Tranh Amos Imre
1.
Mải chơi game, Thái không biết xe đã qua những trạm nào và
trạm đang dừng đây là trạm nào. Người ào
xuống chưa hết hẳn đã có chân thò lên len vào.
Thái xuống đại. Ra khỏi trạm 2
góc đường, Thái đứng trước một club có tượng ba con khỉ nho nhỏ trên vòm cửa ra
vào. Biết chỗ nào rồi. Thái thẩn thơ dạo phố phường, ghé một tiệm
sách. Ngày thường, tiệm không đông lắm. Thái đứng lẩn quẩn nhìn những món đồ chơi nho
nhỏ bán kèm, như một tiệm chạp phô ở quê nhà.
Đứng lâu lâu, Thái lại đi, rồi lại dừng ở một tiệm khác. Quanh một góc đường, cờ phướn đủ sắc màu phần
phật bay, những lá phướn hình chữ nhật treo dài theo chiều cột vươn cao, vẽ
những logo, tranh cảnh, và hoa văn trang trí.
Tuần này nhạc hội opera diễn vở mới.
Dưới lòng đường, xe bus nhịp nhàng ghé bến rồi lại nhập vào lòng đường
với taxi và những chiếc xe hơi màu sắc xinh tươi. Taxi ở đây không “hỗn” như taxi bên Los
Angeles, xe hơi chạy cũng nhanh nhưng không inh ỏi hùng hổ như những thành phố
đông người nơi khác. Quẩn quanh, dù đây
là phố trung tâm thì cũng dường chỉ vài chục con đường, những địa điểm du lịch
cách nhau chẳng bao xa.
Gió bắt đầu nổi lên nhè nhẹ và ánh trời đã dịu. Có lẽ Thái phải về. Thái trở lại trạm lấy chuyến ngược về và
xuống ở đường John. Giờ tan sở xe cộ tấp
nập, Thái thong thả leo từng bực thang lên cầu bắc ngang đường sắt ngó xuống
đám đông thân mật ấm cúng ở bên dưới. Ga
buồn hiu hiu, không biết xe lửa có còn chạy ngang qua. Quang cảnh thật đơn sơ, tựa như cái ga xe lửa
ở ngã sáu Sài Gòn năm nào _ một chút nhếch nhác một chút thờ ơ vào những buổi
chiều tắt nắng, như bây giờ.
Thái nhớ chuyến đi núi Bửu Long với Mây năm lớp 7. Hai đứa nghe ai chỉ vẽ không nhớ, ra ga xe
lửa ngã sáu mua vé đi Thủ Đức. Xuống xe
lửa bắt xe lam hay xe lôi gì đó vào núi Bửu Long. Lên chùa trên núi vòng quanh thẩn thơ, leo
trèo ngắm ngó và cãi nhau vặt với mấy thằng nam sinh cũng bầy đặt lên núi trêu
gái. Ba bốn giờ hai đứa lục đục đón xe
trở lại ga để về Sài gòn. Vui nhất là
chặng băng ngang đồng vắng, chỉ có cây lau và hoa cỏ không tên hai bên đường
rầy. Thái và Mây rủ nhau ra ngồi bậc
thềm xe cho mát, nhìn hàng cây chậy giật lùi khi xe lửa băng qua. Chợt dưng một ông lính ở đâu bước ra nạt,
_
Hai cô không được
ngồi như vậy, nguy hiểm lắm!
_Mắc mớ gì tới ông ?
_
Nhưng tôi có bổn phận
giữ gìn an toàn cho dân!
_Ớ, ai làm gì đâu mà thiếu an toàn.
Lằng nhằng, Mây và Thái vẫn ngồi lì ngắm cảnh.
Ông lính không biết còn hay đã vào trong,
nhưng chỉ 5, 10 phút sau Mây và Thái bật cười nghe tiếng ông trên đầu:
_... Ở đây bốn mùa
Xuân Hạ Thu Đông, nhưng bây giờ mùa Xuân không còn nở hoa …
Ngó lên hóa ra anh đang tán một chị bà ba lụa đen da trắng
nõn son phấn phơn phớt nhưng nét tỉ mỉ coi rất đẹp gái. Thái háy Mây rồi cất to giọng :
_
Ê mày, tao nhớ mình
chỉ có 2 mùa mưa nắng chứ làm gì có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông phải không?
_Đúng, mày nói đúng.
Mây cũng to mồm phụ họa mắt liếc lên.
Chị đẹp cười tủm tỉm có vẻ ngượng vì bị tán một cách nhà
quê, ông lính trợn mắt rồi đánh trống lãng nói chuyện khác… Xe về tới ga, hai đứa nhảy uỵch xuống rồi mỗi
đứa mỗi ngả về nhà cho kịp giờ cơm chiều nếu không sẽ bị cú đầu.
Những kỷ niệm vớ vẩn thời thơ dại mà nhớ hoài, Thái có cảm
nghĩ mỗi đứa nhóc lớn lên trên xứ nghèo đều quí đồ chơi và kỷ niệm rất mực vì
nó trở nên một phần nào đó trên thân thể tâm trí mình, đến như cái ga xe lửa
một lần qua cũng vương vào óc mấy mươi năm để bây giờ Thái đứng nơi đây mà
tưởng đứng tại quê nhà năm cũ. Thái hiểu
vì sao mình cắt ngắn một tuần thăm quê hương để vòng về đất Úc, chốn quê hương
thứ hai những tưởng là cuối cùng.
Trong cái lạnh bắt đầu loang theo bóng tối, Thái chầm chậm
xuống bậc thang đón taxi trở về căn nhà Thái vẫn còn giữ trống từ ngày rời sang
Mỹ.
Một mình trong chốn của mình, Thái thay quần áo, mở gói giấy
lấy mấy món ăn đã mua sẵn lúc xuống phố xếp ra bàn. Thái pha một bình trà nhỏ và bắt đầu ăn bữa
tối. Căn nhà vẫn sạch sẽ ngăn nắp nhờ
anh Thắng vẫn thường xuyên qua thăm ngó giữ gìn giúp Thái. Một chốn để tình thân có nơi bám víu, như dây
tơ hồng phải quấn vào một hàng rào nào đó rồi mới có thể đong đưa. Thái ăn xong vào giường thầm nghĩ đến những
việc cần phải làm ngày mai, những nơi muốn ghé, thăm hỏi người quen bè
bạn. Chỉ thoáng chốc là Thái đã sắp xếp
xong những cái tên và nơi chốn. Nằm trên
giường nệm cũ, Thái nghe một nỗi hân hoan ấm áp, một chút gì đó như hơi thở
phào sau cuộc phiêu lưu. Thái không biết
mình có còn trở về sống lại nơi đây nữa hay không, nhưng rõ ràng căn phòng này
mảnh đất này đã giữ một phần con người Thái mà chỉ khi trở về nằm vào chỗ cũ
Thái mới thấy ra cái phần thiếu vắng trong mình khi xa Úc.
Trong cái êm ấm của chốn rất riêng, Thái an tâm nghĩ lại
chuyến đi vừa qua. Thái chẳng biết mình
đi tìm cái gì, chỉ là một thôi thúc ngày càng mãnh liệt từ ngày đến bên ông
K.
