Saturday, February 1, 2025

TẾT CỦA NGÀY XƯA

Huỳnh Liễu Ngạn

Tranh Võ Đình
 
năm đó mẹ mua hai thúng nếp
gió chiều tháng chạp rét căm căm
còn mấy ngày thôi là đến tết
chạy đôn chạy đáo không kịp nằm
 
chú vện sủa hoài chưa chịu ngủ
bên thềm gió tạt lạnh hơi xuân
ngoài hiên mưa phùn nghiêng nghiêng mỏng
chỉ vừa cho chị đứng bâng khuâng
 
nhà ai thơm lừng hương củi mục
trong gió bay theo mùi nhang trầm
ngó như tết đã sắp kề cận
cành mai chờ nở nụ đầu năm
 
tối ba mươi trời đen như mực
văng vẳng đâu đây tiếng đì đùng
thấy gió xuân tràn bên bếp lửa
của nồi bánh tét cùng bánh chưng
 
chợt thấy lòng mình xao xuyến quá
khi cả đất trời rộn ràng vui
chú vện vẩy đuôi không sủa nữa
tới nằm bên cạnh đống tro vùi
 
tết của ngày xưa của ngày xưa
cả nhà đều thức đón giao thừa
năm đó mẹ tươi và trẻ nữa
trẻ như màu nắng mới bên chùa
 
cứ thích mùa xuân đừng đi vội
để ngồi bên bếp lửa hồng tươi
ngồi bên cạnh mẹ cầm tay mẹ
ấm áp tình thương cũng đủ rồi
 
năm đó mẹ gánh hai thúng nếp
gánh cả mùa xuân về tận nhà
một đàn chim én bay ngoài ngõ
rung nhẹ hàng cau buổi chiều tà.

3.1.2021
HUỲNH LIỄU NGẠN

 

Friday, January 31, 2025

NHỮNG CÂU CHUYỆN BÀ KỂ

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
 
Hoàng Tử Bé
 
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể.
Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Rồi thì bà kể chuyện. Từ khi chú bé chưa biết nói, bà đã kể chuyện rồi, những câu chuyện rất ngắn, rất dễ thương, có khi chỉ là tiếng chim hót, tiếng gà gáy. Chú bé tỏ vẻ lắng nghe. Và lớn dần, chú bé nghe những câu chuyện dài hơn, và chú hiểu. Chú còn biết kể lại cho bà nghe, biết hỏi lại cho bà trả lời. Những câu chuyện bà kể, luôn bắt đầu bằng câu “ngày xửa ngày xưa” như một dấu hiệu đó là truyện cổ tích.
Trong trí nhớ của bà, cũng như nhiều người bạn cùng thời, truyện cổ tích nổi bật nhất là Tấm Cám. Bởi vì bà đã được nghe biết bao nhiêu lần từ mẹ của bà. Mẹ là một kho truyện cổ tích. Nhưng cứ nghe đến đoạn cuối thì bà rất sợ. Bà hứa với lòng rằng sẽ không kể nguyên như vậy cho con cháu của mình. Cô Tấm trong truyện là một cô gái nhân hậu, chịu biết bao gian truân vì mẹ ghẻ và em gái độc ác hại mình. Cuối cùng, khi Tấm được Vua cưới về, cô lại dùng quyền lực để trả thù họ một cách ác độc gấp trăm lần. Bà đã thay đổi đoạn cuối. Bà “cho” cô Tấm xin Vua tha cho họ, rồi cô cảm hóa họ, giúp họ trở thành người tốt, có lòng nhân hậu giống như cô.
Lúc chú bé bốn tuổi, bà kể Cha Nào Con Nấy, câu chuyện dạy người ta sống hiếu thảo với cha mẹ. Chú bé ngồi vào lòng bà, nghe say mê, bởi vì trong truyện cũng có một đứa bé bốn tuổi. Cha của đứa bé ấy đã mài một cái mủng vùa, tức phân nửa cái sọ dừa khô, cho ông nội của nó ăn cơm, bởi vì ông nội đã già, đến bữa ăn thường làm rơi vỡ chén bát. Ông nội tủi thân, vừa ăn vừa khóc. Thế rồi đến một hôm, người cha thấy đứa bé vụng về mài một cái mủng vùa, hỏi để làm gì. Đứa bé nói để dành cho cha ăn cơm, khi cha già như ông nội vậy. Cha của nó bừng tỉnh, hối hận. Nghe xong, chú bé tỏ vẻ trầm ngâm. Bà hỏi:
“Con có gì không hiểu?’
Chú bé nói:
“Bà ơi, bây giờ không sợ bị bể chén đâu bà!”
“Vì sao?”
“Con thấy chén nhựa có in hình bông hoa cũng đẹp lắm, mình ăn có làm rơi cũng không sợ bể.”
Bà không nhịn được cười.
“Ừ nhỉ, cuộc sống có những cái rất dễ giải quyết. Nhưng ngày xưa, nhất là ở thôn quê nghèo khó, rất khác, con ạ.”
Hai bà cháu tạm quên câu chuyện đó, vì chú bé lại đòi bà kể chuyện khác ngay.
Bà có một kho truyện cổ tích. Chỉ riêng truyện cổ tích Việt cũng đã rất nhiều rồi, nhiều vô cùng, kể cả tháng cũng chưa hết. Nhưng bà gạn lọc, chọn một số truyện để kể cho chú bé, như Ăn Khế Trả Vàng, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Sự Tích Quả Dưa Hấu, Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dầy, Thánh Gióng, Cây Tre Trăm Đốt, Sự Tích Con Muỗi, Sự Tích Con Thạch Sùng v.v… Bên cạnh đó, bà cũng chọn lọc những truyện cổ tích Tây phương, như Cô Bé Lọ Lem, Công Chúa Ngủ Trong Rừng, Đôi Hia Bảy Dặm, Bạch Tuyết Và Bảy Chú Lùn, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ v.v…
Bây giờ, chú bé đã lên mười. Đi học về, cơm nước xong, bài vở học rồi, gần đi ngủ chú bé vẫn thích nghe bà kể chuyện. Có những câu chuyện chú bé nghe cả trăm lần vẫn thích, và biết bình luận nữa, đôi khi làm bà phì cười, nhưng cũng lắm lúc khiến bà nghĩ ngợi. Đúng vậy, trẻ con không phải cứ nhét vào tai là chấp nhận. Mỗi một thời kỳ, mỗi một hoàn cảnh sống, ảnh hưởng rất nhiều đến cách suy nghĩ của con.
Lên mười, chú bé được nghe bà kể những truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine. Bà nói những truyện ngụ ngôn ấy, bà đã được học ở trường, không phải do truyền miệng. Chú bé say mê nghe những chuyện Cô Hàng Sữa, Con Ve Và Con Kiến, Hội Đồng Chuột, Con Nhái Muốn To Bằng Con Bò v.v… Chú bé thích nhất là thấy những con vật đã được mô tả như con người, biết nói, biết suy nghĩ, biết cư xử. Bà bảo những con vật đã được “nhân cách hóa” để mang lấy những tính nết của con người, đó là lòng tham, sự ích kỷ, tính ham chơi, sự cần cù làm việc, lòng thương yêu v.v… Lên mười, chú bé đã có thể hiểu được hàm ý trong những câu chuyện như vậy.
Lên mười! Cái tuổi tưởng như còn bé dại, thật ra là dấu mốc của sự chuyển mình. Bà còn nhớ, lúc bà lên mười, đã ngâm thuộc lòng bài thơ Lửa Từ Bi của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, bài thơ có hơn ba trăm chữ. Mọi người trong gia đình bảo bà là con-bé-già-trước-tuổi. Có lẽ đúng. So với các bạn nhỏ cùng tuổi, bà có “già” thật! Và so với chú bé lên mười này, chắc bà ngày đó còn “già” hơn gấp bội. Bởi vậy, bà tự nhủ đừng bao giờ làm điều gì với con trẻ dựa vào chính mình ngày xưa. Thời đại đổi khác, cảnh sống đổi khác, và mỗi một con người cũng đặc biệt. Không có ai giống ai.
Chú bé cháu của bà vẫn cứ mê nghe nhạc và mê nghe kể chuyện. Cái đầu óc biết phân tích khiến chú bé hay hỏi những câu như:
“Bà ơi, sao gọi là truyện cổ tích?”
“Cổ là xưa, tích là dấu vết, là truyện. Cổ tích là dấu vết xưa, hay truyện xưa, nên người ta hay nói “ngày xửa ngày xưa” tức là những chuyện xảy ra đã lâu thật là lâu, khi mình chưa có mặt trên đời.”
“Bà ơi, trong truyện cổ tích, vật gì cũng biết nói hở bà?”
“Ừ, thường là vậy. Truyện cổ tích thì phải là những gì đã xảy ra từ rất xưa, trong đó con người, con vật như chó, mèo, hổ, sư tử, chim chóc… và cả cây cỏ cũng biết nói, con ạ.”
“Và có những ông tiên, bà tiên làm phép giúp cho mọi vật hở bà?”
“Ừ, như Ông Bụt trong truyện Tấm Cám, hay bà tiên trong truyện Lọ Lem đó!”
“Vậy ai đặt ra truyện cổ tích hở bà?”
“Ừ… thì là… người ta đặt ra.”
“Nhưng người ta đâu có sống vào lúc chuyện đó xảy ra hở bà? Nếu có, thì đối với người đặt ra, nó chẳng phải là truyện cổ tích.”
Chà, chú bé lắt léo, lý sự thật! Bà ngẫm nghĩ, nhưng bà công nhận chú bé đúng. Vậy rồi bà và cháu cũng kể đi kể lại những truyện cổ tích, kèm theo lời bình của chú bé lên mười. Kể đi kể lại hoài, mãi rồi không phân biệt truyện tây, truyện ta, vì nội dung và tình tiết khá giống nhau, như Tấm Cám và Cô Bé Lọ Lem vậy. Hoặc như những truyện ngụ ngôn của La Fontaine, qua lời dịch tài tình của Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, đã trở thành quen thuộc như thể là chuyện kể của người xứ Việt.
Có một hôm, chú bé đặt giả thuyết, nếu trong truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, nhân vật chính không phải là Cô Bé mà là một chú bé thì có khác gì không. Rồi chú tự trả lời rằng chú bé ấy sẽ không dại mà nghe lời phỉnh gạt của một con chó sói đâu! Bởi vì… chú là con trai! Bà cũng phì cười vì ý tưởng ngộ nghĩnh đó. Nhưng thật dễ dãi, chú vẫn thích nghe cái đoạn Cô Bé Quàng Khăn Đỏ đi đến nhà Bà Ngoại, lúc đó bà đã bị Chó Sói nuốt tươi vào bụng rồi, và Chó Sói đã leo lên giường, nằm đắp chăn giả làm Bà Ngoại bệnh. Chú thích chí, bắt bà đóng vai Chó Sói, còn chú sẽ là Cô Bé Quàng Khăn Đỏ.
Chú bé hỏi:
“Bà ơi, hôm nay sao tai bà to thế?
Bà giả giọng ồ ề đáp:
“Tai bà to để bà nghe cháu nói cho rõ.”
“Bà ơi, hôm nay sao mắt bà to thế?”
“Mắt bà to để bà nhìn cháu cho rõ.”
“Bà ơi, hôm nay sao miệng bà to thế?”
“Miệng bà to để bà… ăn thịt cháu. Quàm!!!”
Mọi khi, nghe đến đó là chú bé giả vờ co rúm người lại, sợ hãi, hét lên. Nhưng lần này, đột nhiên chú bé hỏi:
“Bà ơi, sao tóc bà dài và đen thế?”
Bà giật mình, tròn mắt, ngạc nhiên, rồi bà cười xòa:
“Bà ấy hả? Bà… không biết. Ờ… chắc Ông Trời cho bà được vậy thôi!”
“Vậy bà đã gội đầu bằng gì hở bà?”
“Thì bằng dầu gội đầu bình thường, con biết đấy!”
Chú bé gật đầu, còn muốn hỏi thêm. Bà ôm chú bé vào lòng, kể:
“Con biết không, thời xưa, có một khoảng đời, bà và nhiều người khác rất khổ. Những vật dụng hằng ngày rất khan hiếm. Ngay cả xà bông cũng không có mà mua. Mua được một cục xà bông thơm cũng là chuyện xa vời. Bà đã từng pha xà bông bột giặt để gội đầu, con nghe sợ không? Bà sợ lắm, vì làm như vậy tóc sẽ rụng hết, da đầu sẽ bong ra, nhưng ở bẩn thì bà chịu không nổi. Vậy mà Ông Trời thương, cho đến tuổi bảy mươi bà vẫn nuôi được mái tóc đen và dài này.”
“Để… thỉnh thoảng bà lại cắt tặng cho các em bé bị rụng tóc hở bà?”
“Ừ.”
“Hay quá bà ơi, giống như truyện cổ tích!”
Bà ngạc nhiên:
“Là cổ tích sao?”
“Con thấy truyện cổ tích kể về những chuyện khó xảy ra.”
Bà gật gù:
“ Ờ ha! Bà cũng thấy vậy. Bà cám ơn Trời.”
“Bà hay nói cám ơn Trời.”
“Đúng vậy con à! Bà luôn cám ơn Trời vì đã cho bà những điều khó xảy ra.”
 
