Wednesday, December 3, 2025

PALESTINE. NHỮNG DÒNG THƠ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

Phan Tấn Hải

Chụp lại từ video đọc bài thơ “Nếu tôi phải chết” để tưởng niệm
nhà thơ Refaat Alareer (1979 - 2023). (Hình: YouTube)
 
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót.
Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được  nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụn, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm, rút dao, đâm kiếm để hoàn tất những cuộc thập tự chinh, hay đi chiếm đất từ Á sang Âu, từ Nam ra Bắc. Các thương binh thời đó không được chữa trị, vì cũng chẳng có bác sĩ quân y nào, phải nằm chờ chết nơi ven rừng, góc biển. Bây giờ thì chiến tranh dữ dội hơn, phần lớn là chết liền, chết chớp nhoáng, và kể cả chết mà chẳng hiểu vì sao.
Hãy đọc những dòng này của Mosab Abu Toha, một nhà thơ Palestine 33 tuổi, khi anh kể về một cái chết ở Gaza:
 
Chị ngủ trên giường,
không bao giờ thức dậy nữa.
Giường của chị đã trở thành nấm mồ của chị,
một nấm mồ bên dưới trần phòng,
trần nhà, một đài tưởng niệm.
Không tên, không năm sinh,
không năm chết, không bia mộ.
Chỉ có máu và một khung ảnh bị vỡ
kế bên chị.
 
Nhà thơ Mosab Abu Toha là một người Palestine sinh trưởng trong rào kẽm gai và các nhà lều tỵ nạn ở Gaza. Năm 2014, nhà thơ Mosab Abu Toha đã được truyền cảm hứng từ một cuốn sách mà anh cứu được từ đống đổ nát để thành lập Thư viện Công cộng Edward Said tại Thành phố Beit Lahia, thư viện tiếng Anh đầu tiên của Gaza. Học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky đã ca ngợi thư viện là "một tia sáng và hy vọng hiếm hoi cho những người trẻ tuổi ở Gaza". Abu Toha ước mơ qua thư viện và thi ca sẽ kể lại những ước mơ hạnh phúc với những người dân Gaza khác trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm dưới sự chiếm đóng của Israel, cũng như những trở ngại mà anh phải đối mặt trong việc tiếp cận các nguồn lực, từ sách vở đến nhà cửa. Abu Toha là nhà thơ thế hệ trẻ. Trước anh, đã có những nhà thơ Palestine khác đã bị quân đội Israel giết.

Nhà thơ Mosab Abu Toha cứu được 1 cuốn sách
từ gạch vụn Gaza năm 2014
 
Trong các bài thơ mà bom đạn Israel muốn xóa sổ, có những dòng thơ của Refaat Alareer (1979 - 2023) về lời dặn dò người sống sót rằng khi anh chết đi (và vài tuần sau khi làm bài thơ này, anh và gia đình cùng chết vì bom Israel tại Gaza) thì hãy tìm vải để may lại, làm một chiếc diều cho trẻ em Palestine sau này nhìn lên bầu trời sẽ vẫn nhìn thấy chiếc diều hy vọng của dân tộc. Bài thơ có tên là "Nếu tôi phải chết" ("If I must die") của Refaat Alareer như sau:
 