Ông K. đã nhiều tuổi lắm, nhưng dường như ông không có
tuổi. Bên những cái cằn cỗi mệt mỏi của
tuổi đời hình như trong ông luôn có một tuyển thủ hằng hướng về một cuộc tranh
tài nào đó một cách không mệt mỏi. Thái
luôn thấy mến trọng ông như mến trọng một đội trưởng can trường trước trận
đời. Và Thái thích ngồi bên ông để biết
một mảng lịch sử đang từ từ trôi xa, xa khuất tầm mắt, xa khỏi ký ức níu kéo
góp nhặt của mọi người trên đất tạm dung này.
Mỗi câu chuyện ông kể, về một người, về một việc, đều làm
sống lại một phần lịch sử mịt mờ mà Thái không thể tìm thấy nơi trang
sách. Bởi vì chính ông là một trong
những phần lịch sử ấy đang thoi thóp chờ ngày vào sách.
Ông như cây thông ngàn năm đang chuẩn bị tự chết, héo mòn từ
trong ruột trở ra.
Mỗi lời ông nói như
tiếng lá thông xào xạc với gió, dù chỉ là những tiếng xào xạc rã rời nhưng vẫn
đầy đủ hương thơm và tiếng rì rào riêng của lá thông chạm vào nhau, chạm vào
cành.
Nhìn ông ngày một ngày hai tự tàn
héo, lòng Thái dậy một niềm xót thương cho phận người bất lực, muốn sống tràn
mà ai rồi cũng phải thua trong trận tranh tài cuối với tử thần.
Một ngày, Thái đến bên ông mà lạ sao ông
không nhìn đến Thái, chỉ hững hờ nhìn ra cửa sổ hướng về phía mặt trời sắp tắt,
ánh mắt trống rỗng lặng lờ.
Lúc đó Thái
thấy một niềm tuyệt vọng dâng tràn, và thực buồn cười, Thái nghĩ đến câu “đồng
trụ chiết, Giao chỉ diệt.”
Thái chả hiểu
lắm, nhưng câu nói ấy gieo vào lòng Thái nỗi lo như một lời nguyền sắp đến kỳ
hạn.
Thái vẫn chưa thực hiểu ông, chưa
biết hết con người ông, tựa như vẫn lờ mờ về đất nước của mình.
Ông K., Thái đến với ông quá muộn màng cho
kiếp này hay quá sớm cho kiếp sau?
Ông
quay nhìn Thái hay ông đang vọng về cuối chân trời?
Thái không bao giờ hiểu rõ hết cảm nghĩ của
mình về ông, chỉ thấy như bị ai xô tới lao về phía ông, như bị cuốn vào một
dòng nước xoáy, và ông nghĩ gì về Thái thì là một bí mật thiên thu.
Thái chỉ biết, những khi ngồi bên ông, dù khác biệt cá tính,
thời đại, và xã hội, giữa Thái và ông vẫn có một sự đồng cảm sâu xa bên ngoài
lời nói, một niềm thông cảm như sợi chỉ chạy suốt từ xa xưa xuyên qua tâm hồn
của hai người đến mãi sau. Đứng trước
ông Thái thấy như tìm lại được một cái tôi đã mất nhưng rồi lại như không thấy
hình ảnh mình trong gương. Và cũng có
lúc Thái thấy mình bị phản bội _ ông không như là người mà Thái hết lòng mến
trọng, tựa như cái quê hương mình hằng thương tưởng đó không còn phải là quê
hương của mình. Lần lữa, cái thôi thúc
âm thầm dần rõ rệt. Thái phải về để nhìn
lại đất nước, tìm cho ra vóc dáng bóng hình của một con người sắp đi vào quên
lãng.
Thái về, như Từ Thức về trần, thấy mình xa lạ. Thái co rúm như con sâu trước mọi người. Con người chung quanh hoặc hững hờ vô cảm
hoặc xăm xoi như sẵn sàng xẻ thịt con mồi, không còn dấu tích gì của chốn xưa,
đứng giữa xóm nhà mà tưởng mình đi lạc.
Thái đến nghĩa trang Bắc Việt thăm cô Xồi. Đất nghĩa trang mênh mông xưa đã dỡ, mồ mả
hay nương rẫy đều phải chung số phận làm sân đánh golf, sân chơi tennis, cho
thượng lưu mới. Nghĩa trang ấy nay chỉ
còn lại một góc sau chỗ giáp với đồng không, và mang một cái tên gì đó. Cô Xồi vẫn ở căn nhà cũ bên mấy luống huệ và
cúc vạn thọ. Mùa này đang gieo thược
dược, không bán hoa cho khách thăm mộ thì cũng giao cho các chỗ chung quanh bán
tàm tạm qua ngày.
Căn nhà vắng lặng êm ả, thấp thoáng ngoài kia bóng vài người
lần dò thăm mộ với thẻ nhang và bó hoa trên tay. Bích mở cửa cho Thái rồi vào gọi mẹ. Cô Xồi choắt lại như một cái nắm tay, nhưng
trông khỏe khoắn và đôi mắt vẫn tinh anh.
Thái chào thăm hỏi, cô vui vẻ thân mật lắm mà Thái có cảm tưởng cô không
biết Thái là ai. Bích khẽ gật đầu xác
nhận. Lát sau cô kiếu vào nhà sau lo cơm
nước. Như đồng lòng, Thái và Bích im lặng.
_Chú đâu?
_
Bố em đi Bắc rồi!
_???
_
Thăm thiên hạ!!!
Cười to.
Chị quên bố em là người tiếng tăm
rất được yêu mến sao.
Thái liếc mắt nhìn bàn viết kê kế bên cửa sổ.
Bàn sạch tuy nhiều vật dụng lỉnh kỉnh _ cái
ly đựng viết, mấy miếng giấy chi chú lăng quăng, kẹp giấy, vài quyển sách…
chiếm bên phải, mé cửa sổ.
Bên trái là
computer với bàn phím.
_Chú vẫn còn viết kịch?
_
Ai cho viết mà
viết. Mà cho thì cũng thôi. Bố nói cái
gì người ta cho thì người ta lấy lại được.
Bố chỉ làm cái điều bố muốn làm và được tự do làm, mà cái thời ấy qua rồi, chỉ còn là vang
bóng.
_Vang bóng mà được đó đây không sướng sao.
_
Thì có bao giờ bố khổ
đâu.
_Em nói vậy, chứ cả họ nhà mình cũng như thiên hạ, có ai
thoát cảnh…
_
Ừ, nhưng bất cứ nơi
đâu cũng có những người “bình đẳng” hơn người khác!!!
Hai đứa cười to.
Bích
cười thật vô tư, nhưng Thái nghe chút điều cay đắng.
_Chú rất được quí trọng, em biết vậy không ?
_Sao em lại không
biết. Bố có rất nhiều bạn, nhiều người
thương mến. Không những quí tài, họ còn
quí nhân cách của bố.
Thái nghe một chữ “nhưng mà” âm thầm sau lời nói của
Bích. Cô Xồi gọi hai đứa vào ăn
cơm. Thái sung sướng tìm lại được chút
ấm áp của tình thân, của đất quê. Cô Xồi
luôn ép Thái ăn món này ăn món kia còn cô thì ăn rất ít, chỉ gặm gạp xương xẩu
dù đồ ăn ê hề trên bàn. Bích thản nhiên
như đã quen với tính mẹ.