Hai bà cháu cùng im lặng. Bỗng dưng bà nhớ đến một người bạn thân đã viết một bài văn ngắn, nhắc đến truyện cổ tích kể về một người mẹ mất đi để lại một đứa con quá nhỏ, thằng bé phải sống với một bà mẹ ghẻ. Bị bà mẹ ghẻ đày ải và hà khắc, nó đi chăn bò và luôn phải ăn cơm hẩm. Bà mẹ ghẻ thấy nó ăn cơm hẩm mà vẫn mập mạnh, bà cho con ruột của mình đi chăn bò với nó một bữa để theo dõi. Thằng con bà về kể, tới giờ ăn trưa thằng bé kia tới dưới bụng con bò mẹ, kêu "Mẹ ơi!" thì có một mâm cơm ngon lành hiện ra. Con của bà mẹ ghẻ cũng có ăn nữa, giây sữa ra áo đem về cho bà coi. Nghe kể, bà mẹ ghẻ giết con bò, quăng xương ở gốc cây. Tới trưa, thằng bé ra gốc cây ngồi khóc, mâm cơm lại hiện ra. Cứ thế, cho đến khi đứa bé trưởng thành. Khi nó tự kiếm sống được thì nghe trên không có tiếng mẹ nó giã từ.
Người bạn viết tiếp: “Một truyện cổ tích trong rừng cổ tích của tuổi thơ, tôi đọc và quên bẵng đi mấy mươi năm, cho đến khi má tôi mất. Má tôi mất, tôi không khóc, nhưng lòng không sao nguôi ngoai được.
Một khuya kiểng thức chúng, tự nhiên tôi nghe như tiếng má tôi gọi tôi. Tôi bật dậy, bàng hoàng, chợt nhận ra truyện cổ tích có thật. Lòng tôi nhẹ bổng, thương nhớ như nguôi ngoai. Má vẫn ở cạnh tôi, chăm chút tôi như bao giờ…” (1)
 
