã sửa gần xong tập đầu, tập thứ hai còn là một đống bản thảo hỗn độn. Còn tất cả những hẹn hò khác, anh mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất của Ba Lê… [Hết trích dẫn, Tình Thương Số 1, 1-1964] (4)
 
 
Hình 8: Truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn. Một Nuôi Sẹo Phục Sinh,
do Trần Hoài Thư thực hiện. Thư Quán Bản Thảo, Tạp chí VHNT Số 77 Tháng 11.2017.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
Và để rồi, chẳng thể ngờ được hơn nửa thế kỷ sau [1963-2018], tôi có dịp gặp lại Thầy Ninh, trao lại Thầy những trang sách của truyện dài Nuôi Sẹo ngày nào, một Nuôi Sẹo Phục Sinh, tuy không toàn vẹn nhưng với rất nhiều công lao của nhà văn Trần Hoài Thư và anh em Thư Quán Bản Thảo. (5)
Và cũng trong dịp này, tôi được biết thêm Triều Sơn có một người con trai còn sống ở Việt Nam. Cô Minh Chân con gái của anh ấy gọi Triều Sơn Bùi Văn Sinh là “Ông Nội”, thì hiện sống ở Nam California, cách đây bốn năm có lần tìm tới thăm Thầy Ninh. Qua giới thiệu của Thầy Ninh, tôi được nói chuyện với Minh Chân, được biết thêm tên bố cô là Nguyễn Vân Sơn sinh ngày 7 tháng 10 năm 1951 [bố cô mang họ mẹ, là nữ sĩ Nguyễn Thị Lan Phương, sinh năm 1921, nay cũng đã mất].
Rất mong rồi ra, khi liên lạc được với người con trai của Triều Sơn, sẽ có một ấn bản đặc biệt truyện dài Nuôi Sẹo từ Thư Quán Bản Thảo gửi tới anh, như người thừa kế phần gia tài tinh thần của thân phụ mà có lẽ chính anh cũng chưa được biết mặt và chỉ được nghe Mẹ kể lại những năm về sau này. Triều Sơn Bùi Văn Sinh mất ở Paris năm 1954, do bệnh xơ gan / cirrhosis, lúc đó Triều Sơn chỉ mới 34 tuổi.
 
VỚI BÁO BÁCH KHOA MỘT CHÂN DUNG VĂN HÓA
Không chỉ qua báo SV Tình Thương, tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh hơn qua tờ Bách Khoa của anh Lê Ngộ Châu, địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Đó là một chân dung Trần Ngọc Ninh khác, trong lãnh vực văn hóa.
Được đọc những bài viết của Gs Trần Ngọc Ninh trên báo Bách Khoa, tiếp cận với con người văn hóa rất đa dạng của Thầy Ninh qua những bài viết với nhiều thể loại như: tôn giáo Đức Phật giữa chúng ta, Đức Phật và sự Cải tạo Xã hội, nhân chủng học với Claude Lévi-Strauss, dân tộc học qua những huyền thoại và huyền thoại lý học và cả về ngữ học, như bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ, ông đã rất sớm giới thiệu Noam Chomsky với những phát kiến về Ngữ học Cơ Cấu / Structural Linguistics, với lý thuyết về một Ngữ pháp Hoàn vũ / Universal Grammar và để rồi ông không ngừng theo đuổi và tìm cách ứng dụng để soạn bộ Ngữ Pháp Việt Nam sau này. (7)
 
 
Hình 9: Tại nhà Võ Phiến 30.07.1994, từ phải: Gs Trần Ngọc Ninh,
Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến, vợ chồng Lê Tất Điều.
[tư liệu Viễn Phố]
 
Hình 10: Tại nhà Gs Trần Ngọc Ninh 1994, từ trái: nhà văn Võ Phiến,
Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Văn Trung từ Montréal Canada, Ngô Thế Vinh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
Gs Trần Ngọc Ninh không chỉ là một giáo sư Y khoa lỗi lạc, ông còn là một nhà văn hóa kiến thức rộng trải rộng trên nhiều lãnh vực, một mẫu mực đào tạo trí thức theo quan niệm giáo dục cổ điển Âu châu. Là giáo sư Y khoa, ông còn được mời đảm trách giảng dạy môn Văn minh Đại cương và Văn Hóa Việt Nam cho Đại học Vạn Hạnh của Thích Minh Châu, và có bài viết trên Tập san Tư Tưởng.
 