_Mẹ đã quen nhường cho
chồng con, cho bè bạn lúc đói khổ đến tìm mình, tới nỗi ăn sâu vào tiềm
thức. Có bố hào sảng với bạn, khí phách
với kẻ thù thật hãnh diện, có mẹ đảm đang hiền lành chịu đựng thật hạnh
phúc. Nhưng giá mà được no thì hãnh diện
và hạnh phúc hơn. Lại cười to vô tư.
Thái đứng lên giúp cô Xồi dọn dẹp mâm chén, nhưng cô không
cho Thái đụng tay vào, đuổi Thái và Bích ra trước ngồi chơi. Cô bảo Bích dẫn Thái ra thăm mấy luống hoa.
Hoa huệ vừa cắt giao, chỉ còn mấy thân non yếu bị gẫy gập
chờ nhổ lên trồng đợt mới. Bích chỉ mái
ngói tầm tầm ở cạnh cổng vào nghĩa trang nói “mộ ông bà đã bốc, mẹ để cốt trong chùa đó cho dễ khói nhang.” Thái nhìn không nhận ra đó là chùa, cách đó
không xa cũng là một mái nhà tầm thường khác, Thái nhẹ liếc, Bích gật đầu “chị
nhìn kỹ sẽ thấy thánh giá nhỏ trước cửa vào.”
Trời đã trưa, nắng gắt.
Hai đứa vào nằm trên phản gỗ.
Trời nóng nhưng nơi đây xa thành phố cũng được một khoảng thoáng
gió. Tỉ tê, Thái hỏi :
_Em có đọc kịch của bố?
_
Không!
_Tại sao?
_
Hồi bé thì chưa biết
để đọc. Lớn một chút thì đói xanh mắt
đầu óc đâu mà đọc.
_Trước 75 đâu đã khổ!
_
Mà vẫn đói đấy vì mẹ
là nữ sinh, lấy bố rồi đâu có biết làm ăn gì!
Thái mơ màng suy nghĩ.
Nhà Thái gần trường Bàn cờ, kể thì cũng hơi xa nhà cô Xồi nên chỉ có dịp
giỗ chạp mới gặp dù Thái trạc tuổi Bích, chỉ chú Xồi thì vẫn thỉnh thoảng ghé
thăm anh, đi uống cà phê.
Thái ngắm
nghía Bích, Bích hiền lành vô tư và rất ngoan.
Bích không lấy chồng, ở vậy để chăm sóc mẹ dù bố mẹ thúc dục mãi, giờ
thì đã lỡ tuổi lỡ thì, nhưng dường như Bích không bận lòng.
Bích nhìn Thái cười cười:
_
Chị biết không, hồi
mới lớn em cũng có bồ, cũng có nhiều người thăm hỏi. Nhưng em sợ những giọt nước mắt thầm lặng
trong phòng vắng của mẹ. Em sợ tiếng vét
lon gạo cuối ở đáy khạp. Em sợ bộ pyjama bố cầm về những ngày ở nhà của ai đó,
những lần mẹ ngã xỉu. Em không can đảm
đánh canh bạc tình duyên. Có lần bố đưa
em ra Bắc đi cùng cô ấy hình như để vượt biên, nhưng không biết sao bố quay về
chỉ để em đi với người ta.
_Em có bao giờ hỏi
vì sao
?
_Không, cái em muốn
hỏi là vì ai bố quay về, nhưng hỏi làm gì khi em cũng không dám biết câu trả
lời.
_Nhưng em vẫn may mắn có người bố như chú.
_
Khi em đã lớn không
còn bị cơn đói hành hạ, nhiều lúc lần giở những gì bố đã viết mong hiểu bố hơn,
nhưng mở ra em thấy ngấn nước mắt của mẹ, lật một trang thấy nét xanh tái lúc
mẹ ngã xuống. Thôi.
Trời chợt sập xuống, trong tích tắc mưa ào ạt đổ, rồi cũng
chỉ vài phút sau tạnh hẳn. Thái ngó ra
ngoài, cũng sắp tắt nắng chiều. Thái từ
giã cô Xồi và Bích, nói muốn ra thăm mộ người quen. Thái chả quen ai, chỉ thấy thèm dạo quanh
nghĩa trang mà không biết vì sao.
Thái đi vòng vòng quanh những ngôi mộ.
Mưa ướt, những ngôi mộ chưa xây chẹp nhẹp đất
chẩy nhão, hoa rũ ngả nghiêng bên mấy chân nhang.
Mấy cái huyệt đào sẵn nước đã lưng như những
cái ao tí hon.
Mùi đất ẩm dậy lên sau
cơn mưa, Thái choáng váng khi mới hít vào, nhưng một giây sau lại thấy lâng
lâng ngây ngất.
Ah, quê hương của Thái
vẫn còn đó, trong gió, trong những huyệt sâu.
Trời lúc nắng lúc mưa thật khó chịu.
Thái kêu taxi ra về, những ngôi mộ ướt vẫn lờn vờn trong trí.
Qua phố vắng một chút rồi xe nhập vào dòng
bụi bặm của thành phố bận rộn.
Hai bên
lề những đứa trẻ chạy đuổi cười vang trong gió.
Khi nhìn bọn con nít mồ hôi mồ kê mặt đỏ bừng Thái mới thấy được chút
thân quen của quê nhà.
Xe đã vào đường Vườn
Chuối, tài xế theo địa chỉ Thái ghi tính quẹo vào con hẻm lớn nhưng Thái ra dấu
xuống xe. Bên kia đường là lối đâm ngang
vào chợ, Thái chầm chậm đi bộ vào con hẻm to trước khi quẹo vào hẻm nhà
mình. Cách đường vài căn sẽ là một nhà
lầu 3 tầng của nhỏ tên Minh Phụng, rất xinh và có một nốt ruồi to ngay trên
sống mũi giữa 2 mắt. Thái không biết
mình nhớ con nhỏ vì cái nút ruồi lạ, hay vì cái hộp vuông vuông mà anh Thắng
dạy Thái gọi là cái in-tơ-côm gắn trên tường lúc mới vào nhà nó. Con nhỏ nói để dưới gọi lên lầu trên gọi
xuống không cần phải đi. Lúc đó Mây thấy
nhà nó tân kỳ hết biết.
Gần cuối ngõ trước khi quẹo sang hẻm nhà Thái sẽ là hẻm vào
nhà cô Trang, đồng tuổi với Thái nhưng là em họ của cậu. Cô Trang đẹp lắm, mắt to my rậm và môi
đỏ. Hình như họ nhà Thái ai cũng da
trắng má hồng. Trong xóm vẫn khen Thái
đẹp, nhưng buồn cười, năm Thái 20 cũng chưa có “một mối tình để vắt vai!” Dường như lũ con trai thích yểu điệu thục nữ,
không thích những cô chạy vòng sân Cộng Hòa tập cho chân dẻo cho hơi thở đều để
thi bơi như Thái!!!
