Requiem
Anna Akhmatova
Nguyễn Ước dịch
Anna
Akhmatova by Olga- Della-Vos
Ðó là nhan đề tiếng Anh (giữ nguyên gốc
La-tin) của thi phẩm Rekviem, có
nghĩa là lễ cầu hồn hoặc là nhạc cầu hồn, để nguyện cho linh hồn người quá vãng
được siêu thoát. Requiem là một tập
hợp gồm 15 bài thơ ngắn viết vào những thời điểm khác nhau, rải rác từ năm 1935
tới 1940, một đoạn văn xuôi viết năm 1957, và bốn câu đưa dẫn viết năm 1961.
Thoạt nhìn, đây là một tác phẩm kết hợp giữa sử thi và thơ trữ tình; nhìn gần
hơn, Requiem là một ai ca tưởng niệm và
than khóc, trong đó khổ đau đã vượt mức giới hạn của nó khiến con người hóa đá
tới độ không còn bất cứ cái gì có thể làm y sợ hãi. Với nội dung ấy, Requiem hội đủ cả hai đỉnh điểm đau thương
và hùng tráng của một bi kịch.
Trong cuộc đại khủng bố của Stalin, có một
số lượng nạn nhân đông gấp bội nam giới. Họ bao gồm những người mẹ, người vợ,
người tình và các nữ thân nhân. Cuộc hành quyết người chồng cũ và tình cảnh tù ngục
của con trai đẩy Akhmatova vào xếp chung hàng với những người nữ khốn khổ ấy.
Qua con mắt một người mẹ chứng kiến cảnh con trai bị bắt đi mất -theo lối diễn
tả của Solzhenitsyn trong Quần đảo Gulag
là “thình lình bị đẩy xuống rồi trôi tuốt tuồn tuột trong ống cống đen ngòm” -và
kế đó, bà mỏi mòn suốt 17 tháng trời thống khổ, đứng xếp hàng ngóng cổ và bất
lực ngó bức vách của nhà tù Kresty, ngay giữa Leningrad, với hi vọng được thăm
nuôi hoặc gặp mặt, hay dù chỉ một lời nhắn hoặc thoáng thấy bóng dáng của người
thân trước khi y không thể tránh bản án lên đài xử giảo hay đi đày Siberia.
Ðể có thể diễn tả tận cùng các cảm xúc,
Akhmatova hóa thân vào nhiều vai. Khi ngôi thứ nhất, khi ngôi thứ hai hay thứ
ba. Khi nói với con trai, nói với những người tình cờ đồng cảnh ngộ và khi nói
với chính mình, thậm chí nói với thần chết và với người chưa sống. Nhân vật
trung tâm của Requiem lầm lủi bước khập
khểnh lên các bậc thang khổ ải khác nhau. Từ đau đớn câm lặng tới dần dà mất
niềm tin. Từ giọt nước mắt khô tới lệ trào đẫm má. Từ dùng lý trí kềm chế tới nức
nở kêu gào. Và quyết tâm sắt thép khi khổ nạn đã vượt ra ngoài trí tưởng của
bản thân và dân tộc. Sau cùng, những nốt nhạc và lời ca chất ngất của Requiem lắng xuống với âm thanh xa đưa
của chim câu và hình ảnh cánh buồm êm ái xuôi dòng trường giang, như một lời
chúc an tĩnh để lại cuả linh hồn vừa được siêu thoát.
Từ cảm xúc hiện thực lên tới bí nhiệm tôn
giáo, từ nhà tù bôn-sê-vich lên tới hoạt cảnh Núi Sọ trong Phúc âm Kitô giáo,
Akhmatova góp phần xác nhận rằng về mặt tâm linh, đức tin tôn giáo là nơi an
trụ và nguồn dũng khí cho con tim khi phải đương cự cái ác. Requiem trở thành tiếng nói của quần
chúng bị đọa đày khi tác giả của nó phổ quát hóa nỗi đau riêng tư cùng sự mất
mát bằng hữu, những trí thức văn nhân đồng trang lứa bị hành quyết, khổ sai hay
phải lưu vong, tới cả một dân tộc lâm nạn trong máu và nước mắt. Qua thơ, bà
thăm dò vai trò của thi sĩ như người làm chứng cho sự thật và thơ như một ngôn
ngữ của thương khó và cứu rỗi, vũ khí của đề kháng và kết đoàn. Từ đầu tới cuối
Requiem thấm thía cả ý lẫn lời vinh
danh tình thương và tưởng niệm, như một sức mạnh vượt lên trên cái ác và tạo sức
lực cho một tình thế bất lực.