 
Hình 11: Bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử.
Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
 
Hình 12: Thủ bút của GS Trần Ngọc Ninh gửi Ngô Thế Vinh khi ra mắt
cuốn sách Ước Vọng Duy Tân 2012. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN
Biến cố 1975, một cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ sau ngày phân chia đất nước với Hiệp định Genève 1954.
Sau 1975, vẫn các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc vào Nam còn ở lại như Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Đào Đức Hoành, Gs Nguyễn Đình Cát… các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi ngày phải đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện hay xa hơn tới trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các Thầy ngoài việc chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy cho sinh viên, từ nay còn phải làm thêm việc của y công như lau quét các phòng vệ sinh và cả đổ rác. Không làm sao mà quên được cảnh tượng một Gs Phạm Biểu Tâm phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân, Thầy Tâm rất sợ Cô lo, nên dặn dò không báo tin cho Cô biết.
Như từ bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy vẫn luôn giữ được nhân cách cao trọng của người trí thức, không phát biểu những lời xưng tụng chế độ mới. Các Thầy cũng không thể không não lòng khi hàng ngày phải chứng kiến trình độ dốt nát của nền y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học “chỉ có hồng mà không chuyên” nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra.
Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng, một cựu nội trú bệnh viện lâu năm kể lại, là khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe vú?” Bs Dũng đáp: “Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu.” Dũng đã bị họ mắng: “Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả.” Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao ngán lắc đầu. (3)
Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những ngày ảm đạm như thế, Gs Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng chua chát và khinh mạn: “Hội chẩn với mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro.”
Giáo sư Vũ Quí Đài, vị khoa trưởng cuối cùng của Y khoa Sài Gòn, còn nhớ là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp thu trường Y khoa, họ triệu tập một buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn nơi đại giảng đường gọi là để trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm dọa, Gs Vũ Quí Đài kể: “Lúc ấy Gs Trần Ngọc Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều: Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu“. (3)
Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh tâm sự:
“Trên bình diện khoa học, sau khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam rồi, cuộc đấu tranh mới bắt đầu giữa Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa nhân dân của miền Bắc. Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân là nạn nhân, nhưng cũng là tòa án, tòa án nhân dân. Giải thưởng là tương lai sức khỏe của Việt Nam. Sức khỏe cùng nghĩa với sức lao động. Chủ nghĩa không che lấp được sự thật…” 
 
Hình 13: Bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn 1954-1975.
Trần Ngọc Ninh, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002. (tr. 38-39, đề cập
tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa Khoa Học của miền Nam & Y Khoa Nhân Dân
của miền Bắc). [tư liệu Ngô Thế Vinh] (6)
 
Năm 1977, sau khi nghe được lệnh của các vị lãnh đạo y học miền Bắc rằng từ nay không được dạy y lý nào “cao” không thể áp dụng ở Việt Nam như biến hóa của nước và các chất điện giải hoặc pháp dùng thuốc kháng sinh với những kháng sinh sau đời penicillin, hoặc những phẫu thuật quá cầu kỳ khó khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu lớp bệnh lý phẫu khoa của tôi: “Đây là lần cuối cùng và các anh chị em là những sinh viên cuối cùng mà tôi giảng Y khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng Y khoa nhân dân. Và anh chị em cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những người thừa tự chót của Y khoa khoa học.”
Sinh viên Nguyễn Thanh Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng, bị bắt giam ở Chí Hòa, đã được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự do, năm 1976 Công trở lại trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe được những lời nói ấy, Công đã dự định lập “Tòa án Nhân dân” để hạch tội tôi. Không phải vì thế mà tôi rời Việt Nam”.
Gs Ninh nhận định tiếp: “Do nhận thức được toàn bộ chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là sự mạo danh xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời. Và điều tệ hại hơn nữa là “Đảng và Nhà Nước muốn cưỡng chiếm Y khoa khoa học để dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa nhân dân là để cho nhân dân.” (6)
Và rồi rất sớm, chỉ 2 năm sau ngày 30 tháng Tư, 1975 vào ngày 6 tháng 6 năm 1977, Gs Trần Ngọc Ninh đã cùng gia đình xuống thuyền vượt biển tìm tự do, giữa lúc ông được chúc mừng là một trong số 4 người được Hội Đồng Chính Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư với lương bổng cao nhất.
Cuối cùng ông và gia đình tới được đảo Pulau Besar Mã Lai, và ông chọn đi định cư tại Hoa Kỳ để phải bắt đầu lại từ đầu, thay vì đi Pháp là nơi mà ông đã được đào tạo và thành danh.
Sự bỏ đất nước ra đi rất sớm của một khuôn mặt trí thức lớn như ông lúc đó đã gây ra một chấn động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và trên toàn trí thức miền Nam thời bấy giờ.
 
DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN
Tôi tới Mỹ sau Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi cả hai thầy trò sau một thời gian đèn sách trước sau cũng trở lại nghề cũ. Từ New York, tôi về làm việc trong một bệnh viện VA ở vùng nam California, tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi vẫn có dịp được gặp Thầy.
Trong một buổi gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tùy bút nổi tiếng của miền Nam từ trước 1975; lúc ấy anh Võ Phiến còn ở trên Los Angeles; anh thú vị đem ra khoe chiếc bình trà của Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất quý Nguyễn Tuân. Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình trà sau bao năm quen dùng. Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một chuyến anh chị sang Pháp năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.
Chiếc bình trà nhỏ giản dị bằng sứ tráng men xanh, nơi mặt đáy có in chữ Tonkin như vậy đã khá lâu năm, trông rất tầm thường nhưng là của Nguyễn Tuân. Một Nguyễn Tuân với những trang tùy bút mượt mà của Vang Bóng Một Thời: của Chén trà trong sương sớm với nhân vật cụ Ấm, có phong cách uống trà gần như một thứ trà đạo.
Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm nói với người con trưởng:
“Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học yêu như con…
Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.” [hết trích dẫn, Vang Bóng Một Thời]
Đó là văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến, của một thời vang bóng.
Để rồi tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân hóa thân; rất biết sợ bạo quyền để tồn tại, mau chóng xu thời để được vào đảng, rồi leo lên tới chức Tổng thư ký hội Văn nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất, Nguyễn Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo “Nhìn rõ sai lầm” quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng Một Thời, đã làm nên tên tuổi Nguyễn Tuân. Sau đó là một Nguyễn Tuân đã biết vận dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Nếu với Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy của thể văn tùy bút trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký hết lòng phục vụ Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được xếp là một cây bút tuyên huấn hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc tới với câu nói: “Tôi còn sống được đến hôm nay là nhờ biết sợ…”
Người bạn tấm cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975 khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn, tới Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo Thơm 1962 in tuyệt đẹp với những tranh minh họa của Nghiêu Đề, thì đó là một Nguyễn Tuân hả hê về cuộc hội ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã hơn một lần dứt khoát chối từ.
Bình trà nhỏ mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm trên tay ngắm nghía kia, không phải của cụ Ấm với Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn Tuân theo kháng chiến, mỗi ngày đã rót ra những chén đắng trong suốt hành trình bi kịch của hơn nửa đời người.
 
 
Hình 14: Thăm nhà văn Võ Phiến trên Los Angeles, từ trái,
Gs Trần Ngọc Ninh, nhà văn Võ Phiến, Ngô Thế Vinh; phải: Trần Ngọc Ninh
cầm trên tay ấm trà nhỏ của Nguyễn Tuân mà Võ Phiến đem khoe.
[photo by Viễn Phố]
 