Thái vào nhà, mợ hỏi Thái thăm chú và cô Xồi ra sao. Còn con
Bích? Thì nó vẫn ở không, mợ. Mợ
quay vào trong dọn cơm chiều. Chỉ có hai
mẹ con, ăn cơm xong mợ sang hàng xóm, Thái lên lầu.
Ngồi một mình nơi hàng ba, Thái nhìn xuống chung quanh lối
xóm. Đèn đóm sáng choang, không hiu hắt
như xưa. Không còn những tiếng cãi nhau
trong một gia đình nào đó, không còn chuyện cãnh quẹ của những nhà láng
giềng. Bây giờ chỉ nghe nhạc ở máy
karaoke và chương trình TV trên nhiều đài khác nhau đua tiếng, những tiếng véo
von liếng thoắng Thái không nghe kịp hiểu kịp.
Người ta đi về xoành xoạch mà không thấy ai nói với ai một lời. Ngồi cho đến khi không còn thấy gì chung
quanh chỗ mình đang ngồi, Thái trở vào nhà.
Một niềm mệt mỏi cô đơn tràn ngập lòng.
Từ lúc nói chuyện với Bích, Thái cứ hỏi lòng những điều Bích nói không
có gì mới lạ sao mang lại cho Thái niềm tuyệt vọng, nhưng bây giờ Thái hiểu,
Bích đã vẽ cho Thái chân dung ông K., hay đúng hơn, chân dung cả một thế
hệ. Thái không hề can dự vào quá khứ,
nhưng cứ có cảm tưởng mình có tội, dù nghĩ cho cùng Thái cũng chỉ là một nạn
nhân nếu Thái đã có liên can đến những người ấy.
Thái muốn khóc mà không khóc được. Có những lúc Thái thèm khóc dễ dàng như Mây,
nhưng chỉ thấy ráo hoảnh. Muốn không là
mình cũng không phải dễ. Mây nào biết,
Thái phải trốn Mây cả tuần chỉ vì sợ những giọt nước mắt sẵn sàng tuôn ra
ấy. Hôm ông K. được mời làm diễn giả,
Thái đến lúc cuối giờ định đón Mây và ông đến một tiệm ăn. Nhưng ông điềm nhiên giả lả rủ Thái đi cùng
các người “ái mộ, ” tưởng chừng như Thái cũng là một trong những con thiêu
thân. Thái lui lại, quay mặt nhìn quang
cảnh nhốn nháo quanh mình. Bên trong,
bóng Mây thấp thoáng sắp ra đến cửa rồi không biết sao lại trở vào. Thái chuồn thẳng để khỏi phải nhìn câu hỏi
trong mắt Mây. Bây giờ nằm trong bóng
đêm Thái nhớ ông K., đến cái quan hệ không thể giải thích ấy. Giải thích e buồn hơn. Mợ đã về và đã vào giường ngủ từ lâu mà Thái
vẫn còn thao thức.
Thấy Thái chỉ quanh quẩn trong nhà không đi đâu, mợ hỏi :
_Sao con tính ra Bắc
mà lại không đi?
_Để lần tới, mợ.
Đi Bắc hay đi đâu chăng nữa trên mảnh đất này, Thái có hy
vọng tìm được gì không? Quê hương không
thể thiếu con người, Thái mong gì một quê hương đổi khác khi lòng nhân không
bắt đầu từ chính chỗ nằm của mỗi người, từ trong cái dúm nhỏ xíu giữa vợ,
chồng, cha mẹ và con. Thái mong gì một
nén hương giải oan cho nhau khi mình không nhận được với nhau điều lầm lỗi để
tự giải oan. Ừ, thì mỗi người có quyền
được giữ cho mình một bí mật, một niềm riêng, nhưng Thái thấy dường như tất cả
chúng ta đã không sòng phẳng với nhau khi có thể _ chúng ta chỉ dối nhau khi có
thể!!! Gia sản để lại ngày một hao hớt
mà khi xem lại cũng chỉ toàn đồ giả, những đứa trẻ sẽ lớn lên, như Thái như
Bích như Mây, rồi nó có sẽ thất vọng? Sẽ
rất may nếu nó không biết chúng ta là ai và sẽ rất buồn vì như vậy nó không có
quá khứ. Thái nhớ một bài hát đã nghe :
Rồi
ngày nao yên vui
Ở
một nơi xa xôi
Tim
chợt nhớ tới người phương trời
N
ghe
một tiếng chim kêu lẻ loi giữa cây…
Thôi
đất đã chua cành đã chết
Xin
lấy dao chia lòng luyến tiếc…
Rừng
người cây xanh tươi
Biển
người như tay nôi
Ru
người sống trong tình yêu người
Xin
hãy nhớ quê hương tả tơi đắng cay
Nơi
máu đã xây thành đắp núi
Nơi
có gươm trong từng tiếng nói
Và
lưới đời giăng khắp nơi… ***
Thái cắt ngắn một tuần lễ ở Việt Nam, lấy vé ghé lại
Úc. Hôm từ giã mợ, Thái vào bàn thờ thắp
hương cho cậu. Một giọt nước mắt tủi cực
rơi trong lòng Thái. Mai sau, cho dẫu
cái lý do khiến Thái bỏ quê không còn, nhưng khi đó Thái vẫn là một công dân
hạng nhì như đã sinh ra, sao cam. Cậu, con ước xương con được rữa trong cái
huyệt võng nước kia hòa cùng máu xương cậu.
Con ước hồn con quấn lấy cành huệ gẫy dập kia quyện với hồn mợ khi đó
chắc cũng đã về với đất. Đó nào phải
chuyện cao vời, nhưng bước chân đi thì đã xóa đường lấp lối _ có còn
cái huyệt võng nước nào cho con. Ôi,
cậu, con ước cậu được nghe bài hát ấy, con mừng cậu đã không phải hát bài hát
ấy.
Thái cùng mợ mang
va li ra taxi. Thái về thường xuyên nên
mợ đã quen giã biệt, không khóc như lần đầu Thái về thăm. Chỉ riêng Thái vẫn khóc hoài khi đã ngồi
trong lòng phi cơ dù khi về tới Sài gòn chỉ vài ngày là Thái đã nhấp nhổm muốn
rời. Úc, Thái về để tìm nhặt nốt những
mảnh vụn. Ở chốn rất riêng ấy Thái sẽ có
thì giờ chắp vá lại mọi mảnh vụn mong tìm ra mình trong gương vỡ.
Thái với tay tắt đèn ở đầu giường, nhưng vẫn chưa ngủ
ngay. Đêm đất Úc thì cũng như đêm mọi nơi, nhưng nó cho Thái được chôn một mảnh
hồn khi đến cư ngụ, nó là nơi Thái chôn những kỷ niệm còn sót lại khi bỏ quê
nhà đến đây xây lại cuộc đời. Ngày mai,
sau khi đã thăm viếng gia đình bè bạn, Thái biết mình sẽ lại về ga xe lửa lúc xế
chiều. Và Thái biết, khi trở lại Mỹ Thái
cũng sẽ lại đến ngồi bên ông K., dù một chút lòng đã héo. Cái chưa kịp bắt đầu đã chết từ một lúc nào,
chậm rải, từ từ, thắt thẻo.
2.
Chiều mai Thái sẽ về tới.