Nếu tôi phải chết,
bạn phải sống
để kể câu chuyện của tôi
để bán đồ đạc của tôi
để mua một mảnh vải
và vài sợi dây,
(chọn vài trắng rồi kết một cái đuôi dài)
để một đứa trẻ, ở đâu đó tại Gaza
khi nhìn lên bầu trời trong mắt
chờ đợi người cha đã ra đi trong biển lửa
--– và không nói lời từ biệt với bất kỳ ai
kể cả với xác thịt của cha
kể cả với chính lòng cha –--
nhìn thấy con diều, con diều bạn làm, bay lên trên cao
và thoáng nghĩ rằng có một thiên thần ở đó
mang lại tình yêu
Nếu tôi phải chết
hãy để cái chết mang lại hy vọng
hãy để nó là một câu chuyện.
.
Thơ viết như tiền định, vì 5 tuần lễ sau, nhà thơ chết vì bom Israel. Refaat Alareer là một nhà văn, nhà thơ, dịch giả, giáo sư đại học và nhà hoạt động người Palestine đến từ Dải Gaza, nơi bị quân Israel chiếm đóng. Vào ngày 6 tháng 12/2023, nhà thơ Alareer đã bị giết trong một trận bom của Israel cùng với anh trai, chị gái và 4 người con của anh chị trong cuộc bao vây diệt chủng đang diễn ra của Israel tại Gaza năm 2023.
Chỉ năm tuần trước khi bị giết, anh đã phóng lên mạng bài thơ có tựa đề "Nếu tôi phải chết" và ghim nó lên trang Twitter cá nhân. Giữa dòng người đau buồn, khi tin về cái chết của  lan truyền trên mạng, nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đã bày tỏ lòng kính trọng đối với Refaat bằng cách cung cấp bản dịch bài thơ tiên tri của ông sang ngôn ngữ địa phương của họ.
Sau cái chết của Alareer, bài thơ "If I Must Die" đã lan truyền nhanh chóng, đạt hơn 33 triệu lượt xem chỉ riêng trên Twitter và được dịch sang hơn 100 ngôn ngữ. Bài thơ đã được đọc công khai tại các buổi cầu nguyện, biểu tình và các buổi tụ họp nghệ thuật trên khắp thế giới. Bài thơ được coi là một ví dụ điển hình về văn học đòi tự do của một dân tộc, vang vọng vượt ra ngoài bối cảnh của Gaza và đóng góp vào các cuộc đối thoại xuyên quốc gia về sự phản kháng và bất công.
Bài thơ vừa là một tác phẩm văn học vừa là một hiện vật văn hóa của sự phản kháng. Nó gói gọn nỗi đau buồn, sự bất khuất và niềm hy vọng bền bỉ của một dân tộc đang bị bao vây. Bài thơ tiếp tục ảnh hưởng đến các cuộc thảo luận toàn cầu về công lý, ký ức và sức mạnh của việc kể chuyện.
Bài thơ “Nếu tôi phải chết” được đọc trên YouTube, một video ngắn 1:36 phút:
Alareer sinh ra tại Thành phố Gaza vào năm 1979 trong thời kỳ Israel chiếm đóng Dải Gaza, điều mà anh cho rằng đã ảnh hưởng tiêu cực đến mọi hành động và quyết định của anh. Alareer lấy bằng Cử nhân tiếng Anh năm 2001 tại Đại học Hồi giáo Gaza (Islamic University of Gaza) và bằng Thạc sĩ tại Đại học College London năm 2007. Anh lấy bằng Tiến sĩ Văn học Anh tại Đại học Putra Malaysia năm 2017 với luận án về John Donne. Anh dạy văn học và sáng tác tại Đại học Hồi giáo Gaza và đồng sáng lập tổ chức We Are Not Numbers, một tổ chức kết nối các tác giả giàu kinh nghiệm với các nhà văn trẻ ở Gaza, đồng thời thúc đẩy sức mạnh của việc kể chuyện như một phương tiện kháng cự của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel.
 
Nhà thơ Refaat Alareer (1979 - 2023) và thi tập "If I Must Die".
 
Tờ báo Euro-Med Monitor đã đưa ra một tuyên bố cho biết nhà thơ Alareer đã bị nhắm mục tiêu, dội bom cố sát, "bị đánh bom theo mục tiêu xóa sổ toàn bộ tòa nhà", và diễn ra sau nhiều tuần lễ "nhà thơ Refaat nhận được những lời đe dọa giết người trực tuyến và qua điện thoại từ các tài khoản Israel".
Hơn một năm sau, vào ngày 26 tháng 4 năm 2024, con gái lớn và đứa cháu mới sinh của Alareer cũng bị giết trong một cuộc không kích của Israel vào ngôi nhà của họ ở Thành phố Gaza. Alareer và vợ có sáu người con. Anh trai ông, Hamada, cùng với ông nội, anh trai, chị gái và ba cháu gái của vợ ông, Nusayba, đã chết trong Chiến tranh Gaza năm 2014 do một chiến dịch ném bom của Israel. Tổng cộng, Israel đã giết chết hơn 30 người thân của Alareer và vợ. Trong cuộc khủng hoảng Israel-Palestine năm 2021, Alareer đã viết một bài bình luận trên tờ The New York Times mô tả những ảnh hưởng của cuộc chiến đối với các con ông. Anh là một tình nguyện viên của Sở thú Gaza, và tiếp tục công việc này trong suốt cuộc chiến ở Gaza.
Nói về cái chết của nhà thơ Alareer, người sáng lập Tổ chức Giám sát Nhân quyền Euro-Mediterranean, Ramy Abdu, tuyên bố rằng quân đội Israel đã "nhắm mục tiêu, truy đuổi và giết chết tiếng nói của Gaza, một trong những học giả xuất sắc nhất, một con người, người bạn thân thiết và quý báu của tôi."
Nhà thơ Najwan Darwish nói với tờ The Guardian rằng Alareer là "một tiếng nói có sức ảnh hưởng", đồng thời nói thêm: "Chúng ta không chỉ mất Alareer, mà còn mất cả thơ ca của ông; tất cả đều nằm dưới đống đổ nát, tất cả những bài thơ tương lai mà ông sẽ viết. Và tất cả những nghệ sĩ đã bị giết hại... điều gì đã xảy ra với nghệ thuật của họ?"
Trong khi đó, nhà thơ Mosab Abu Toha (người mà chúng ta trích thơ từ đầu bài) viết: "Trái tim tôi tan nát, người bạn và đồng nghiệp của tôi, Refaat Alareer, đã bị giết cùng gia đình."
Bài thơ "Hỡi Đất Mẹ" (O, Earth) của Alareer viết vào tháng 1/2012 cũng là một ám ảnh tiền định về cái chết của anh trên đất mẹ Palestine, như dường anh có thể làm cho đất mẹ bớt đau khổ, trong khi anh tự biết anh không phải là chiến binh. Bài thơ như sau:
 