Có lẽ nhờ soi chiếu được “nước Nga vô tội”
và chất ngất tình tự, dồi dào thi tính nên Requiem
được bí mật bảo lưu suốt mấy chục năm giữa Akhmatova và vài người bạn can
trường, tín cẩn, vì chưa biết điều khủng khiếp nào sẽ xảy tới cho người truyền
tụng các tác phẩm văn học đang bị một nhà nước sắt máu tìm cách hủy diệt, nhất
là đối với loại thơ như Requiem. Lối
sáng tác bằng các đoạn ngắn truyền khẩu theo kiểu Requiem cũng tiêu biểu cho cách thức được người dân Nga dùng để
hiệp thông, nâng đỡ và hỗ trợ nhau trong những năm sống dưới chế độ Stalin. Nhờ
thế, trong bí mật, chữ nghĩa được bọc rất kín, chẳng để lại dấu vết nào để guồng
máy toàn trị có thể dùng làm nguyên cớ trấn áp khi trắng trợn man rợ khi độc
hiểm khôn lường.
Năm 1963,
Requiem được xuất bản bởi Hiệp hội Nhà văn Lưu vong Nga (Society of
Russian Emigré Writers) từ một bản lọt được qua phương Tây. Nhưng mãi tới 24
năm sau, năm 1987, nó mới được xuất bản đầy đủ tại Nga. Bản dịch dưới đây được
làm thành qua đối chiếu và phối hợp từ bốn bản dịch tiếng Anh khác nhau (xem
phần Nguồn). Trong khi chờ ngày có được một bản dịch
Requiem từ nguyên văn tiếng Nga, chúng tôi xin bạn đọc hãy vui lòng
xem đây như một bản tạm dịch.
The monument to Anna Akhmatova in the village of Slobidska Shelekhivska
REQUIEM
Anna Akhmatova
Không dưới các vòm trời nước khác đỡ che,
Và không dưới cánh chim xứ lạ cứu chở,
Ở đây dân tộc tôi bị bỏ rơi,
Và tôi chung chia mọi điều bất hạnh
1961
THAY LỜI MỞ ÐẦU
Trong những năm kinh hoàng thời khủng bố
Yezhov
[1],
tôi trải qua mười bảy tháng xếp hàng bên ngoài nhà tù Leningrad
[2].
Ngày nọ, có người “nhận ra” tôi. Một phụ nữ môi tím ngắt, đứng chung hàng ngay
sau lưng tôi, và dĩ nhiên suốt đời mình, bà không bao giờ nghe nói tới tên tôi.
Chợt như choàng tỉnh khỏi cơn lờ đờ, một trạng thái mất cảm giác chung của
chúng tôi lúc ở đó -bà kề miệng sát tai tôi và thì thầm- như mọi người đều thì
thầm lúc ở đó:
- Bà có thể tả lại việc này không?
Và tôi trả lời:
- Vâng, tôi có thể.
Ngay lúc đó, tựa như có một nụ cười lướt qua
cái từng có lần là khuôn mặt của bà ấy.
1 tháng Tư 1957 Leningrad
LỜI ÐỀ TẶNG
Núi cúi đầu trước thống khổ này,
Sông lớn ngưng chảy.
Nhưng các cửa nhà giam vẫn im
lìm chốt cứng,
Và đằng sau chúng, những “cái
hang của người tù”
Thấp và tối, đầy bi thảm chết
chóc.
Có ai đó vẫn cảm thấy ráng chiều
thắm đỏ,
Có ai đó vẫn có thể nhận ra
Ngày với đêm, và ngọn gió hiu
hiụ thổi cho ai.
Còn ở đây chúng tôi chỉ biết
Nơi nào cũng giống nơi này,
chúng tôi chỉ nghe
Tiếng chìa khóa leng keng đáng
ghét
Với bước chân nặng nề của các
lính canh.
Thức dậy rất sớm như đi lễ nhà
thờ,
Lê bước qua thủ đô hoang vu,
Ðể làm thành đám người chết dở.
Mặt trời thấp hơn mọi ngày, và
dòng Neva mù sương hơn,
Còn hi vọng vẫn hát mãi ở chốn
xa xôi.
Phán quyết đọc. Lập tức cơn lụt
nước mắt,
Và rồi bốn bề hiu hắt.