Mây vẫn còn một tác phẩm phải đọc trước khi kết thúc phần biên soạn về
ông K., và Mây muốn mình hoàn tất công việc mà không bị ngoại cảnh chi
phối. Mây lấy một ngày nghỉ.
Cuốn truyện không khó đọc, nhưng sao một nỗi mệt mỏi chán
chường chợt thấm nhập lòng Mây. Một cuộc
tình tay ba, một cuộc ngoại tình bắt đầu ngay từ chỗ chưa ai là của ai, những
dằn vặt âm thầm, những lời nghi ngờ những cử chỉ cảm xúc mơ hồ tưởng là vô nghĩa
được tách bạch phơi bày trần trụi. Mây
chợt nhận ra mọi trang sách ông đã viết đều chỉ là nhật ký, của chính ông, trá
hình dưới các nhân vật. Thiên biến vạn
hóa, mọi lời nói chính là của ông _ nói với chính mình, nói với cuộc đời; chi
li từng hạt bụi, cũng chỉ là ông trước cuộc đời, là trang nhật ký viết dài theo
ngày tháng với những kỷ niệm, những cuộc chơi.
Những cuộc chơi, a ha, Mây nghĩ mình đã bắt được ông trong những cuộc
chơi. Tình yêu, ở cuốn truyện này, cũng
như các mối tình trong những cuốn sách khác, đều có một khuôn mẫu: người ta tự
nghi ngờ tình cảm của mình hoặc người ta mổ xẻ, thử thách cái cảm xúc của
mình. Mọi mối tình đã ghi đều như những
que diêm bật sáng, soi một cái gì đó trong lòng ông để ông ghi lại khi nó tắt
đi, soi một góc tương lai của ông để ông hồi tưởng tương lai ấy ngay khi còn
trong tuổi thanh xuân, tựa như sau khi hớp cạn lớp bọt bia trắng lạnh thì ông
ngồi tỉ mỉ tả lại cái mầu vàng nâu đã nguội nhạt. “Làm phì nhiêu người tình” _ đó là lời, là
ước vọng _ vô vàn chân thật, nhưng ông có bao giờ nghĩ, biết, rằng khi yêu là
khi mình chả biết mình đang yêu, mình chả nghĩ được gì cả và mình chỉ thấy nao
nao bồi hồi thắt thẻo? Phì nhiêu hay
không, không phải rằng chính đồng cỏ yêu đương dậy mầm tươi ướt run rẩy tự nói
hay sao? Không thể lắng nghe, không thể
soi ngắm. Ông quá tỉnh táo trong những
mối tình thì ông chả yêu ai, chỉ yêu cảm xúc suy tư của riêng mình, tựa như
người đi trong bóng tối nhìn ngắm kẻ khác.
Bóng tối nào che lấp hay chính ông đã tự tạo bóng tối để che lấp
mình? Từng lời nói của từng nhân vật,
tất cả đều thật, thật như chính ông có lần nói “khi viết, điều kiện đủ là thành thật cho đến cùng, sự thành thật biểu
lộ trong những cái mình viết, chứ không phải trong ý nghĩ.”
Một mình trong căn nhà của mình, hình ảnh ông K. đi lại như
hiện rõ rệt trước mắt Mây, những lần hội họp, gặp gỡ, những lời đã nói những cử
chỉ vô nghĩa… Ông như nhà diễn kịch tài
ba trên sân khấu cuộc đời, không cần kịch bản, chỉ thuận theo hoàn cảnh mà diễn
xuất. Tất cả những người từng có mặt
trong những buổi gặp gỡ ấy đều trở thành nhân vật trong truyện của ông, đứng
cùng ông viết từng chương sách vào không gian.
Những lời ông nói, bất cứ lời nào ông nói, có khác gì đâu những câu Mây
đã đọc, ở bất cứ tác phẩm nào của ông.
Ông đã sống xong cuộc đời mình mấy mươi năm trước. Ông đã nhỏ xong giọt lệ “tiếc thương tuổi trẻ”
tiếc thương một “nguyên đán của tình yêu.”
Còn gì không cái quãng đời còn lại?
Cái quan hệ giữa ông và Thái và những người chung quanh, tất cả, chỉ còn
là khúc phim quá khứ quay chậm trước mắt Mây, bao vây tầm nhìn của Mây. Mây chợt thấy mình hết hơi. Thái, Thái có sợ mình sẽ thành, có biết mình
đã thành một nhân vật của ông?
Mây buông cuốn sách.
Thôi. Bây giờ phải làm cho xong
một công việc đã định trước khi hết can đảm hết sức lực.
***
Mây đón Thái về, vừa kịp lúc ông K. ngã xuống. Hai đứa bước vào thấy ông đang nôn thốc tháo
rồi nằm lịm. Mây gọi ambulance, khi xe
đã đưa ông đi, Mây đưa Thái về nhà lấy xe rồi hai đứa cùng lái xe theo vào nhà
thương. Họ đã đẩy ông vào phòng thử
nghiệm. Lúc họ đưa ông trở lại phòng,
ông K. đã tỉnh. Ông nằm như tàu lá chuối
te tua héo úa trên chăn nệm để mặc những bàn tay khéo léo chuyền dây thay
áo. Bác sĩ vắn tắt về những xét nghiệm
cần thiết rồi biến mất. Dưới ánh đèn
bệnh viện ông mệt mỏi khép hờ đôi mắt, bất động, chỉ bàn tay nắm lấy bàn tay
của Thái là dấu hiệu của sự sống còn hiện diện.
Khi ông đã thiếp vào giấc ngủ, Mây nhắc Thái về nhà tắm rửa, Mây sẽ ở
lại chờ.
Ngồi một mình, Mây chợt ý thức mình đã quen với sự im lặng
bên cạnh ông những ngày Thái vắng mặt, đến nỗi nó không còn là điều phải quan
ngại, dù ngay bây giờ ông K. đang nằm bịnh.
Giường bên cạnh, thân nhân đã lần lượt chào ra về vì đã gần hết giờ
thăm. Ông K. đã thức từ lâu vì những
cuộc chuyện trò thăm hỏi ở sát bên. Ông
khẽ khàng nhắc Mây cứ về đi, không cần phải trông chừng ông. Mây đứng lên ra ngoài lấy thêm tấm chăn cho
ông K. Đi đến cuối hành lang thì gặp
Thái vừa ra khỏi thang máy. Hai đứa đứng
lại, Mây vắn tắt những gì bệnh viện đã làm cho ông K. trong lúc Thái về
nhà. Trao tấm chăn cho Thái, Mây hẹn mai
sẽ trở lại, hai đứa sẽ có thì giờ nói chuyện nhiều hơn.
Thái bước nhẹ nhàng ngang qua giường bên ngoài, ông K. nằm
giường trong. Sau tấm màn, ông vừa bấm
điện thoại gọi cho ai đó. Thái nhìn vào
phone trên tay mình, gần 9 giờ tối. Ông
từng nói không nhớ được số phone nữa, mà lại sẵn một số để gọi, vào lúc này,
giờ này? Ông K. gọi một cái tên, Thái
lật đật lui ra cửa, đi dạo dọc theo hành lang.