Hỡi Đất Mẹ
Hãy ôm tôi
Và hãy giữ chặt tôi
Hoặc nuốt chửng tôi
Để không còn đau khổ nữa.
Tôi yêu người
Vậy hãy mang tôi đi.
Hãy làm tôi giàu có.
Hãy làm tôi thành bụi đất.
Những ngày tháng tịch lặng đã qua rồi.
Súng đạn là ngôn từ của nhân loại.
Tôi chẳng có thực phẩm gì ngoài cái gai,
Chẳng có môn thể thao nào ngoài tiếng thở dài.
Bởi một người lính cần cảm thấy phấn chấn.
Hỡi Đất Mẹ,
Nếu trong đời, tôi sẽ phải bị thương tích
Hãy để bụi đất thân tôi trong đất mẹ sinh sôi.
Hỡi Đất Mẹ.
.
Bài thơ sau đây là viết cho người lính Do Thái, nhắc rằng 70 năm trước dân tộc Israel của các anh đã bị đàn áp như bây giờ các anh đàn áp dân tộc Palestine chúng tôi, Bài thơ "Tôi là anh" (I am You) của Refaat Alareer viết:
.
…Hãy nhìn vào gương:
Kinh hoàng, kinh hoàng!
Báng súng M-16 của anh nện trên gò má tôi
Vết vàng nó để lại
Vết sẹo hình viên đạn lan rộng
Như chữ vạn phát xít,
In lằn trên mặt tôi,
Nỗi đau trong tim tuôn trào
Từ đôi mắt tôi nhỏ giọt
Từ lỗ mũi tôi xuyên thủng
Tai tôi ù đi
Nơi này.
Như nó đã từng với bạn
70 năm trước
Hay khoảng đó.
.
Bài thơ sau đây có nhan đề "Mẹ" (Mom), viết năm 2012, nhà thơ Refaat Alareer viết:
 
Mẹ
Trên khuôn mặt mẹ
Có một cuốn sách
Và lời tựa của cuộc đời.
Giữa những dòng chữ này
và trong hai hang động này
Đời sống ngự trị.
Dòng chữ kia là hy vọng.
Dòng chữ kia là yêu thương.
Cái chết đó
Khi mẹ mỉm cười,
Mẹ trao hy vọng,
Mẹ trao tình yêu
Mẹ trao sự sống,
Cho cuộc đời.
.
Sau khi nhà thơ Alareer bị giết, chiếc diều thi ca của dân tộc Palestine vẫn đang bay lơ lửng trên các dòng chữ của các nhà thơ còn sống sót. Trong đó, nổi bật có nhà thơ Mosab Abu Toha, người sinh ngày 17 tháng 11/1992 trong trại tỵ nạn Al-Shati ở Bắc Gaza. Toba tốt nghiệp bộ môn văn học tiếng Anh tại Đại học Hồi giáo Gaza. Năm 2017, anh thành lập Thư viện Edward Said, một thư viện công cộng tiếng Anh tại Beit Lahia, và chi nhánh thứ hai của thư viện này đã được mở tại Thành phố Gaza vào năm 2019.
Năm 2023, Abu Toha tốt nghiệp Đại học Syracuse (New York) với bằng Thạc sĩ Mỹ thuật chuyên ngành Sáng tác văn học. Nhà thơ Mosab Abu Toha đã bị quân đội Israel bắt giữ vào tháng 11/2023 khi đang cố gắng chạy trốn sang Ai Cập cùng gia đình. Sau đó, anh được thả sau khi bị thẩm vấn và kể từ đó làm việc như một người ghi chép về cuộc chiến từ xa. Anh đã được Giải thưởng Pulitzer cho Bình luận năm 2025 cho bài viết về cuộc chiến ở Gaza trên tờ The New Yorker.
Nhà thơ Mosab Abu Toha đã viết về sự mong manh của cuộc sống dưới sự bao vây của Israel làm chủ đề cho các tác phẩm của mình, nhấn mạnh những hành động nhỏ bé, bất chấp sự tàn phá để sống. Ngôi nhà của anh bị dội bom và người thân của anh đã chết. Nhà thơ – người đã được vinh danh với Giải thưởng Pulitzer năm 2025 – đã trở thành người sống sót sau chính sự tàn phá mà anh đã mô tả từ lâu.
Giờ đây, câu chuyện về Abu Toha và hành trình của anh từ Gaza đến Mỹ, cùng với gia đình, đang được kể lại trên màn ảnh. Một bộ phim tài liệu dài 24 phút do TRT World sản xuất hiện đang được trình chiếu tại các liên hoan phim, mang đến cái nhìn sâu sắc hơn về tác động của cuộc chiến tranh Israel lên Gaza và việc chia sẻ đau khổ có thể giúp xoa dịu nỗi đau như thế nào. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu từ tháng 10/2023 tới giờ, Israel đã giết chết gần 69.000 người Palestine ở Gaza, hầu hết là phụ nữ và trẻ em. Sau đây là một bài thơ, nhan đề "Không đề" (Untitled) của Mosab Abu Toha viết về các trận bom Gaza đã thổi đủ thứ màu của máu, bùn, đất lên các bức tường còn sót lại các tranh vẽ trẻ em:
Một người cha thức dậy vào ban đêm, nhìn thấy
các màu sắc ngẫu nhiên trên tường
do cậu con trai bốn tuổi vẽ.
Nhưng cậu bé đã chết sau một trận bom.
 