****
Tuổi thơ của bà tràn đầy những điều tưởng tượng, do đó mà phong phú. Nhà anh em đông, đồ chơi lại không nhiều, bà tự chế ra các món đồ chơi. Bà cũng biết xếp lồng đèn, vẽ thiệp Nô-en, thiệp Tết. Nào có biết đến sinh nhật hay Nô-en!  Rồi bà cũng làm Ông già Nô-en, rón rén đi cho quà những người trong gia đình. Bà cũng làm cô giáo dạy học một đám học trò tưởng tượng. Bà nghĩ, nếu không có tưởng tượng, cuộc sống của con người ta sẽ khô đét, như cái cây không được tưới.
Nhưng tưởng tượng nhiều quá thì có nên chăng? Không nên chút nào! Như bà thuở bé hay mơ mộng nhìn lên mặt trăng và nghĩ về chú Cuội ngồi gốc cây đa, đó cũng là qua những câu chuyện kể. Nhưng khi đã biết về sự thật trên mặt trăng, bà không kể cho các bé nghe về chú Cuội cây đa nữa. Bà kể về những bước chân kỳ diệu của con người đặt lên mặt đất cung trăng. Nói bằng cách nói của chú bé, đó cũng là những điều khó xảy ra. Nhưng điều khó xảy ra đó lại có trong đời thật. Rất tuyệt vời!
Đến lượt chú bé đặt ra những câu hỏi cho bà suy nghĩ.
“Bà ơi, vậy ngoài cái thế giới của bà cháu mình, và thế giới bao la của vũ trụ, còn có thế giới nào nữa không?”
“À… Có! Là cái thế giới mà bà đã làm việc cùng.”
“Là gì vậy bà?”
“Một thế giới của những sinh vật bé nhỏ li ti, mắt thường của bà và cháu không thể nhìn thấy được.”
“Làm sao để thấy?”
“Không khó. Phải dùng kính hiển vi phóng to lên để thấy. Đó là thế giới của vi sinh vật.”
“Nó có khác biệt với mình không hở bà?”
“Không mấy khác biệt. Vi sinh vật cũng sống, cũng cần thức ăn, cần được nuôi dưỡng tốt. Chúng cũng phát triển, cũng già, cũng chết. Có những loại gây hại cho con người, thú vật và cây cỏ. Nhưng đã có những loại thuốc chống lại chúng. Và cũng có những loại vi sinh vật làm lợi cho con người. Thế giới của chúng cũng có tốt có xấu như thế giới của mình vậy,”
“Bà ơi, vậy bà có nhân cách hóa những con vi trùng của bà không?”
“Có chứ! Mỗi khi làm phản ứng về chúng, bà thường thuận theo sở thích của chúng, vì bà hiểu chúng như hiểu tính con người. Con biết không, chúng cũng thích ăn ngọt như mình vậy, nhờ đó mà bà định danh chúng dễ dàng.”
“Hay quá! Con thích học về chúng, như bà vậy!”
Bà ôm chú bé vào lòng, âu yếm:
“Con học về chúng, hoặc con học về vũ trụ, đều hay cả. Con mong muốn, con sẽ được.”
Chú bé lại tỏ vẻ suy nghĩ…
 “Bà ơi, con muốn tất cả các bạn nhỏ như con đều được nghe kể những chuyện như bà kể.”
Bà im lặng. Có vẻ như chú bé đang nghĩ đến những điều vượt xa cái thực tại của chú. Bà biết nói sao đây, về những em bé sống ở vùng chiến tranh, về những em bé chưa lớn đã thấy súng đạn, về những em bé sinh ra và lớn lên trong cảnh đói nghèo? Quả thật, thế giới vẫn cần có những Ông Bụt của cô Tấm, những Bà Tiên của Lọ Lem. Vâng, những Ông Bụt Bà Tiên bằng người thật.
 
****
Bà từng nghĩ chỉ kể những truyện cổ tích cho chú bé vui. Nhưng chú bé đã tỏ ra biết suy nghĩ và lý luận nhiều. Cho nên bà đã thêm vào “kho” truyện kể cho chú bé, một truyện mà bà rất thích: Hoàng Tử Bé (2). Bà đã dùng lối kể đơn giản thay vì đọc những lời dịch cao siêu thâm thúy của Học giả Bùi Giáng. Có khi bà dùng những chữ trong bản tiếng Anh cho dễ hiểu. Chú bé đã tự đúc kết được những ý chính mà tác giả chuyển tải đến cho người đọc, theo cách nghĩ non nớt của chú, và cũng rất đúng với ý muốn của bà.
“Bà ơi! Ai cũng cần có bạn phải không bà?”
“Đúng vậy. Và cần lắm, những người bạn thiết, con ạ!”
“Muốn có bạn thiết, cần phải làm sao?”
“Cần phải tuần dưỡng (3) – Bà dùng chữ “tuần dưỡng” của cụ Bùi Giáng–  Quen biết không phải là tuần dưỡng. Tuần dưỡng là tạo nên sợi dây liên lạc, muốn vậy phải dành thì giờ cho nhau, hiểu biết về nhau.”
“Như bà cháu mình phải không bà?”
Bà bật cười:
“Đúng rồi! Nhưng xa hơn nữa, như trong truyện, Hoàng Tử Bé và Con Chồn đã tuần dưỡng nhau, và trở thành bạn thiết, vì họ đã dành thì giờ rất nhiều cho nhau, nói chuyện rất nhiều với nhau, hiểu nhau, và cần nhau.”
“Con hiểu rồi! Bà ơi, ai cũng cần có trách nhiệm với một cái gì đó phải không bà?”
“Phải. Như Hoàng Tử Bé có trách nhiệm vĩnh viễn đối với cái gì chú đã tuần dưỡng một phen. Hoàng Tử Bé và Đóa Hồng bé nhỏ của chú ấy đã tuần dưỡng nhau. Cho nên Hoàng Tử Bé quyết có trách nhiệm vĩnh viễn với Đóa Hồng của chú ấy. Bằng mọi cách, chú phải quay về với Đóa Hồng của mình.”
 
Thật đơn giản! Chú bé hiểu hết. Bà đã không nói chuyện với chú bé như nói với một cô-bé-già-trước-tuổi. Bởi ý niệm của truyện rất giản dị, nên dễ hiểu. Khi chú bé lớn lên, ở từng thời điểm của cuộc đời, chú bé sẽ hiểu theo những cách khác nhau, và áp dụng cũng khác nhau. Chú bé sẽ hiểu về trách nhiệm, hay nói cách khác là lòng trung thành với một tình bạn, với một tình yêu, với một đất nước, hay với một lý tưởng… là như thế nào.
 
Tháng 1/2025
CAM LI NGUYỄN THỊ MỸ THANH
 
(1) Cổ Tích, tác giả: Thuần Chánh
(2) Nguyên tác: Le Petit Prince, tác giả:  Antoine de Saint-Exupéry
(3) tame (E), apprivoiser (F)

  

Tuesday, January 28, 2025

THƯ GỞI BẠN XA XÔI. THƯ QUÁN HƯƠNG TÍCH

Đỗ Hồng Ngọc
 
Đã lâu không ghé thăm Hương Tích, Thư quán của Thầy Tuệ Sỹ, nay do Thầy Hạnh Viên, Trưởng tử của Thầy Tuệ Sỹ chăm sóc. Rất nhiều hình ảnh, dấu tích của Thầy Tuệ Sỹ còn đó.
 
Tình cờ mà gặp Tâm Nhiên. Râu tóc xum xuê.
 
Gởi bạn vài hình ảnh thôi nhe.
 
  Tâm Nhiên, Đỗ Hồng Ngọc, Thầy Hạnh Viên.
Thư Quán Hương Tích, 16.01.2025
 

Đỗ Hồng Ngọc và Tâm Nhiên.
 

Gởi tặng Thầy Hạnh Viên cuốn Ngôn Ngữ đặc biệt (ĐN/ĐHN),
có bài viết về Thơ Tuệ Sỹ “Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn”…
 

Một bức thư pháp của Thầy Tuệ Sỹ. Chịu, không đọc nổi! Thầy Hạnh Viên bảo đó là
một câu thơ của Lý Hạ, đời Đường: Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão.
 
Trời mà có tình thì trời cũng già thôi!
Bạn thấy không? Đừng kêu tại sao mình già… khú đế nhe!
Nhớ Chu Mạnh Trinh không? Ta cũng nói tình thương người đồng điệu!
Cho nên ta… già và già nhanh là phải rồi!
 
Thân mến,
ĐHN

  

Thursday, January 23, 2025

RECUERDOS DE LA ALHAMBRA.

Tố Nghi


Recuerdos de la Alhambra là kỷ niệm ở Alhambra, về Alhambra của Francisco Tarrega.
Tarrega là một trong những sáng tác gia nổi tiếng nhứt của thế kỷ 19 và mãi cho tới bây giờ, là cao thủ danh trấn giang hồ về giai điệu và kỹ thuật, cả trong trước tác lẫn trình diễn.
Giữa thế kỷ 19, ký giả cờ hoa Washington Irving theo dấu chơn viễn du của Christopher Columbus, ghé Alhambra cốt tìm kiếm lục lọi tài liệu về nhà hàng hải, rồi viết sách "Tales of Alhambra", dịch sang spanish là "Recuerdos de la Alhambra", được Tarrega dùng làm tựa tấu khúc viết cho tây ban cầm, Recuerdos de la Alambra.