Hình 15: Làm Gì? một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần Ngọc Ninh,
không muốn được nhắc tới. Là một giáo y khoa với tiếng tăm quốc tế nhưng khi tới Mỹ
như một bác sĩ ngoại quốc, ông vẫn phải khởi nghiệp từ đầu. Giữa thời gian đèn sách,
ông vẫn có hùng tâm hoàn tất một tập luận đề chính trị trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách:
“Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu”
(Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado). [tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Năm 2004, khi bản tiếng Anh The Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do Nxb Ivy House xuất bản, Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:
“Ngô Thế Vinh bắt đầu viết văn khi đang còn là một sinh viên. Từ 1963, cùng với các bạn trong Đại học Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn cho những ý tưởng nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang nặng tính “chủ nghĩa”. Ngay khi còn là một nhà báo sinh viên, từ rất sớm, Ngô Thế Vinh đã quan tâm tới vấn đề người Thượng.
Sau khi tốt nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách Dù chủ yếu hoạt động trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai Xanh là bối cảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh thật, người thật, và “thật hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng giữa cuộc chiến tranh và ngay sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với phe bại trận tiếp theo sau một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một công trình của lương tâm và dấn thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên, cuốn sách đã được giới trí thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng đồng thời cũng bị chính quyền miền Nam lên án là phá hoại.
Bây giờ đã 30 năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh rất tuyệt của Nha Trang và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng rãi, bởi vì vấn đề sống còn của các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung phần được đề cập tới trong Vòng Đai Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của hôm nay.
Đối với người Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc chiến tranh hôm nay và cả trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà Vòng Đai Xanh như một điển hình đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những sắc dân Thượng ấy đã không có tiếng nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm lặng” của họ mới thực sự được lắng nghe? – Trần Ngọc Ninh, Viện Việt Học, tác giả Tuyết Xưa.
 
 
Hình 16: Hình trái, bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn Vòng Đai Xanh
do Ivy House, USA xuất bản 2004; giữa, bìa Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ Sài Gòn 1970;
phải, bìa sách song ngữ Vòng Đai Xanh / The Green Belt, Nxb Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
 
Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt, tôi đều có gửi biếu Thầy Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với một câu trả lời: “Vinh bây giờ đã thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa.” Tôi lãnh hội ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.
 
MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC
Khác với thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào chính trị và cả đảng phái, nay sắp bước vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý viết về Gs Trần Ngọc Ninh và có cảm tưởng với Thầy Ninh, chính trị nay như một giai đoạn đã vượt qua và Thầy chỉ muốn được nhắc tới như một “chân dung văn hóa“.
Nói về văn hóa, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một trích đoạn trong Tuyết Xưa [tr.100]: “Đối với các cộng đồng người, văn hóa vừa là một dấu hiệu để nhận nhau và phân biệt ‘kẻ-kia’ vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự sống của đoàn thể trong cái phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ…” (2)
Viết về Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới hơn một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, thì chân dung văn hóa của Gs Trần Ngọc Ninh là một đề tài rất phong phú và hấp dẫn để các bạn khám phá dấn thân vào.
Như một tâm sự cuối đời, khi trả lời Trần Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ sau này ở Viện Việt Học, Gs Trần Ngọc Ninh phát biểu:
“Đến nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy rằng sự hiểu biết, sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn của các hiện tượng (trong đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận sinh học của con người trên mặt đất này.” (1)
 
SỰ RA ĐI CỦA MỘT NHÂN VẬT CÔNG CHÚNG ĐÁNG KÍNH
 
 
Hình 17: Bia mộ của Giáo sư Trần Ngọc Ninh. [photo by Dr. Nghiêm Đạo Đại,
thứ Hai, ngày 11 tháng 8 năm 2025, tư liệu của Việt Nguyên]
 
Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản,được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.
 
NGÔ THẾ VINH
Hà Nội 1954 – Sài Gòn 1975
California, July 11, 2018 – August 16, 2025
[ CREATIVE WORLD OF SOUTH VIETNAM
& OVERSEAS TO THE PRESENT VOL.2 ]
 
Tham Khảo:
1/ Ước Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh. [chủ biên Trần Uyên Thi]; Viện Việt Học xuấn bản 2012
2/ Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000
3/ Giáo sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập San Y Sĩ Canada 201, tháng 05.2014
4/ Mười lăm năm ấy, Kỷ niệm về Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu Trần Ngọc], Nguyệt san Tình Thương, số 1, Tháng 1, 1964
5/ Nhà Văn Triều Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 77, Tháng 11.2017
6/ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada 2002
7/ Tạp chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt Online https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/thuvien-NV.php
8/ Thư tịch của GS Trần Ngọc Ninh. Phạm Lệ Hương, Ban Thư viện Viện Việt Học 18/04/2020