Khi Thái trở lại, ông vẫn chưa dứt cuộc nói chuyện. Thái ngẫm nghĩ rồi lặng lẽ mang tấm chăn bỏ
vào chỗ chờ giặt, ra về.
Gió đêm thoảng nhẹ, Thái quay kính xe xuống đón chút hơi
mát, rũ những sợi tóc ướt chưa kịp sấy khô lúc tắm ra. Thái lái xe chầm chậm qua hàng cây, rời khỏi
khu vực nhà thương và không biết phải đi đâu vì Thái không muốn về nhà, để khỏi
phải nghĩ ngợi. Mây chắc còn thức, nhưng
có lẽ Mây cũng cần sự tĩnh lặng sau nửa ngày loay hoay nơi bịnh viện. Những hàng cây mờ mờ dưới ánh đèn lướt qua
lướt qua. Ngang một khu mobile homes đến
một bãi trống, Thái đã ra đến bờ biển.
Hai ống khói cao nghệu của nhà máy lọc dầu tuôn khói trắng mờ trên nền
trời đen. Xe cộ đã thưa thớt, nhưng trên
cầu vẫn còn những bóng người dắt nhau ra ngắm biển đêm. Thái cũng tắt máy xe ngồi lắng nghe tiếng
sóng. Một cảm giác êm ả len vào
lòng. Sóng gầm rú dập vùi khi trên biển
khơi, sóng dồn đập ghềnh đá những đêm đen nơi trại tỵ nạn, sóng rạt rào những
lúc gió lên, sóng òa reo trải trên bãi cát.
Đủ loại âm thanh nhưng có bao giờ sóng tung lời gian dối. Thái lắng im nghe, càng lúc lòng càng lắng
xuống. Thiên nhiên có dối lừa ai
không? Núi có dối lừa ai không? Đêm càng lúc càng trong, sắc đen như sâu
thẳm. Thái quay xe ra về.
Buổi sáng khi Mây vào, Thái đã ngồi bên ông K. Trông ông tươi tỉnh, mặt mũi đã rửa sạch sẽ,
mái tóc cũng chải gọn. Tấm áo nhà thương
được tấm chăn kéo đến gần ngực chặn lại gọn ghẽ. Dẫu hơi xanh yếu, trông ông vẫn tươm tất. Thái đã dựng giường lên để ông có thể ngồi
đọc báo, đầu bàn phần ăn sáng đã úp lại chờ người dọn phòng ghé lấy. Mây mỉm cười nhớ câu thơ gì đó, đại khái
“tặng em cái lược chải đầu để trong giấc ngủ gặp nhau cho đàng goàng.”
Ông đã sẵn sàng đi gặp diêm vương lúc này.
Mây và Thái kéo ghế xích ra cửa sổ, ngồi chỗ này có thể nhìn
xuống hàng cây bao bọc chung quanh bãi đậu xe và cũng đủ khoảng cách cho ba
người nói chuyện thoải mái. Thái kể
chuyện Việt Nam, chuyện mợ và họ hàng, Thái tả chỗ ở bên Úc. Bác sĩ ghé vào dặn hôm nay ông K. phải làm
thêm vài thử nghiệm rồi mới được về, nhưng có vẻ yên ổn. Bạn bè lục đục ghé thăm, sáng nay có người
gọi, ông đã báo tin nằm bịnh viện. Nhìn
quanh, Mây và Thái đồng loạt đứng lên rủ nhau đi ăn hẹn sẽ trở lại.
3.
Chiếc xe đã chật cứng đồ dùng, Thái và Mây lên đường lòng
phơi phới. Lộ trình vạch ra là đến Bryce Canyon, qua Zion park, rồi dừng lại ở
Grand Canyon. Đi chơi cái kiểu Tây ba lô
rất thú và thích hợp với Mây. Hai đứa
băng ngang Las Vegas ăn bữa lỡ lúc 11 giờ sáng rồi đi tiếp. Hóa ra phải tới Zion trước rồi mới đến được
Bryce Canyon. Thái cười cười như ngầm
nói “đồ ngu!”
Zion National Park thì đẹp, nhưng gặp lúc nước cạn, giòng
suối không ồ ạt được mà chỉ thắt thẻo ngang bắp chân nên Mây mau chán. Chiều tắt nắng thì Thái và Mây đã thẳng tới
Bryce Canyon. Vào một nhà trọ, hai đứa
vội vã vào nhà tắm bật cái bếp gas tí hon nấu hai gói mì ăn với gói rau xà lách
thập cẩm mua sẵn, vài miếng chả lụa cho xong bữa rồi lăn quay ra ngủ. Lơ mơ trong cái mệt mỏi ê ẩm của một ngày
trên đường, hình ảnh ông K.lủi thủi một mình bên bàn ăn như chờn vờn muốn gọi
Mây thức giấc, nhưng không, Mây mệt quá rồi…
Hừng sáng, Thái gọi Mây dậy lên đường. Ly cà phê sáng cho một ngày rong chơi thơm
chi lạ, thú nhất là biết mình sắp đến được cái nơi muốn đến, chứ có khi đến rồi
lại hỡi ơi. Đường dài khô khốc, nhiều
bụi lùm xùm chứ không có cây cao, nắng sáng thì chưa sao nhưng đến 10 giờ thì
đã muốn tươm mồ hôi dù xe bật máy điều hòa.
Mây bắt đầu lôi thức ăn vặt ra ăn lai rai giết thì giờ. Có hai đứa con gái đi chơi, mà mua nào là khô
bò, kẹo, bánh, trái cây khô, mứt khô để ăn vặt; rồi là ruốc, giò lụa, lạp
xưởng, mì gói, mì ly, dầu ăn, xì dầu, nước mắm, gạo, một nồi cơm điện nhỏ, một
bếp gas nhỏ, một cái soong nhỏ nấu bá vạn thứ, và một bình nấu nước sôi bằng
điện, trà, cà phê… Tuy nhiều món lặt vặt
vậy, nhưng Thái xếp gọn ghẽ trong hai thùng giấy, và cốp xe vẫn đủ chỗ cho một
cái lều với 2 túi ngủ. Nhìn Thái xếp đồ
dùng vào xe, Mây tự hỏi không biết Thái ngủ giường nhiều hay ngủ lều nhiều?
Bryce Canyon thiệt đẹp, thiệt thỏa lòng Mây hằng mong trở
lại. Hai đứa ghé vào chỗ có bán thức ăn
và nước uống, ăn no một bụng rồi lấy bản đồ bắt đầu tìm lối vào núi. “Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn
lần buồn…” Mây ư ử hát, cái bản đồ chỉ,
có nhiều tuyến cho du khách tản bộ thăm cảnh, mỗi tuyến ghi rõ khoảng cách, mức
độ khó khăn và những đặc điểm của vùng.
Biết sức mình nên Mây đề nghị đi tuyến dễ nhất ngắn nhất. Hình như đây cũng là tuyến được đi nhiều
nhất, đường phẳng mòn vì bước chân, lúc nào cũng nghe có tiếng lao xao cười nói
của tốp người đã đi qua, của tốp người sắp đi tới.