Nghe nói... thời nhỏ, Tarrega bị tai nạn nên thị lực giảm rồi sanh nhút nhát, tới lớn cứ vẫn ngần ngại mỗi khi phải xuất hiện trước đám đông. Các buổi trình diễn của ông thường giới hạn tại những thính phòng nhỏ. Tarrega có giao tình gắn bó platonic với một bà goá, đẹp xấu hổng biết, nhưng trẻ và giàu có. Cô này trước tiên ghi tên thụ giáo Tarrega, sau thành luôn mạnh thường quân, bảo trợ nhạc sĩ. Cô bưng ông và toàn gia đình vợ con ông về villa của mình ở Barcelonna để thày thong thả trước tác - rất nhiều tác phẩm của Tarrega đã được viết trong thời gian này - Nhơn chuyến thăm viếng Granada, hai thày trò tới cổ thành Alhambra. Nghe nói họ đủng đỉnh đi dạo, rồi ngồi xuống một băng ghế ngó lên cổ thành, đang một màu đỏ rực trong ráng chiều. Tarrega về thai nghén bản nhạc, làm quà sanh nhựt tặng nàng như một lời tri ân (as a humble gift for your birthday...) Khi ấy cơm đang rất lành và canh đang rất ngọt.
Nhưng dzồi...yêu nhau lắm hẳn cắn nhau đau, too close for comfort có lẽ - đời vốn vẫn thế - giao tình giữa Tarrega và ân nhơn sanh trục trặc rối nùi, tới độ... một ngày đẹp trời, cô học trò tống cổ thày cùng gia đình ra khỏi villa ngay tắp lự. Khi này Tarrega đã nổi tiếng lắm dzồi. Đây là lý do vì sao lúc bản nhạc đưa sang nhà xuất bản, tấu khúc lại được đề tặng một người khác - ông bầu show đã tổ chức những buổi lưu diễn cho Tarrega tại âu châu.

Theo dòng lịch sử...

Tại đất trung đông, Ả Rập Saoudite do vua ả rập trị vị và giáo chủ hồi giáo lãnh đạo. Chuyện kế thừa dẫn đến chiến tranh, ngai vàng luân phiên đổi chủ. Sau công nguyên (AD), đám ả rập hồi giáo hùng mạnh lên, rồi nảy sanh khuynh hướng bành trướng lãnh thổ.
Đâu đó y hình vào thế kỷ 7-8, bộ tộc Moor là sắc dân sống rải rác xung quanh địa trung hải, nhưng nhiều nhứt ở bắc phi. Có thể do thất sủng, thua trận, hoặc ngán ngẩm việc gươm đao, tiểu vương Moor và bầu đoàn thê tử từ bắc Morocco vượt eo biển Gibralta tiến sang nam Spain dựng nghiệp, thành lập vương triều Moor, thần phục rồi thành chư hầu của vua Spain.

Bộ tộc Moor cai trị lãnh địa của họ tại nam Spain suốt mấy trăm trăm năm dài, dân Hồi dân Jew và dân Chúa chung sống hòa bình, tự do hành đạo giảng đạo. Kinh tế nam Spain thịnh vượng quá thể. Thành quách La Alhambra tại Granada nổi tiếng với kiến trúc điêu khắc nặng ảnh hưởng văn hóa ả rập được xây dựng dưới triều đại Moor. Nhưng ảnh hưởng và dzăng minh hồi giáo không dừng lợi ở nam Spain, nó còn theo đám thương nhân đi dọc bờ Địa trung Hải lần ngược hướng đông bắc để vào tới đất Catalane (quê hương của Pablo Casals) sát tới biên giới phía nam xứ pháp.

Thế kỷ 13 tại kinh đô Spain, nữ hoàng Isabella nối nghiệp tiên đế, cùng chồng lên ngôi cửu ngũ. Một bữa bà nhảy dựng khi hay tin hổng xa đó lắm, đế quốc thổ hồi giáo thành hình, hùng mạnh và thiện chiến. Trong khi ấy tại miệt nam ngay dưới chơn, chình ình một tên chư hầu hồi giáo, tuy ngoài mặt phục tòng nhưng hẳn chỉ chờ thời cơ tạo phản, nguy quá xá nguy!
Isabella và chồng mang quân chinh nam, 'reconquista' tái chiếm lại đất đai bộ tộc Moor đã 'chụp giựt' của Spain hơn 7 thế kỷ trước. Năm 1492, Reconquista hoàn tất, Isabella phái Christopher Colombus dong buồm ra khơi tìm đất đai mới. Hai năm sau 1494, Colombus khám phá ra châu mỹ, đóng cờ dành chủ quyền lãnh thổ cho vương triều đất Spain.
Nữ hoàng Spain tiếng dậy như cồn, được thần dân trong nước và cả thế giới ngưỡng phục. Thừa thắng xông lên, bà quyết định nhổ cỏ tận gốc ngăn ngừa hậu hoạn, Isabella hạ chiếu chỉ, buộc đám do thái và ả rập tại nam Spain phải cải đạo theo thiên chúa giáo, nếu không sẽ bị đuổi khỏi xứ. Rồi tiện thể được đà, gọn lẹ cho giựt sập luôn các mosques và synagogues tại nam Spain - Nhưng tới đền hồi giáo ở Cordoba Alhambra thì chùn tay, tiếc rẻ hổng nỡ vì thấy quá đẹp, b quyết định giữ lại, bèn thay đổi sơ sài kiến trúc và biến nó thành thánh đường Sta Maria –

Guitare...
Tiếng dziệc là tây ban cầm, nghĩa là cây đờn xứ tây ban nha. Guitare tới xứ mình từ hồi nào và tại sao gọi thế thì thiệt hổng tường, và dễ sanh lẫn lộn. Tui vẫn yên trí guitare là nhạc cụ riêng của xứ Spain - như cây đờn bầu của mình vậy - Dè đâu bé cái lầm!
Guitare xuất xứ thời cổ đại, tại cái nôi văn minh ả rập cũ, cả hàng ngàn năm trước công nguyên, và đã theo vó ngựa viễn chinh ả rập sang tới âu châu. Guitare là chữ ghép của gui (nghĩa là nhạc) với tare (nghĩa là dây). Hình dáng kích thước cây guitare thay đổi dần theo thời gian. Số dây cũng thay đổi, rồi dừng lại và cố dịnh ở năm dây trong một khoảng thời gian dài. Tại Spain năm 1784, nó được Gaetano Vinacci cải biến và cải tiến, cho thêm vào dây thứ sáu, để hoàn chỉnh cây đờn như hiện nay. Rồi từ đó, để phân biệt, ta gọi cây guitare 6 dây nớ là spanish guitare. Có lẽ tây ban cầm là phiên dịch từ tên này.

Có nhạc cụ nào ta ôm gọn vào tay mà hổng thắc thỏm, rằng lạng quạng nó có thể lọt rớt bất tử ? Thưa... cây ghi ta chớ chi. Cùng với mandoline và banjo, guitare thuộc nhóm đờn dây để khảy - nhưng guitare còn để móc nữa cà - Guitare được trời ưu đãi nên khổ người gọn gàng suông sẻ, em tỉnh bơ rơi gọn vào lòng đối phương, để chàng một tay đỡ vai đỡ cổ, tay kia ve vuốt dịu dàng. Ngó thế của guitarist ngồi ôm nhạc cụ, người ta dễ tưởng tượng tới một tình yêu mang rất nhiều say đắm. Vậy hổng lãng mạn tình tứ sao ! Trái lợi, mandoline và banjo nhỏ hìu, ẵm gọn trong hai tay, nhưng ôm chúng hồi hộp thấy bà, y chang trẻ sơ sanh quấn tã, lạng quạng dám rớt cái độp. Chưa kể là hồi o oe, tiếng của chúng là thứ tiếng thiếu cảm xúc - xưa rày tiếng khóc hài nhi vốn là tiếng khóc khô không lệ !

Dòng nhạc tây ban cầm chia ra nhiều nhánh, hai nhánh chính là cổ điển và flamenco. Tây ban cầm xử dụng một số kỹ thuật riêng, đáng kể nhứt là ngón tremolo, tiếng việt là kỹ thuật reo dây. Reo dây nghe nói xuất xứ từ cách chơi mandoline hay banjo. Kỹ thuật reo dây dùng ngón tay móc - hổng khảy hổng búng nhưng móc - và móc liên tục vào cùng một nốt, âm thanh tạo ra sẽ dzéo dzắt dzô cùng.
So với các loại nhạc cụ khác, sáng tác gia viết nhạc cho guitare ngó bộ hổng nhiều, trong đó Francisco Terrega hẳn phải là người nổi tiếng nhứt. Và tấu khúc được trình diễn nhiều nhứt của ông chắn chắn phải là Recuerdos de la Alhambra.

Chút kỷ niệm xưa...