Các màu sắc này cao khoảng 1,2 mét.
Năm sau, chúng sẽ cao khoảng 1,5 mét hoặc 1,6 mét.
Nhưng người vẽ đã mất và
bảo tàng không có tranh mới nào
để trưng bày.
.
Vậy thì, sống sót như thế nào? Hãy như một cánh hồng, đó là cách dân tộc Palestine sống còn. Bài thơ ngắn nhan đề "Một bông hồng vươn vai" (A Rose Shoulders Up) của Abu Toha viết:
Đừng bao giờ ngạc nhiên
khi thấy một bông hồng vươn vai
giữa đống đổ nát của ngôi nhà:
Đây là cách chúng tôi sống sót.
 
Sau đây là bài thơ nhan đề "Hãy ghi nhớ giấc mơ của bạn" (Memorize Your Dream) của Mosab Abu Toha, có nhiều ngắt đoạn, như các giấc mơ rời trong đêm:
Hãy nhắm mắt lại
hãy bước đi trên đại dương.
 
Hãy nhúng tay
vào nước
bắt lấy những lời thơ của bạn.
 
Hãy viết lời thơ lên
những đám mây.
Đừng lo, chúng sẽ tìm thấy
đất của chúng.
 
Hãy mở mắt của bạn ra.
Trong đêm,
biển không còn xanh nữa.
 
Hãy nhìn xung quanh và từ
những giọt mưa đang rơi
hãy nhặt những dấu chấm câu.
 
Hãy mặc đồ bơi,
hãy lặn sâu xuống
và tìm một nhan đề
cho thiên sử thi của bạn.
 
Hãy dấn thân
về quê hương đang chuyển động—
con thuyền của bạn.
 
Hãy lên giường
và, trong giấc ngủ,
hãy bắt đầu ghi nhớ
giấc mơ của bạn.
 
Chúng ta không thể đoán rằng dân tộc Palestine sẽ có thể thoát nạn đô hộ để trở thành một quốc gia độc lập hay không. Thậm chí cũng không thể biết bao giờ thực sự sẽ có hòa bình nơi những phần đất còn lại của họ, trong đó Gaza đã gần như là gạch vụn hoàn toàn. Khi nhà thơ Refaat Alareer hy vọng cái chết của anh sẽ trở thành chiếc diều cho các thế hệ trẻ em tương lai nhìn lên, giữ hy vọng cho ngày độc lập, nhà thơ Mosab Abu Toha của thế hệ kế tiếp đã kêu gọi dân tộc Palestine nhìn lên mây, hãy lặn ra biển, và hãy ghép chữ từ giấc mơ để sẽ làm thành chiếc thuyền chuyển động quê hương.
Đời người quá ngắn, tình yêu thương quê hương lại rộng vô bờ. Nhưng đời họ đã trở thành những dòng thơ không bao giờ chết. Bạn hãy ngẩng đầu nhìn lên mây để dò xem chiếc diều của nhà thơ Refaat Alareer đã bay tới đâu. Và bạn hãy nhìn xa ra biển để ngó xem bài thơ đang ghép chữ của Mosab Abu Toha đang lơ lửng nơi nào trong giấc mơ của anh. Phải chăng, hạnh phúc không bao giờ nắm được trong tay, mà phải nhìn lên mây và ngó ra biển?
 PTH 