Tuy dễ cũng phải lên cao xuống thấp. Khi đứng dưới lòng khe núi nhìn lên khoảng
trời hẹp xanh biếc trên cao, nhìn những bờ vách cam cam dập dờn lượn vòng lúc
thụt sâu lúc vươn ra che lối đi bên dưới Mây thấy lòng lao xao như miếng lá khô
sắp vỡ mà vẫn bay là là trong gió cho đến tận cùng của sức đưa. Những cây phong. Mùa này nơi Mây ở lá chỉ mới hơi chớm
vàng. Lần đầu tiên thấy rừng lá chuyển
màu khi thu đến, Mây thấy không có gì kỳ diệu hơn. Mây thích những cây phong thân trắng lá đỏ,
thân cây thon nhỏ vừa vừa như một hàng rào xinh xắn dọc đường, đẹp như một bức
tranh. Dần dà, tầm mắt đưa lên, Mây bắt
đầu thích những cây sycamore cao với nhiều màu sắc xanh vàng cam nâu đỏ cùng
lúc reo vui trong gió, cây sugar maple cao tàn thâm nâu cành rậm đan vào nhau
như thể một trời lá vàng che phủ trên đầu.
Những loại cây to này có sắc lá đậm đà chứ không thắm trong như phong Na
Uy, phong Canada. Đến một lúc nào đó, Mây
thấy có những cây lá thu không khoe sắc.
Thân cổ thụ rất to và cao, mầu trắng mốc loang lổ, lá xanh xạm như có
lớp lông mịn che mờ. Bọn hắn đứng bên
đường, trong công viên rộng, nơi sân trường, sừng sững mà như xa lánh trần
gian. Những chiếc lá cũng vàng theo với
mùa thu, nhưng không thắm sắc như những loại phong khác. Loại cây này chỉ đẹp khi lá vàng khô. Những chiếc lá to dầy, đeo dai dẳng trên cành
đu đưa theo gió cho đến khi giờ của nó điểm, nó phải lìa cành. Nó chao chao như diều bay la đà trong không
gian rồi đáp xuống mặt đất lao xao rộn rã chứ không rơi lả tả như đám lá phong
đỏ quặt quẹo héo rũ quắt queo (!) Dưới
thân cây cô tịch, những chiếc lá dầy khô chồng lên nhau thành một biển lá dầy
mấy tấc, và vỡ tan lạo xạo dưới bước chân người. Từ lúc nghe được “tiếng” thu thì lòng yêu mến
của Mây dành cho cây phong trắng lá đỏ như phai lạt bớt, Mây thấy những thân
cây trắng muốt với lớp lá màu đỏ chói chang quả đúng là một thứ trang sức, tựa
như những trái cầu thủy tinh hay những ngôi sao lấp lánh treo trên cành thông
cho dịp Giáng Sinh, một thứ trang sức, không thực là thu _ của đất trời, của
tiếng êm đềm tịch lặng, của phong sương…
Cứ ngửa mặt mà mơ tưởng, Mây suýt té vì vấp phải mô đá trên
đường mòn. Thái đã kịp thời túm Mây lại,
không quên mắng cho mấy câu té tát cái tật đứng nơi này tưởng nhớ nơi kia. Mây cười, xin ngồi nghỉ thêm một lúc. Chặng đường mà bản đồ ước lượng một tiếng
rưỡi được hoàn tất sau ba tiếng vừa đi vừa nghỉ, vì Mây không đủ sức đi đường
dài như Thái. Hai đứa lên tới điểm vọng
cảnh thì trời cũng sắp tắt nắng, Thái dục Mây đi thêm vài nơi trước khi về chỗ
ngủ.
Trên đường ra khỏi park, Mây và Thái ghé một cái chợ nhỏ mua
ít rau cải. Hai đứa lấy phòng xong thì
bắt đầu nấu nướng “lén.” Nồi cơm điện cắm dưới đất, trên mặt bàn phòng tắm đặt
bếp ga nấu chút canh rau cải, sau đó chiên vài cái lạp xưởng. Cơm chín, hai đứa ăn cơm với lạp xưởng, ruốc
và canh. Cuối một ngày ăn bữa cơm của
mình thấy đã, biết chắc mình không bao giờ lạc mất khi còn ăn được món ăn của
quê hương.
Thứ bảy, Thái và Mây đến Grand Canyon. Mây nhớ lần đầu tiên bước chân đến nơi này đã
nín thở. Grand Canyon, hai tiếng vĩ đại
mà người ta cứ gán cho nhau cho một công trình gì đó của loài người trở thành
lố bịch trước cái hùng vĩ của thiên nhiên.
Thái vào đất cắm trại ghi tên rồi tìm vào miếng đất của mình sửa soạn hạ
lều. Mây chỉ đứng bên làm thợ vịn để đưa
Thái những thức cần, nắm cái này kéo cái kia.
Sau 1 tiếng loay hoay, lều đã dựng xong.
Thái và Mây đi rửa mặt rồi bắt đầu đi thăm cảnh. Núi đá sừng sững, trùng trùng điệp điệp, màu
sắc rực rỡ thay đổi theo ánh nắng theo thời tiết ấm lạnh. Những nơi khuất nắng, màu núi xanh tím và như
có ánh biếc. Những nơi nắng chói chang,
màu cam vàng bạc xám đua nhau lấp lánh.
Xa xa những vầng sương mây bao quanh núi, thỉnh thoảng có những cánh
chim ưng chao liệng như những vệt đen mờ đâm thẳng xuống vực sâu. Trời đứng gió, trong và ấm.
_Thái có đọc Đường Xưa Mây Trắng?
_
Sao?
_Có chương “Con hãy học hạnh của đất,” đại khái đất thu chứa
mọi thứ nhơ bẩn của thế gian nhưng bản chất nó không dơ, không vì thế mà
dơ.
Giờ đứng nơi đây, Mây cảm nghĩ hạnh
của núi e còn to tát hơn.
Nắng mưa cây
cỏ cùng muông thú, mây trời, sương, gió, những cơn bão lốc hay thú dữ… mọi thứ
chỉ như làn gió thoảng, bám lấy núi mà không xao động được núi, nương lấy núi
mà không thêm không bớt được gì cho cái vĩ đại thâm sâu.
Núi đứng im lặng bình thản, như dung chứa như
chấp nhận như che chở như thờ ơ…
Mây
nghĩ…
_
Mà Mây có nghe được
tiếng núi?
_Không.
_
Không phải ai cũng
nghe được.
Mây nhìn Thái ngẩn ngơ.
Chiều đã tắt. Mây và
Thái về lều làm bữa cơm chiều. Hai đứa
ăn cơm trong yên ắng của núi đá. Chỉ có
tiếng gió xào xạc chung quanh. Cái lạnh
chụp xuống thật nhanh chóng.
Vào lều chui vào túi ngủ, bây giờ Mây mới cám ơn Thái vì cái
ngăn nắp và thành thạo trong việc chuẩn bị những thức cần khi đi trại vùng khí
hậu lạnh. Thái đã dắt Mây đến chỗ chuyên
bán đồ dùng cho sinh hoạt ngoài trời để mua loại túi ngủ, mền lót lưng, cũng
như quần áo ngủ, làm bằng loại hàng đặc biệt _ nhẹ nhưng giữ ấm đủ cho nơi băng
giá. Loại quần áo đồ dùng thông thường
không thể đáp ứng được khí hậu khắc nghiệt của miền núi.