Hồi dọn về con hẻm ở Lý thái tổ, anh hai đã vào trung học. Tối tối anh hai qua chùa phụ giúp thày Tự Đức. Thày mở lớp kèm học miển phí cho đám lối xóm con nhà nghèo hiếu học. Lớp học mở trong hậu liêu, sau giờ cơm tối, đèn đóm lờ mờ. Khi nớ điện chưa phổ cập, phải dùng đèn dầu, đốt ba bốn ngọn cũng chưa soi đủ hết 4 góc bảng nữa lận. Bảng là một miếng liếp ván được chế biến rồi sơn đen - "bảng đen phấn trắng" là vậy. Sau này với thời gian, màu đen thay bằng màu xanh lục dòm thoáng mát hơn - Rồi để "khắc phục khó khăn", thày Tự Đức nhịn ăn nhịn mặc, cộng thêm công quả phụ huynh học trò góp vào, sắm được ngọn đèn măng-sông. Lớp học bỗng dưng khởi sắc.
Cách nào đó hổng hiểu, anh hai được thày truyền thụ ngón mandoline. Đờn địch ở tu sĩ công giáo là thường, ở tu sĩ phật giáo y hình hiếm thấy. Sau tía còn mang về cho anh cái banzo cũ. Tui hổng khoái mandoline, cũng hổng khoái banzo. Tiếng của chúng chán phèo, lạt lẽo vô vị buồn nản thấy bà, nghe rồi chỉ muốn đu liếp cửa leo dzìa, xoa chơn dzô giường trùm mền đi ngủ. Nhưng... đây là vốn liếng khởi đầu đã đưa anh hai vào con đường âm nhạc lâu dài sau đó.

Rồi dượng hai mang về cho thằng cháu vợ cây guitare. Có guitare anh hai y chang cá ong ra biển. Thày Tự Đức mù tịt guitare nên anh hai phải mò mẫm mình ên. Tiền tía má cho ăn sáng dằn bụng để dành đặng mua sách nhạc, cả nhạc lý lẫn bài tập. Thời đó hổng có photocopy nha, sách nhạc được đám con nhà nghèo chuyền nhau mượn qua mượn lợi, rồi nếu thích cứ việc gò lưng ghi chép để dành. Mấy chục năm dzồi, chừ tui vẫn còn nhớ cuốn Carulli giấy đã ngả vàng vì tuổi thọ, bìa chữ đen sờn nát, trong trỏng là những bài tập. Cuốn sách lúc mua đã quá xá cũ, được anh hai gối đầu giường, tụng niệm sớm tối. Rồi thày Tự Đức kiếm ra cho anh một ông thày dạy guitare. Trước tiên anh học classic, sau mới qua flamenco.
Lúc này tui chưa đi học, bàn ngày mải mê bắn bi đánh bông vụ với trẻ lối xóm, bàn đêm lăn ra ngủ, ngay khi anh chưa kịp kéo đờn ra khỏi thùng nữa cà. Má rất ghét nghe đờn (tửng tửng chẳng đâu vào đâu). Buổi tối bà có thói quen chong đèn may vá, đọc Nửa Chừng Xuân hay Đoạn tuyệt, nay sanh chia trí vì tiếng đờn (bài tập) của thằng con, chữ nghĩa lộn tùng phèo, hổng còn nhớ cô Mai cô Loan đang làm chi nói chi trong trang truyện !

Rồi tranh chấp mỗi ngày mỗi tiếp diễn, hai mẹ con cùng làu bàu về nhau tới nỗi tía phải xăn tay áo giải quyết. Tía biểu anh hai ra hàng hiên sau nhà tập đờn, vừa mát vừa yên - từ hiên Lý Thái Tổ sang tới luôn hiên Bùi Viện - Xui cái, hiên sau kế sàn nước lối xóm, môi trường muỗi mòng phát triển thuận lợi. Tối trời, muỗi túa ra nghe recital, nhạc sĩ vừa uýnh đờn vừa đập muỗi. Bữa nào xui xẻo bận xà loỏng, muỗi đột kích luôn cả bình cà phê, thò tay gãi mệt xỉu vẫn hổng đã, chưa đã... ngứa ! Rồi để bảo vệ công suất bình và phin lọc, nhạc sĩ bận quần dài túm ống và chơi luôn đôi vớ, dzồi dùng chiêu song thủ hổ bác, vừa uýnh đờn vừa đập muỗi lia chia. Mùa nào có nỗi khổ riêng của mùa nấy. Mùa mưa hương đồng nội toả ít, bù lợi muỗi nhiều; mùa nắng hương nồng nặc nhưng muỗi ít hằn lợi !

Ai nói dzậy cà, khó nghèo là môi trường huấn nhục tới nơi tới chốn. Có lẽ ngoài cây guitare ra, anh hổng còn chi khác để vui chơi. Anh chăm chỉ học chữ và chăm chỉ tập đờn. Bữa nào cũng dzậy, sau một đêm vừa tập đờn vừa đập muỗi, nhạc sĩ mầm non đạp xe máy ra đi khi trời hừng sáng, cặp-táp ràng dây thung ở porte-bagage, còn đờn trong thùng đeo lủng lẳng trên lưng. Học chữ xong thì anh đi học đờn rồi mới dzìa. Thày đờn của anh là người quen biết của thày Tự Đức, nhận dạy anh hai với học phí tượng trưng. Y hình... thày cũng kết cây đờn của anh hai dữ lắm, gạ mua gạ đổi (các thêm tiền) nhưng hổng xong. Khi mô thày có concert thì anh hai phải ép lòng mang người yêu cho thày xài đỡ.
Nói ngay tui chưa hiểu chi, thấy tiếng guitare nghe dễ chịu hơn tiếng mandoline và banzo. Sau này, thỉnh thoảng anh hai còn chơi cả hạ uy cầm, nghĩa là cây guitare cải biến, đặt nằm ngang, chơi bằng móng sắt và với một thanh sắt nhỏ rà tới rà lui trên cần đờn, thay vì bấm phím. Tiếng hạ uy cầm thoạt nghe réo rắt, nhưng nó cứ một giọng đều đều, nghe một chập sanh ớn ợn.

Tiếng đờn của anh hai hổng chỉ làm má lên ruột chia trí, nhưng y hình cả nhà ai cũng phàn nàn, nghe nó kháng chiến trường kỳ sát lỗ tai thiệt cũng khổ. Nhưng rồi... cách nào đó, hoặc lỗ tai đã quen nên hết còn chú ý, hoặc mầm non từ từ hết non, ngón đờn dần dà upgrade. Rồi... cả nhà hổng ai đế ý tới nó nữa.
Khi về Bến vân Đồn, tui đã đi học. Nhà cơi tầng, phía dưới bán buôn và phía trên để ở, anh hai có chỗ thong thả tập đờn, ngón song thủ hổ bác lùi vào dĩ dzãng. Anh chơi gì ngoài những bài tập trong Carulli thì em út mù tịt. Trừ giờ tập đọc tập viết với tía má, tui y chang gió hoang đồng nội. Mãi cho tới bữa má liệt giường liệt chiếu phải vào ra bịnh viện hà rằm. Suốt nửa năm dài nớ, trong tuần tui được má giao cho anh hai trông chừng sau giờ học, cuối tuần chị ba dẩn tui sang Khánh Hội gởi ở nhà dì hai.