Monday, December 1, 2025

M Ũ I N H Ọ N

Hoàng Xuân Sơn
 
Tranh Tào Linh
 
Tôi quá dữ
Tôi yêu em
Khi không đất sét dận thềm hoa cương
Đôi giày da
Cứng
Hay mềm
Bất chấp bảy dặm mười thiên hẹn hò
Giở đi em
Lật
Từng tờ
Gió xanh thổi nhẹ vào tơ tóc này
Ừ. thoảng qua là heo may
Sao không độ lượng bề dày thi thư
Thơ tôi bài toán loại trừ
Em cứ phân loại tàn dư tuyệt tình
Đáy cốc nào
Chẳng vô hình
Thủy tinh vỡ. vụn . cây đinh. mũi chiều
 
)(
H O À N G X U Â N S Ơ N
23 novembre 2025
@sanjose.losgatos

  

Thursday, November 27, 2025

HAPPY THANKSGIVING

Phố Văn
 
 
 
Gởi các thân hữu và bạn văn.
Mừng Happy Thanksgiving đến với mọi nhà.

Sunday, November 23, 2025

TƯỞNG TƯỢNG GẶP NGUYỄN XUÂN HOÀNG Ở BOLSA

Huỳnh Liễu Ngạn
 


tôi về đứng ở bolsa
nhìn màu ngói đỏ căn nhà* phía sau
thấy tờ tạp chí bìa nâu
có tên tôi với trời sâu mỉm cười
 
kêu chai bia sẵn để mời
nguyễn xuân hoàng tới cùng ngồi cụng ly
tôi làm bài thơ tức thì
ông cầm đọc nói thơ chi mà buồn
 
trời chiều bỗng đổ mưa tuôn
làm nhớ huế rồi nhớ luôn sài gòn
nhớ ngũ lão nhớ ký con
hàng lá thấp cây bông gòn ngã tư
 
rồi ông đứng dậy giã từ
bụi và rác* và sương mù* bắt tay
tôi như người đi trên mây*
khi khói thuốc đã làm cay cuộc đời.
(20.11.24 - 20.11.25)
HUỲNH LIỄU NGẠN
 
Căn nhà ngói đỏ
Bụi và rác
Mù sương
Người đi trên mây
Tên tác phẩm của NXH

  

Friday, November 21, 2025

ĐƯỜNG KHÂU NỐI THỜI GIAN Tuyển Tập II – Chân Dung Văn Học, Nghệ Thuật và Văn Hóa. của Ngô Thế Vinh

NGUYỄN VĂN TUẤN


"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18  văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.  
Để cảm nhận đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà trước và sau 1975. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quí báu về một nền giáo dục mà ngày nay có người 'tiếc nuối vô bờ bến'. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên 3 trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến thức khoa học kĩ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị văn hoá nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.
Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong 4 chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng "Trước và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy." 
Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương 'chuyên chính vô sản' đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ hoạ của một số cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản" có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là "những tên biệt kích văn hoá", "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu huỷ sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm. 
Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra. 
Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hoá thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 thời đã được lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là 'biệt kích văn hoá' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'. 
Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị. 
Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.
Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập bao gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ 'gặp' 15 tác giả:  Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh). 
Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một 'công thức' dung hoà giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác hoạ các tác gia như sau: 
• Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân.
• Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt. 
• Hoàng Tiến Bảo: một thầy thuốc lớn. 
• Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam. 
• Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận. 
• Tạ Tỵ: một hoạ sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài. 
• Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm toả sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
• Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
• Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh. 
• Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH. 
• Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi. 
• Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến. 
• Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
• Vũ Xuân Thông: Một biệt kích dù, một thế hệ hy sinh.
• Võ Tòng Xuân: 'Bác sĩ lúa' và Gia đình Bác Tám. 
• Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
• John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam. 
• Dohamide: một nhà khảo cứu văn hoá Chàm ôn hoà và đầy trăn trở. 
Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v., nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hoá, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn mà họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa. 
Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hoá, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông  khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hoá, điện toán hoá, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng “... nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”  Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tuỵ cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.
Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hoá học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hoá và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 2964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 - 1966) và Trình Bày (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.
Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng “Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai. 
Tuyển tập dành nhiều trang cho hoạ sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong. 
Tuyển tập có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hoá và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hoá Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm Đôi bờ'." Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước' đòi li khai và một bên là hoà nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hoá và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hoà như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc. 
Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ. 
Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại. 
Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng. 
Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hoá, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp của ý nghĩa của Tuyển tập. 
Tuyển tập này, được Tiến sĩ Eric Henry diễn dịch sang tiếng Anh, là một đóng góp quý báu trong việc gìn giữ ký ức văn hóa. Bản dịch của ông không chỉ chuyển tải ngôn ngữ mà còn thổi hồn vào di sản văn học phong phú của miền Nam Việt Nam, mang đến cho độc giả khắp thế giới một góc nhìn mới mẻ. Là một quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và nghệ sĩ chơi đàn phím, và nay là học giả nghiên cứu văn học Trung Quốc và Việt Nam tại Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, Tiến sĩ Henry đảm nhận công việc dịch thuật này bằng sự hòa quyện độc đáo giữa trải nghiệm cá nhân và sự am hiểu học thuật. Bản dịch của ông, vừa tinh tế vừa trung thực, giữ được nét sắc sảo và sự trầm lắng trong văn phong của Ngô Thế Vinh, đồng thời vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa. Với nghệ thuật dịch thuật đầy tinh tế, Eric Henry làm sống lại những tiếng nói sôi động của một thời đã từng bị lãng quên, mở ra một nhịp cầu để độc giả hôm nay nối kết với di sản văn hóa tưởng chừng đã phai mờ, nay được thắp sáng trở lại.
NGUYỄN VĂN TUẤN 
Sydney, 11 Tháng 9, 2025


Tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một Thuyền Nhân được định cư tại Úc châu từ năm 1982, hiện là Giáo sư của Khoa Y của Đại học New South Wales, Giáo sư của Trường Y, Đại học Notre Dame Australia, và Giáo sư xuất sắc của Đại học Công nghệ Sydney. Tác giả được biết đến như là một chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lãnh vực loãng xương, được bầu làm Viện Sĩ của Hội Nghiên Cứu Loãng Xương Hoa Kỳ (ASBMR), Viện Sĩ của Viện Hàn Lâm Y Học Australia (AAHMS), Viện Sĩ của Học Viện Hoàng Gia New South Wales, và được Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị trao Huân Chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho y khoa và giáo dục đại học. Ngoài khoa học, tác giả còn là một người yêu văn học và văn hoá, và đã viết hàng trăm bài điểm sách trong thời gian 50 năm qua.





 

Tuesday, November 18, 2025

MỜI DỰ RA MẮT SÁCH TRỊNH Y THƯ

 Văn Học Press và Việt Báo Foundation
 
Thân mời
 
Anh chị em văn nghệ
dự buổi ra mắt sách
Theo Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư
 

tổ chức tại Coffee Factory
1582 Brookhurst St. Westminster – CA 92083
Lúc 4pm ngày 6 tháng 12 năm 2025
 
Diễn giả
Giáo sư Trần Huy Bích
Nhà văn Cung Tích Biền
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh
 
Dẫn chương trình
MC Lê Đình Ysa
 
Trân trọng kính mời

 

Sunday, November 16, 2025

BÀI THƠ TẮM GIẾNG VÀ MỘT BÀI KHÁC

H o à n g X u â n S ơ n
 
Giếng xưa
 
TẮM GIẾNG

Em cứ tắm đi tôi múc nước
Tôi là gàu trăng em loáng da
Cứ để ngọc ngà trôi thật chậm
Để cành tre thấp thỏm sa đà
Em cứ xõa tóc tôi gội đầu
Giùm em thơm một thoảng hương ngâu
Hay là bồ kết huyền nhanh nhánh
Kết ước tinh khôi ngọt mần trầu
Trăng xanh giếng ngọc hồn chanh bưởi
Xuân thơ ngày tháng đã xa vời
Hãy tắm nghe đời trôi bụi bặm
Cho hồng thức dậy nước mồ côi.
••
h o à n g x u â n s ơ n
@17oct25
 
TẶNG DỮ

Tôi ngồi bệt xuống cỏ
Để nâng đàn em lên
Một nóc nhà thụ cảm
Tiếng vang và tiếng rền
Đừng giáo điều im lặng
Hãy thỏ thẻ sen hồng
Hãy dư hương kỳ bí
Si tình một nụ bông
Là ngâu vàng lan tỏa
Nức thơm một nhà vườn
Đừng lý thuyết kín cổng
Chiếc hàng rào tai ương
Tôi ngồi kín một sân
Nghe lành khắp mọi phía
Em thử hát một lần
Vào câu thơ phá lệ
Tôi đi mà không bước
Vì em lắng nghe chiều
Những hòn sỏi lăn chậm
Dốc triền của đăm chiêu
Chúng ta còn làm thơ
Như rừng chiều phá án
Những bài thơ rất thơ
Của khúc tình hiến tặng
••
h o à n g x u â n s ơ n
30.9.25 