Trong lều, hai đứa bật ipad lên xem phim Mây đã download
sẵn.
_Điên. Mây nói. Ở nhà êm ấm coi TV màn ảnh lớn thì không, rồi
lên đây lạnh giá gập ghềnh để xem phim bằng cái thứ nhỏ như tấm bảng của học
trò Bàn Cờ!
_Thú đau thương,
Thái nháy mắt với Mây.
Nhưng chỉ xem được một lúc thì 2 đứa cùng chán, xoay ra tán
dóc.
_Sao mày bỏ Úc tới đây?
Thái trầm ngâm.
_
Tao nghĩ mình đã
không cẩn thận để lạc bước tới đất này, và tao đã hối tiếc. Bằng lòng ở lại là chuyện đẩy đưa, nhưng rồi
tao hiểu rõ hơn điều gì quan trọng với tao.
_Nghĩa là?
_
Tao vốn không bỏ đất
Úc đến đây vì ông K. Quá khứ và danh
tiếng của ông không là gì với tao, tác phẩm của ông cũng là vô nghĩa. Ông K. nghĩ gì về tao là một chuyện mù mờ, mà
tao cũng không mong muốn một quan hệ gì hơn là tình bạn. Nhưng có những lằn ranh đi qua rồi không lùi
lại được.
_Đâu có gì ngăn mày bước qua lối khác?
_Có những cảm thông
sâu xa không thể ép uổng hay chối từ, điều đó làm tao lưu luyến. Nhưng có lẽ bản chất của tao làm cho việc
bước đi khó khăn hơn.
_???
_ Thi bơi, thắng hay
thua không quan trọng. Quan trọng là
phút vươn tay rẽ nước sãi tới trước, chạm bàn chân vào thành hồ búng mình xoay
lại tiếp vòng sau. Giây phút vượt lên,
nước rẽ tuôn theo tấm thân thấy như mình vừa được sinh ra vừa tan trong
nước. Vượt lên, vượt lên. Thắng, huy hoàng trong 5 phút, thua _ buồn
mấy tháng, nhưng nước là vĩnh cữu, cuộc chơi là vĩnh cữu, đồng đội là vĩnh cữu.
_Dính líu gì tới
ông K.?
_
Tao đọc tất cả những
gì ông đã viết, để thấy tâm hồn và khối óc đó lớn tới nỗi tao tiếc những dấu
vết thế hệ đã bám trên con người ông, tao tiếc những nếp gấp trong cư xử của
ông, tao tiếc những vạt bóng tối đã bao quanh ông. Gạt đi những eo sèo nhân thế, ông là một
người bạn lớn, trọn nghĩa chữ lớn, một người bạn tao hết lòng cảm quí. Sao đành bỏ đồng đội trong một cuộc giao
tranh, bỏ bạn trong một cuộc thử thách?
Tao không bỏ bạn.
Những lời của Thái nhắc Mây nhớ một cái chết, tình bạn của 2
người lính. Một người vượt đại dương để
đến với một người những giây phút sau cùng.
Người ấy ân cần chăm sóc nâng đỡ chùi rửa, nắm chặt bàn tay nhau để bạn
mình thơ thới đường hoàng phút tử sinh.
Và người ấy khóc giọt nước mắt can trường thương bạn phải đau đớn lúc
lâm chung. Ôi, Mây đổi kiếp này và nhiều
kiếp nữa để được gặp những phút ân tình đó, để được chia cái tình tinh tuyền
ấy, cái tình trong ngần như nước mưa mà Thái đã làm cho ông K. Nơi nhà thương Thái đã không lăng xăng âu yếm
chăm lo cho ông như những bà vợ, những người tình _ trong những yêu thương ấy còn có bóng dáng cái tôi, vì
chưng người ta có sự ràng buộc với nhau.
Thái chỉ tận tình săn sóc ông với tất cả chân thành yêu mến để một người
đã quyết không lỗi hẹn với tử thần được ung dung thư thái đàng hoàng bước tới
điểm hẹn.
Khi nãy Thái hỏi Mây có nghe được tiếng núi. Đêm núi im mà lại rất nhiều âm thanh không
thể phân biệt được là tiếng gì. Chỉ muôn
loài sinh vật cỏ cây quanh núi có thể nghe và hiểu tiếng núi. Bây giờ trong cái trong lặng của trời đêm,
Mây nghe như có tiếng u u mơ hồ từ vách núi, vọng lại những âm vang của ý tưởng
trong đầu Mây. Gió thổi không mạnh nhưng
đủ tạt vách lều, làm cho mảnh trời sao trên cao cũng như đong đưa theo gió. Trong cái hoang vu, Mây tự hỏi, lần này nữa
là bao nhiêu lần Thái đã đi, đến một nơi nào đó, đến bên núi, một mình? Thái dường quen thuộc và thân mật với
núi. Bên cạnh, Thái im lặng ngước nhìn
bầu trời qua màn lưới trong ở chóp lều.
Mây thấy hối mình đã dồn bạn tới chỗ khó khăn, nhưng vẫn không dừng được
niềm thắc mắc.
_Mày vẫn không nói được tại sao chưa bước đi?
Thái vẫn lặng im. Ánh
đèn măng xông tạt ngang khuôn mặt trắng như thạch cao của Thái, bao bọc nó bằng
một ánh vàng trong. Những tia máu hồng
li ti dưới má của Thái như ửng lên, nhưng nét mặt Thái không tỏ một cảm xúc
gì. Thái mím môi, thong thả nói:
_Nhiều lúc tao cũng tự
hỏi mình một câu từa tựa như vậy. Ngồi
bên ông K., có những lời không nói, như tiếng núi, âm thầm mà lại vang xa,
khiến mình mãi lắng nghe. Những điều
buộc tao với ông dường như quanh quẩn với kiếp người với đất nước. Lâu dần có lúc tao cảm nghĩ ông là một miếng
quê hương còn sót lại, trôi giạt trên
đất này, miếng quê hương mà tao muốn hay không cũng không thể buông bỏ dẫu đi
xa đến đâu…
Thở dài. Thái sẽ còn
đi, Mây biết vậy.
_Thái có e một lúc nào đó mình không về kịp?
_
Phải đành. Xuống nước, không muốn chết chìm thì đừng
đương cự với nước. Cách thua tốt đẹp nhẹ
nhàng nhất là chấp nhận mình thua. Và
bước đi. Tao đang tập thua, tập bước đi.
Tiếng núi u u dồn vang lên như tới chỗ bao la của một bản
hòa tấu. Mây thấy bồi hồi. Cũng đành.
Thái, thì cứ vậy đi. “Thua, thua nữa, thua cho bảnh,” Mây bật
thốt. Thái nhìn Mây đợi một lời giải
thích. “Fail, fail again, fail better,”
Nguyễn Quốc Trụ dịch. Thái im
lặng. Mây cũng im lặng. Hai đứa ngó nhau, bất chợt cùng thốt “điên”
rồi bật cười vang. Tiếng cười dội vào
bóng tối.
Lưu Na
11/02/2013
***Nhìn Lại Em Đi Anh,
Nguyễn Đình Toàn.