Như thể trái tim bà đang đập bị
rứt ra đau xé ruột, và vứt đi
Hoặc đẩy cho bà nằm sấp mặt trên
con đường lát đá,
Nhưng bà vẫn gắng gượng bước đi,
loạng choạng, một mình
Ở đâu hỡi những người bạn tình
cờ của tôi,
Những tù nhân của hai năm hiểm
ác,
Phép lạ nào các người thấy trong
trong những cơn bão tuyết Siberia?
Ảo giác nào lung linh quanh vầng
trăng?
Tôi đang gởi tới từng người lời
chào vĩnh biệt.
[3]
Tượng đài tưởng ni ệm Anna Akhmatova ở gần nhà tù Kresty
(Saint Petersburg)
LỜI MỞ ÐẦU
Những năm tháng đó chỉ có kẻ
chết mỉm cười
Mừng được an nghỉ,
Leningrad như khúc ruột thừa vô
dụng
Ðong đưa giữa các nhà tù.
Cũng là thời các sân ga
Thành nơi nương náu của những người
mất trí,
Xếp thành đội hình, đi dọc theo
Các đầu máy xe lửa rúc lên lanh
lảnh
Bài ca vĩnh biệt cụt ngủn.
Các ngôi sao chết treo trên đầu
chúng tôi,
Treo trên đầu nước Nga vô tội
Oằn mình dưới những đôi ủng
nhuốm máu,
Và dưới bánh của đoàn xe tang
đen
[4].
1
Họ đến bắt con đi trong mù sương
rạng sáng,
Mẹ lê theo sau, như đưa tang đứa
con chết lúc lọt lòng.
Trong căn nhà tối tăm, lũ trẻ
khóc
Ngọn nến leo lét, chiếu lên
khung hình Ðức mẹ Sầu bi…
Màu giá băng của tượng thánh,
trên môi con,
Mồ hôi lạnh chết chóc, trên lông
mày con… Không thể nào quên!
Mẹ sẽ rón rén đi tới bức tường than
khóc của chúng ta,
Và bò lết tới mấy ngọn tháp
Kremlin
[5].
[6]
2
Êm đềm chảy sông Don êm đềm,
Ánh sáng vàng lọt vào túp lều,
Trăng lưỡi liềm nghiêng mũ lệch,
Thấy qua cửa sổ chiếc bóng liệt
giường,
Người đàn bà ốm đau quạnh quẽ.
Người đàn bà sóng soải trơ vơ.
Con đi tù, chồng về đất.
Ôi, hãy cầu nguyện cho tôi!
3
Không, không phải tôi, ai đó
khác đang khổ đau.
Những gì đã xảy ra, tôi không còn
chịu nổi.
Hãy trùm kín chúng bằng tấm vải liệm
đen,
Và hãy lấy đi những chiếc đèn
lồng.
Ðêm.
[7]
4
Nên cho mầy thấy, hỡi nàng tôn
nữ một thời hay chọc ghẹo
Hết thảy bạn hữu của mầy, hỡi
con vật cưng chiều,
Ðứa tội lỗi hồn nhiên của biệt
điện Tsarskoye Selo
[8].
Nếu chỉ một mình mầy có thể thấy
trước,
Những gì cuộc đời sẽ làm cho
mầy,
Rằng mầy sẽ đứng, bọc đồ trên tay,
Bên dưới khu Thánh giá
[9],
xếp hàng với ba trăm người.
Những giọt nước mắt nóng hổi và
cay đắng của mầy,
Ðang nung chảy băng giá Tân
Niên.
Ðằng kia, cây bạch dương của nhà
tù đưa qua đưa lại
Không một tiếng kêu – và lúc
này, đằng kia bao nhiêu
Người vô tội đang đánh mất cuộc
đời.
[10]
5
Suốt mười bảy tháng dài mẹ kêu
khóc
Mẹ gọi con về nhà
Mẹ ném mình dưới chân các đao
phủ, không chỉ một lần,
Vì con, con trai của mẹ, nỗi
kinh hoàng của mẹ!
Mọi sự đã trở nên mãi mãi mù mờ,
Mẹ không còn phân biệt nổi
Ai thú vật, ai con người,
Và bao giờ tới lúc xử giảo.
Lúc này, chỉ còn các bông hoa
đầy bụi,
Cùng tiếng loảng xoảng của lư
hương vọng lại từ xa,
Không ở hẳn một nơi nào trên mặt
nước đá
Có ngôi sao thật lớn
Ðang nhìn thẳng mắt mẹ,
Và hăm dọa mẹ với cái chết lơ
lửng.
[11]
6
Ngoài này, những tuần lễ sáng
trời đang vụt qua nhanh.