Hồi mua lại căn phố của ông bà tám ốc phía sau, tía biểu: thằng hai nay đã lớn, con dọn đồ sang gác nhà ông Tám thong thả học hành. Đây là thời gian anh hai thu mình lợi trong thế giới riêng - chỉ lên nhà trên vào giờ cơm và lúc có khách - và thay thế tía má giáo dục đám em. Anh lớn hơn tui gần con giáp rưỡi - má sanh tui vào giờ thứ hai mươi lăm - má nói thằng hai lập gia đình sớm dám có con bằng em nó hổng chừng -
Và tui sợ anh hai hơn sợ tía má nữa lận ! Thời gian ở với anh hai trên căn gác, tui rầu rĩ héo hon y chang tội phạm đang thọ khổ hình. Anh hai vốn rất tận tâm với "nghề nghiệp", anh mở sách có những bài tập đọc dài ngoằng bắt tui viết theo, mỗi bữa 5- 6 trang giấy là ít. Kế đó học cửu chương làm toán, cộng trừ nhơn chia, số chẵn lẻ đơn kép, những trang bài tập lê thê loòng thoòng. Rồi... trong khi chờ đợi, anh thong thả lôi đờn ra tập.
Học hành chắc cũng là duyên nghiệp. Cousin Don nhà dì Hai học ít chơi nhiều, bài vở xếp xó cho chó gặm, chừng tới bữa nộp thì quýnh đít. Từ Khánh Hội, Don đạp xe máy qua Vĩnh Hội nhờ anh hai chỉ dùm cho lẹ. Thường anh hai dạy tui và Don cùng lượt. Tui lẹ làng làm sớm nghỉ sớm, xong ở không cũng buồn mà hổng dám phá ngang vì sợ, tui mình ên entertain ngó Don học, và ngấm luôn bài vở của Don hồi nào hổng hay. Để em bận bịu đừng nghịch ngầm, anh hai dạy luôn tui chương trình trung học của Don. Chừng má khỏi bịnh, quý nữ đã thông thái hơn nhiều bực. Lúc anh hai bắt đầu chơi Tarrega thì quý nữ đã lớn dọng dọng!
Tarrega là một trong những sáng tác gia nổi tiếng nhứt của thế kỷ 19 và mãi cho tới bây giờ, là cao thủ danh trấn giang hồ về giai điệu và kỹ thuật, cả trong trước tác lẫn trình diễn.
Giữa thế kỷ 19, ký giả cờ hoa Washington Irving theo dấu chơn viễn du của Christopher Columbus, ghé Alhambra cốt tìm kiếm lục lọi tài liệu về nhà hàng hải, rồi viết sách "Tales of Alhambra", dịch sang spanish là "Recuerdos de la Alhambra", được Tarrega dùng làm tựa tấu khúc viết cho tây ban cầm, Recuerdos de la Alambra.
Nghe nói... thời nhỏ, Tarrega bị tai nạn nên thị lực giảm rồi sanh nhút nhát, tới lớn cứ vẫn ngần ngại mỗi khi phải xuất hiện trước đám đông. Các buổi trình diễn của ông thường giới hạn tại những thính phòng nhỏ. Tarrega có giao tình gắn bó platonic với một bà goá, đẹp xấu hổng biết, nhưng trẻ và giàu có. Cô này trước tiên ghi tên thụ giáo Tarrega, sau thành luôn mạnh thường quân, bảo trợ nhạc sĩ. Cô bưng ông và toàn gia đình vợ con ông về villa của mình ở Barcelonna để thày thong thả trước tác - rất nhiều tác phẩm của Tarrega đã được viết trong thời gian này - Nhơn chuyến thăm viếng Granada, hai thày trò tới cổ thành Alhambra. Nghe nói họ đủng đỉnh đi dạo, rồi ngồi xuống một băng ghế ngó lên cổ thành, đang một màu đỏ rực trong ráng chiều. Tarrega về thai nghén bản nhạc, làm quà sanh nhựt tặng nàng như một lời tri ân (as a humble gift for your birthday...) Khi ấy cơm đang rất lành và canh đang rất ngọt.
Nhưng dzồi...yêu nhau lắm hẳn cắn nhau đau, too close for comfort có lẽ - đời vốn vẫn thế - giao tình giữa Tarrega và ân nhơn sanh trục trặc rối nùi, tới độ... một ngày đẹp trời, cô học trò tống cổ thày cùng gia đình ra khỏi villa ngay tắp lự. Khi này Tarrega đã nổi tiếng lắm dzồi. Đây là lý do vì sao lúc bản nhạc đưa sang nhà xuất bản, tấu khúc lại được đề tặng một người khác - ông bầu show đã tổ chức những buổi lưu diễn cho Tarrega tại âu châu.
Theo dòng lịch sử...
Tại đất trung đông, Ả Rập Saoudite do vua ả rập trị vị và giáo chủ hồi giáo lãnh đạo. Chuyện kế thừa dẫn đến chiến tranh, ngai vàng luân phiên đổi chủ. Sau công nguyên (AD), đám ả rập hồi giáo hùng mạnh lên, rồi nảy sanh khuynh hướng bành trướng lãnh thổ.
Đâu đó y hình vào thế kỷ 7-8, bộ tộc Moor là sắc dân sống rải rác xung quanh địa trung hải, nhưng nhiều nhứt ở bắc phi. Có thể do thất sủng, thua trận, hoặc ngán ngẩm việc gươm đao, tiểu vương Moor và bầu đoàn thê tử từ bắc Morocco vượt eo biển Gibralta tiến sang nam Spain dựng nghiệp, thành lập vương triều Moor, thần phục rồi thành chư hầu của vua Spain.
Bộ tộc Moor cai trị lãnh địa của họ tại nam Spain suốt mấy trăm trăm năm dài, dân Hồi dân Jew và dân Chúa chung sống hòa bình, tự do hành đạo giảng đạo. Kinh tế nam Spain thịnh vượng quá thể. Thành quách La Alhambra tại Granada nổi tiếng với kiến trúc điêu khắc nặng ảnh hưởng văn hóa ả rập được xây dựng dưới triều đại Moor. Nhưng ảnh hưởng và dzăng minh hồi giáo không dừng lợi ở nam Spain, nó còn theo đám thương nhân đi dọc bờ Địa trung Hải lần ngược hướng đông bắc để vào tới đất Catalane (quê hương của Pablo Casals) sát tới biên giới phía nam xứ pháp.
Thế kỷ 13 tại kinh đô Spain, nữ hoàng Isabella nối nghiệp tiên đế, cùng chồng lên ngôi cửu ngũ. Một bữa bà nhảy dựng khi hay tin hổng xa đó lắm, đế quốc thổ hồi giáo thành hình, hùng mạnh và thiện chiến. Trong khi ấy tại miệt nam ngay dưới chơn, chình ình một tên chư hầu hồi giáo, tuy ngoài mặt phục tòng nhưng hẳn chỉ chờ thời cơ tạo phản, nguy quá xá nguy!
Isabella và chồng mang quân chinh nam, 'reconquista' tái chiếm lại đất đai bộ tộc Moor đã 'chụp giựt' của Spain hơn 7 thế kỷ trước. Năm 1492, Reconquista hoàn tất, Isabella phái Christopher Colombus dong buồm ra khơi tìm đất đai mới. Hai năm sau 1494, Colombus khám phá ra châu mỹ, đóng cờ dành chủ quyền lãnh thổ cho vương triều đất Spain.
Nữ hoàng Spain tiếng dậy như cồn, được thần dân trong nước và cả thế giới ngưỡng phục. Thừa thắng xông lên, bà quyết định nhổ cỏ tận gốc ngăn ngừa hậu hoạn, Isabella hạ chiếu chỉ, buộc đám do thái và ả rập tại nam Spain phải cải đạo theo thiên chúa giáo, nếu không sẽ bị đuổi khỏi xứ. Rồi tiện thể được đà, gọn lẹ cho giựt sập luôn các mosques và synagogues tại nam Spain - Nhưng tới đền hồi giáo ở Cordoba Alhambra thì chùn tay, tiếc rẻ hổng nỡ vì thấy quá đẹp, b quyết định giữ lại, bèn thay đổi sơ sài kiến trúc và biến nó thành thánh đường Sta Maria –
Guitare...
Tiếng dziệc là tây ban cầm, nghĩa là cây đờn xứ tây ban nha. Guitare tới xứ mình từ hồi nào và tại sao gọi thế thì thiệt hổng tường, và dễ sanh lẫn lộn. Tui vẫn yên trí guitare là nhạc cụ riêng của xứ Spain - như cây đờn bầu của mình vậy - Dè đâu bé cái lầm!
Guitare xuất xứ thời cổ đại, tại cái nôi văn minh ả rập cũ, cả hàng ngàn năm trước công nguyên, và đã theo vó ngựa viễn chinh ả rập sang tới âu châu. Guitare là chữ ghép của gui (nghĩa là nhạc) với tare (nghĩa là dây). Hình dáng kích thước cây guitare thay đổi dần theo thời gian. Số dây cũng thay đổi, rồi dừng lại và cố dịnh ở năm dây trong một khoảng thời gian dài. Tại Spain năm 1784, nó được Gaetano Vinacci cải biến và cải tiến, cho thêm vào dây thứ sáu, để hoàn chỉnh cây đờn như hiện nay. Rồi từ đó, để phân biệt, ta gọi cây guitare 6 dây nớ là spanish guitare. Có lẽ tây ban cầm là phiên dịch từ tên này.
Có nhạc cụ nào ta ôm gọn vào tay mà hổng thắc thỏm, rằng lạng quạng nó có thể lọt rớt bất tử ? Thưa... cây ghi ta chớ chi. Cùng với mandoline và banjo, guitare thuộc nhóm đờn dây để khảy - nhưng guitare còn để móc nữa cà - Guitare được trời ưu đãi nên khổ người gọn gàng suông sẻ, em tỉnh bơ rơi gọn vào lòng đối phương, để chàng một tay đỡ vai đỡ cổ, tay kia ve vuốt dịu dàng. Ngó thế của guitarist ngồi ôm nhạc cụ, người ta dễ tưởng tượng tới một tình yêu mang rất nhiều say đắm. Vậy hổng lãng mạn tình tứ sao ! Trái lợi, mandoline và banjo nhỏ hìu, ẵm gọn trong hai tay, nhưng ôm chúng hồi hộp thấy bà, y chang trẻ sơ sanh quấn tã, lạng quạng dám rớt cái độp. Chưa kể là hồi o oe, tiếng của chúng là thứ tiếng thiếu cảm xúc - xưa rày tiếng khóc hài nhi vốn là tiếng khóc khô không lệ !
Dòng nhạc tây ban cầm chia ra nhiều nhánh, hai nhánh chính là cổ điển và flamenco. Tây ban cầm xử dụng một số kỹ thuật riêng, đáng kể nhứt là ngón tremolo, tiếng việt là kỹ thuật reo dây. Reo dây nghe nói xuất xứ từ cách chơi mandoline hay banjo. Kỹ thuật reo dây dùng ngón tay móc - hổng khảy hổng búng nhưng móc - và móc liên tục vào cùng một nốt, âm thanh tạo ra sẽ dzéo dzắt dzô cùng.
So với các loại nhạc cụ khác, sáng tác gia viết nhạc cho guitare ngó bộ hổng nhiều, trong đó Francisco Terrega hẳn phải là người nổi tiếng nhứt. Và tấu khúc được trình diễn nhiều nhứt của ông chắn chắn phải là Recuerdos de la Alhambra.
Chút kỷ niệm xưa...
Hồi dọn về con hẻm ở Lý thái tổ, anh hai đã vào trung học. Tối tối anh hai qua chùa phụ giúp thày Tự Đức. Thày mở lớp kèm học miển phí cho đám lối xóm con nhà nghèo hiếu học. Lớp học mở trong hậu liêu, sau giờ cơm tối, đèn đóm lờ mờ. Khi nớ điện chưa phổ cập, phải dùng đèn dầu, đốt ba bốn ngọn cũng chưa soi đủ hết 4 góc bảng nữa lận. Bảng là một miếng liếp ván được chế biến rồi sơn đen - "bảng đen phấn trắng" là vậy. Sau này với thời gian, màu đen thay bằng màu xanh lục dòm thoáng mát hơn - Rồi để "khắc phục khó khăn", thày Tự Đức nhịn ăn nhịn mặc, cộng thêm công quả phụ huynh học trò góp vào, sắm được ngọn đèn măng-sông. Lớp học bỗng dưng khởi sắc.