LỜI VIẾT GỞI NGUYỄN XUÂN HOÀNG*

 nguyễnxuânthiệp
 

NXHoàng đang đọc trang văn của tôi

 
mảnh trăng
 
tặng Nguyễn Xuân Hoàng
 
vẫn chiếc áo sờn cổ
đôi giày của gã lãng du
tôi đi. với mảnh trăng. mùa đông
này bạn văn xưa
còn không những nét dao trên đá
về số phận. của một người. một đời
và đốm lửa
tôi nghe thơ anh. cùng tiếng chuông. ngân
giã từ
giã từ
những mùa của quỷ
 
hồi tưởng
những năm tháng đó
mảnh trăng mùa đông
cùng ta đi
qua mái nhà. góc phố. đường ray
về hổ khê
về vùng lau thưa. thăm mộ bạn
mùa này cây đào cẩm nhân đã trổ bông
hồn oan. đêm cầm đèn. gọi cửa
 
đường tăng
đầm suối tây phương như kiếm sắc
dốc hiểm
khe oan
về đâu
ngọn gió mùa đông. thổi. tím
mảnh trăng còi
bay. bay. như chim. qua mây
dưới trăng. trâu bon. ngựa mỏi
hoa ác ăn người
yêu quái. chờ ai. nơi lều cỏ
 
đường tăng
thuyền đã ghé bờ
hãy quên. như trăng
quán cháo khuya. đèn đỏ
mở chân trời. cuộc đời thôi đã khác
 
tháng mười hai, 1997
 
 
Tôi viết bài thơ này năm 1997, một thời gian ngắn sau khi qua Mỹ. Bài thơ đề tặng bạn Nguyễn Xuân Hoàng, ghi lại hành trình của một người thơ qua chiến tranh và ngục tù, với tâm nguyện khắc văn mình trên đá và nhóm lên ngọn lửa giã từ thế giới và thời của cái ác. Hành trình đó, ít nhiều Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã trải qua như trong tác phẩm Bụi Và Rác của bạn. Tôi hình dung nó như con đường Huyền Trang đi thỉnh kinh, và mỗi nhà văn chúng ta kinh qua nó với sứ mạng của Đường Tăng là mang những nét đẹp nhân văn đến cho cõi người. Con đường đó muôn vàn khó khăn, hiểm trở, cái ác rình chờ khắp mọi nơi. Huyền Trang đã vượt qua được. Còn nhà văn chúng ta, bạn và tôi và Nguyễn Xuân Hoàng đã tới bến bờ nào. Bên kia sông là ánh mặt trời hay một cõi lãng quên nào đó, cũng không là quan trọng.
 
 
Giấc mơ của Balakirev
Trong những dòng viết cho Nguyễn Xuân Hoàng ngày hôm nay, tôi muốn nói tới một cuộc hành trình khác -cuộc hành trình của Balakirev trong mùa đông băng giá trên một chiếc xe ngựa thời cổ. Mily Balakirev (1837- 1910), là pianist, nhạc trưởng và là nhà soạn nhạc danh tiếng của Nga, người đã ảnh hưởng đến nhiều nhạc sĩ đương thời trong đó có Tchaikovsky (1840-1893) trong vở nhạc kịch Romeo and Juliet và bản giao hưởng Manfred Symphony. Bài thơ của tôi gởi Nguyễn Xuân Hoàng được viết lại từ bài Giấc Mơ Của Balakirev (Balakirev’s Dream), thơ Tomas Transtromer, theo bản tiếng Anh và bản dịch của Cao Thu Cúc trên Văn Chương Việt.
 
balakirev đang dự một cuộc hòa nhạc
và rồi ông ngủ thiếp đi
chợt ông mơ thấy mình đang đi trên cỗ xe ngựa thời nga hoàng
chiếc xe ngựa lăn bánh trên con đường lát đá
chạy thẳng vào vùng bóng tối của tiếng quạ kêu
balakirev ngồi một mình trong xe. nhìn ra ngoài
có khi ông bước xuống chạy cùng với những chú ngựa
mảnh trăng mùa đông cũng chạy theo cỗ xe. qua những hàng bạch dương. dưới trời khuya. a. cuộc hành trình dường như đã dài lâu
trên ngôi nhà thờ cổ. chiếc kim đồng hồ bây giờ chỉ năm. thay vì chỉ giờ
và trên cánh đồng có một chiếc cày bỏ quên
chiếc cày là con chim gãy cánh
trong vịnh. giờ này. một chiếc tàu đang neo đậu
chung quanh tuyết phủ. không một ánh đèn
thủy thủ lên đứng hết trên boong tàu
chiếc xe ngựa chạy qua vùng băng tuyết. bốn bánh quay. quay. tiếng lụa xé
balakirev tới gần một chiếc tàu chiến nhỏ
chiếc sebastopol
giờ đây ông đang ở trên tàu. các thủy thủ vây quanh
một người trao ông cây đàn cổ:
“ông sẽ không chết nếu ông chơi đàn”
 