Cách nào đó hổng hiểu, anh hai được thày truyền thụ ngón mandoline. Đờn địch ở tu sĩ công giáo là thường, ở tu sĩ phật giáo y hình hiếm thấy. Sau tía còn mang về cho anh cái banzo cũ. Tui hổng khoái mandoline, cũng hổng khoái banzo. Tiếng của chúng chán phèo, lạt lẽo vô vị buồn nản thấy bà, nghe rồi chỉ muốn đu liếp cửa leo dzìa, xoa chơn dzô giường trùm mền đi ngủ. Nhưng... đây là vốn liếng khởi đầu đã đưa anh hai vào con đường âm nhạc lâu dài sau đó.
Rồi dượng hai mang về cho thằng cháu vợ cây guitare. Có guitare anh hai y chang cá ong ra biển. Thày Tự Đức mù tịt guitare nên anh hai phải mò mẫm mình ên. Tiền tía má cho ăn sáng dằn bụng để dành đặng mua sách nhạc, cả nhạc lý lẫn bài tập. Thời đó hổng có photocopy nha, sách nhạc được đám con nhà nghèo chuyền nhau mượn qua mượn lợi, rồi nếu thích cứ việc gò lưng ghi chép để dành. Mấy chục năm dzồi, chừ tui vẫn còn nhớ cuốn Carulli giấy đã ngả vàng vì tuổi thọ, bìa chữ đen sờn nát, trong trỏng là những bài tập. Cuốn sách lúc mua đã quá xá cũ, được anh hai gối đầu giường, tụng niệm sớm tối. Rồi thày Tự Đức kiếm ra cho anh một ông thày dạy guitare. Trước tiên anh học classic, sau mới qua flamenco.
Lúc này tui chưa đi học, bàn ngày mải mê bắn bi đánh bông vụ với trẻ lối xóm, bàn đêm lăn ra ngủ, ngay khi anh chưa kịp kéo đờn ra khỏi thùng nữa cà. Má rất ghét nghe đờn (tửng tửng chẳng đâu vào đâu). Buổi tối bà có thói quen chong đèn may vá, đọc Nửa Chừng Xuân hay Đoạn tuyệt, nay sanh chia trí vì tiếng đờn (bài tập) của thằng con, chữ nghĩa lộn tùng phèo, hổng còn nhớ cô Mai cô Loan đang làm chi nói chi trong trang truyện !
Rồi tranh chấp mỗi ngày mỗi tiếp diễn, hai mẹ con cùng làu bàu về nhau tới nỗi tía phải xăn tay áo giải quyết. Tía biểu anh hai ra hàng hiên sau nhà tập đờn, vừa mát vừa yên - từ hiên Lý Thái Tổ sang tới luôn hiên Bùi Viện - Xui cái, hiên sau kế sàn nước lối xóm, môi trường muỗi mòng phát triển thuận lợi. Tối trời, muỗi túa ra nghe recital, nhạc sĩ vừa uýnh đờn vừa đập muỗi. Bữa nào xui xẻo bận xà loỏng, muỗi đột kích luôn cả bình cà phê, thò tay gãi mệt xỉu vẫn hổng đã, chưa đã... ngứa ! Rồi để bảo vệ công suất bình và phin lọc, nhạc sĩ bận quần dài túm ống và chơi luôn đôi vớ, dzồi dùng chiêu song thủ hổ bác, vừa uýnh đờn vừa đập muỗi lia chia. Mùa nào có nỗi khổ riêng của mùa nấy. Mùa mưa hương đồng nội toả ít, bù lợi muỗi nhiều; mùa nắng hương nồng nặc nhưng muỗi ít hằn lợi !
Ai nói dzậy cà, khó nghèo là môi trường huấn nhục tới nơi tới chốn. Có lẽ ngoài cây guitare ra, anh hổng còn chi khác để vui chơi. Anh chăm chỉ học chữ và chăm chỉ tập đờn. Bữa nào cũng dzậy, sau một đêm vừa tập đờn vừa đập muỗi, nhạc sĩ mầm non đạp xe máy ra đi khi trời hừng sáng, cặp-táp ràng dây thung ở porte-bagage, còn đờn trong thùng đeo lủng lẳng trên lưng. Học chữ xong thì anh đi học đờn rồi mới dzìa. Thày đờn của anh là người quen biết của thày Tự Đức, nhận dạy anh hai với học phí tượng trưng. Y hình... thày cũng kết cây đờn của anh hai dữ lắm, gạ mua gạ đổi (các thêm tiền) nhưng hổng xong. Khi mô thày có concert thì anh hai phải ép lòng mang người yêu cho thày xài đỡ.
Nói ngay tui chưa hiểu chi, thấy tiếng guitare nghe dễ chịu hơn tiếng mandoline và banzo. Sau này, thỉnh thoảng anh hai còn chơi cả hạ uy cầm, nghĩa là cây guitare cải biến, đặt nằm ngang, chơi bằng móng sắt và với một thanh sắt nhỏ rà tới rà lui trên cần đờn, thay vì bấm phím. Tiếng hạ uy cầm thoạt nghe réo rắt, nhưng nó cứ một giọng đều đều, nghe một chập sanh ớn ợn.
Tiếng đờn của anh hai hổng chỉ làm má lên ruột chia trí, nhưng y hình cả nhà ai cũng phàn nàn, nghe nó kháng chiến trường kỳ sát lỗ tai thiệt cũng khổ. Nhưng rồi... cách nào đó, hoặc lỗ tai đã quen nên hết còn chú ý, hoặc mầm non từ từ hết non, ngón đờn dần dà upgrade. Rồi... cả nhà hổng ai đế ý tới nó nữa.
Khi về Bến vân Đồn, tui đã đi học. Nhà cơi tầng, phía dưới bán buôn và phía trên để ở, anh hai có chỗ thong thả tập đờn, ngón song thủ hổ bác lùi vào dĩ dzãng. Anh chơi gì ngoài những bài tập trong Carulli thì em út mù tịt. Trừ giờ tập đọc tập viết với tía má, tui y chang gió hoang đồng nội. Mãi cho tới bữa má liệt giường liệt chiếu phải vào ra bịnh viện hà rằm. Suốt nửa năm dài nớ, trong tuần tui được má giao cho anh hai trông chừng sau giờ học, cuối tuần chị ba dẩn tui sang Khánh Hội gởi ở nhà dì hai.
Hồi mua lại căn phố của ông bà tám ốc phía sau, tía biểu: thằng hai nay đã lớn, con dọn đồ sang gác nhà ông Tám thong thả học hành. Đây là thời gian anh hai thu mình lợi trong thế giới riêng - chỉ lên nhà trên vào giờ cơm và lúc có khách - và thay thế tía má giáo dục đám em. Anh lớn hơn tui gần con giáp rưỡi - má sanh tui vào giờ thứ hai mươi lăm - má nói thằng hai lập gia đình sớm dám có con bằng em nó hổng chừng -
Và tui sợ anh hai hơn sợ tía má nữa lận ! Thời gian ở với anh hai trên căn gác, tui rầu rĩ héo hon y chang tội phạm đang thọ khổ hình. Anh hai vốn rất tận tâm với "nghề nghiệp", anh mở sách có những bài tập đọc dài ngoằng bắt tui viết theo, mỗi bữa 5- 6 trang giấy là ít. Kế đó học cửu chương làm toán, cộng trừ nhơn chia, số chẵn lẻ đơn kép, những trang bài tập lê thê loòng thoòng. Rồi... trong khi chờ đợi, anh thong thả lôi đờn ra tập.
Học hành chắc cũng là duyên nghiệp. Cousin Don nhà dì Hai học ít chơi nhiều, bài vở xếp xó cho chó gặm, chừng tới bữa nộp thì quýnh đít. Từ Khánh Hội, Don đạp xe máy qua Vĩnh Hội nhờ anh hai chỉ dùm cho lẹ. Thường anh hai dạy tui và Don cùng lượt. Tui lẹ làng làm sớm nghỉ sớm, xong ở không cũng buồn mà hổng dám phá ngang vì sợ, tui mình ên entertain ngó Don học, và ngấm luôn bài vở của Don hồi nào hổng hay. Để em bận bịu đừng nghịch ngầm, anh hai dạy luôn tui chương trình trung học của Don. Chừng má khỏi bịnh, quý nữ đã thông thái hơn nhiều bực. Lúc anh hai bắt đầu chơi Tarrega thì quý nữ đã lớn dọng dọng!
*
Recuerdos de la Alhambra là một bài thơ viết theo thể "ngũ ngôn tứ tuyệt" gồm hai đoạn A và B, mỗi đoan 4 câu năm nốt. Đoạn A ở cung La thứ (A minor) và đoạn B cung La trưởng (A major). Mỗi đoạn được chơi hai lần, AA BB, trước khi vào kết thúc C.
"Hơi thơ" trôi liên tục nhịp nhàng bằng ngón tremolo nổi tiếng.
Tarrega hổng phải là cha đẻ của kỹ thuật tremolo, nhưng cách nào đó, ngón này được ông xử dụng trong các tác phẩm của mình và biến nó thành một trong những kỹ thuật kinh điển của dòng nhạc tây ban cầm cổ diển đương đại.
Trong Recuerdos de la Alhambra, kỹ thuật tremolo được xử dụng liên tục, suốt từ nốt nhạc đầu tới nốt nhạc cuối. Có lời giải thích của một nhóm thày bàn hồi nẳm, rằng ngón tremolo này chính là tiếng nước phông tên chảy, vì Alhambra có rất nhiều phông tên nước khắp mọi nơi. Dĩ nhiên nói khơi khơi vậy, ai thích cứ việc lập lợi nếu tin... chớ thiệt sự thì hổng căn cơ xứ sở chi ráo.
Vậy rồi ai chơi Recuerdos de la Alhambra hay nhứt? Thưa... một guitarist trẻ xứ củ sâm, cô Kyuhee Park (họ hàng với tổng thống Phác Chánh Hy hổng chừng) Thoạt đầu thấy chỉ vậy vậy, nhưng nghe một chập rồi so sánh với các guitarist khác, mới nhận ra ngón tremolo của cô Phác xuất sắc hổng ngờ.
Tiếng dây reo trong trẻo rõ ràng, cả trường độ lẫn nuances, nốt nào nốt ấy đâu vô đó dứt khoát đàng hoàng, hổng nhèo nhẹo giựt cục cà lăm, cũng hổng làm màn táo bón nhăn nhó, màu mè mụ mị cốt che lấp khuyết điểm kỹ thuật.
Xin thành khẩn khai báo rằng... đó giờ tui vốn yếu nhơn đức tin với phái "tuy đẹp nhưng lại rất yếu"- và... nói khoẻ - Đám nọ làm chi cũng hổng nên hồn (trừ... làm đẹp và làm mẹ). Cứ ngó chúng lăng xăng y phép sanh rét mướt rồi tự thương thân, vì đã bị buộc phải đứng chung hàng ngũ ! Kỳ thị phái tánh hử, hẳn là vậy rồi. Tim óc đờn bà luôn chứa đầy những bất ngờ khó hiểu khó đoán và khó căn. Đứng kế chúng hồi hộp thấy bà, hổng biết lúc mô tarzan sẽ nổi giận. Dà... tui chỉ lập lợi lời ‘tướng công và đồng bọn’ thôi.
Chừ thì nhận ra quá trễ một điều, rằng trong cái mớ bòng bong lạ lùng hổ lốn ấy, thỉnh thoảng đã vẫn nứt ra vài "kỳ hoa dị thảo" ! Và cô Phác là một ngoại lệ đứng đầu. Bàn tay ngón tay cô ngắn và nhỏ, chạy nốt trên cần đờn hẳn phải khó khăn hơn những bàn tay to dài, dềnh dàng chuối nải. Bất ngờ lý thú chớ sao ! Còn Interpretation dòng nhạc của cô thì khỏi chỗ chê !
Ngó và nghe cô Phác chơi một chập, thinh không tui sanh lòng tiếc rẻ cho mình. Ôi phải chi biết cô nghe cô sớm hơn, dám tui cũng học guitare. Chừ thì mọi việc coi như đã quá trễ !
https://www.youtube.com/watch?v=CzNVrr3oHLM
 
TỐ NGHI

  

Tuesday, January 21, 2025

BÌNH TĨNHYÊU NHAU

Ngu Yên
 
 
 
           *Thơ Ngu Yên.
            Viết lúc 3:30 sáng hôm nay,
            21 tháng 1 năm 2025.
 
Ba giờ sáng mở mắt.
Tuyết hóa thành phố mới tinh, tựa đêm qua ai lén sơn màu trắng.
Chuyện hiếm hoi Houston, nơi vương triều của nắng, trị vì những mồ hôi.
Mền dày ấm thua mền da.
Gối bông êm thua cánh tay.
Ba giờ sáng bắt đầu một ngày, khoan bàn chuyện lo lắng, vui trước đã.
Em mở nhạc.
Anh pha cà phê.
Quấn mền ngồi bên lề cuộc ngủ.
Quá đã. Hưởng chút thú tình già.
Em uống ly anh. Anh uống ly em. “Lòng cuồng điên vì nhớ, .. .”
“Chờ hoài nhau trong mơ …” dù cách nhau nửa gang tay.
Bài này mới hay: “Ta đi bằng một sợi tơ. Lung linh luồn trong khói mờ. Ta treo hồn vào tình thu. Thấy mình trôi loãng trăng loà.”
“Đêm đêm người mở lòng ra. Ôm ta trong cánh tay ngà …”
Em ôm tay anh. Anh ôm tay em. Có còn bao nhiêu ngày, ôm nhau mà không khóc?
Có còn bao nhiêu lần, không bận rộn đời ngu, được yêu nhau bình tĩnh? Cấm điện thoại reo.
Ba giờ sáng. Tuyết lạnh. Cà phê nóng. Nhạc hay.
Em nghe này:
“ Người về tay ngà thương nhớ. Kêu ta bằng một lời ru"
NGU YÊN
 
Ghi:
- Ca khúc “Hoài Cảm” của Cung Tiến.
- Ca khúc “Mộng Du” của Phạm Duy.