Như thế đó, cuộc hành trình của Balakirev kết thúc. Như đời tôi, đời bạn, đời Nguyễn Xuân Hoàng sẽ kết thúc. Nó kết thúc với một hy vọng (hay ảo vọng?) rằng “ông sẽ không chết nếu ông chơi đàn”, có nghĩa là nhà nghệ sĩ, người sáng tạo đã ca hát trước cuộc đời và hiến dâng cho đời sẽ sống mãi với thời gian.
 
 
Lời từ biệt của Tagore
Với hai bài thơ, Mảnh Trăng và Giấc Mơ Của Balakirev, tôi muốn trao tới Nguyễn Xuân Hoàng một nhắn gởi và một tâm tình. Hoàng ạ, chúng ta đã cùng với mảnh trăng mùa đông đi qua vòng đầu của địa ngục, ghi khắc lời mình trên đá, và đã tới bờ. Bên kia bờ, cuộc đời thôi đã khác. Và cùng với nhà soạn nhạc lừng danh của nước Nga, chúng ta đi trên chiếc xe ngựa cổ vượt qua mùa đông tuyết phủ tới con tàu nằm trong vịnh giá băng, với hy vọng là những nghệ sĩ đã ca hát cho niềm vui và nỗi buồn của con người sẽ không bao giờ chết.
 
Bây giờ, tôi xin trích đọc cùng với Nguyễn Mạnh Trinh một đoạn văn rất đẹp của Nguyễn Xuân Hoàng trong Đoản văn viết ở Cali. Bài “Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão”:
“Cali mưa cơn mưa nhỏ chợt đến chiều nay trên đường Westminster như một người khách lạ không hẹn mà tới, Những hạt mưa lớn, thưa, gõ từ tốn trên mặt kính chắn gió nghe như tiếng mưa thuở nào rơi trên mái tôn trước hiên nhà.
Bầu trời ẩm đục, thấp và nóng. Cali đang mùa hè. Cơn mưa tuy không đủ sức làm dịu những cục than hồng, nhưng có thừa cái sắc bén của con dao cau rạch trong tôi những vết thương hoài niệm.
Mưa gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor- Westminster là những mũi kim xoi đằm trí nhớ. Mưa dẫn tôi đi trở về trên những con đường quen, khu phố cũ, những bạn bè xa xưa…”
 
Trong những ngày này, ước mong Nguyễn Xuân Hoàng có tâm bình an với hành trình của mình. Trở về hay đi tới thì cũng là hoan ca như cây sáo của Tagore đã được Đấng Chí Tôn phả đầy âm nhạc vào trong đó… Và xin nhắc lại lời chia tay của thi hào xứ Ấn Độ:
 
Tôi đã được mời tới lễ hội trần gian này, và tôi cảm thấy đời tôi tràn đầy ơn phước. Tôi đã được nhìn và được nghe bao điều. Trong hội vui, phần tôi là chơi nhạc trên cây đàn của mình, và tôi đã chơi hết sức tận tình.
Giờ đây xin hỏi, đã đến giờ chưa để tôi được phép bước vào diện kiến Người và dâng lên Người lời chào kính lặng thầm?
Tôi phải ra đi rồi đây. Anh em ơi, hãy nói lời từ biệt tôi! Tôi cúi đầu chào tất cả và cất bước lên đường.
Đây tôi trả lại chìa khoá cửa, và trao ngôi nhà lại cho anh em. Tôi chỉ xin anh em lời tử tế cuối cùng.
Khi tôi từ giã nơi đây, xin nhớ lời tôi chia tay, rằng nhng gì tôi đã được hân thưởng thật đã quá tràn đầy.
Tôi đã được nếm mật ủ trong lòng bông sen đang nở cánh trên biển ánh sáng, và như thế đã là diễm phúc rồi, và đây là lời từ biệt của tôi. (Gitanjali-Tagore)
NGUYỄN XUÂN THIỆP
18.8.2013
 
*Bài này tôi đã đọc cho Nguyễn Xuân Hoàng nghe trong lần đi cùng với Đinh Cường qua thăm Hoàng năm 2013. Lúc bấy giờ  Hoàng đã  yếu lắm. Nay Hoàng đã ra đi xin gởi theo như một lời tang ca tưởng niệm bạn.