Mẹ sẽ không biết điều gì xảy tới
Trong nhà tù bằng đá, con trai
yêu của mẹ,
Những đêm trắng canh chừng con
như thế nào,
Và chúng chằm chặp nhìn ra sao
Bằng con mắt chim ưng đỏ ửng,
Xuống cây thánh giá con treo
trên cao
Và cái chết đang chầm chậm tới.
[12]
7
Tuyên án
Rồi lời ấy như đá
Rớt xuống lồng ngực vẫn phập
phồng của mẹ.
Ðừng lo nghe con, mẹ đã sẵn
sàng,
Mẹ sẽ hết mình xoay xở.
Hôm nay, cám ơn Chúa, có nhiều
việc phải làm
Mẹ cần giết sạch ký ức,
Bắt linh hồn hóa thành tảng đá,
Bắt da thịt sống thêm lần nữa.
Giá như không có… Tiếng xào xạc
của mùa hè nóng bức
Như lễ hội đang bên ngoài cửa
sổ.
Mẹ linh cảm từ lâu điều này,
Một ngày quang đãng và ngôi nhà
bỏ hoang.
[13]
8
Nói với Thần chết
Trước sau gì ngươi cũng đến –
tại sao không ngay lúc này?
Ta đang chờ ngươi – Ta không còn
chịu nổi,
Ta đã thổi tắt đèn và mở toang
cửa
Cho ngươi, rất đơn giản và rất
tuyệt vời.
Hãy khoác lấy bất cứ hình thức
nào ngươi muốn.
Hãy nổ bùng như quả bom hơi ngạt,
Hay bò vào như kẻ cướp lão luyện
với quả đấm sắt,
Hay đầu độc ta bằng cơn sốt
thương hàn,
Hay với truyện thần tiên do
ngươi bày đặt,
(Ai cũng nghe quen tới độ buồn
nôn) trong đó cuối cùng
Ta có thể thấy đằng sau ngươi
trên ngưỡng cửa
Những chiếc mũ công an xanh
nhạt,
Và vẻ mặt trắng bệch hớt hải của
người gác chúng cư.
Cách nào cũng được, ta không
màng nữa. Sông Yenisei
Ðang cuồn cuộn chảy. Sao Bắc đẩu
đang nhấp nhánh.
Và ánh chớp xanh của những con
mắt ta rất yêu dấu
Ðang khép lại trong cơn hãi hùng
tối hậu.
[14]
9
Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối
đen.
Ðó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng
xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó.
Và nó không cho phép tôi mang
theo
Một chút gì của tôi.
(Cho dẫu tôi năn nỉ cách nào đi
nữa,
Cho dẫu tôi van nài bao nhiêu đi
nữa).
Không đôi mắt kinh hãi của con
trai tôi
Ðang khổ đau hóa đá.
Không cái ngày khủng khiếp ấy,
Không cái giờ tôi thăm nuôi nó nơi
nhà tù.
Không cái mát lạnh dịu dàng của
bàn tay nó,
Không chiếc bóng run rẩy của mấy
cành dương
[15] ,
Không âm thanh đưa lại từ xa
Của những lời an ủi sau cùng.
[16]
10
Hành hình
“Mẹ ơi, đừng khóc cho
con,
kẻ ở trong mồ”.
I
Ca đoàn thiên thần hát tụng ca
trong giờ trọng đại ấy,
Và các tầng trời chảy ra thành
lửa.
Ngài nói với Chúa Cha: “Sao Cha
bỏ con…”
Nhưng với Mẹ ngài: “Ðừng khóc
cho con…”
II
Maria Magdalene đấm ngực sụt
sùi,
Người môn đệ yêu quí
[17]
biến thành đá.
Nhưng không ai dám – dù khoảnh
khắc thôi
Liếc về phía Mẹ
[18]
đang một mình đứng im.
[19]
LỜI KẾT
I
Lập tức mẹ biết các bộ mặt rạn
ra như thế nào
Như thế nào cơn kinh hoàng toát
lên từ dưới mi mắt
Như thế nào khổ đau tạo thành
những trang bản thảo
Bằng chữ hình nêm khắc sâu trên
gò má nhợt nhạt.
Như thế nào mái tóc đen hay màu hung
hoa râm
Bỗng chốc bạc trắng,
Nụ cười mờ dần trên đôi môi quị
lụy,
Và những run rẩy sợ hãi trong
tiếng cười khô.
Và mẹ đâu cầu nguyện cho riêng
mình mẹ,
Còn cho hết thảy những ai đứng
bên ngoài nhà tù,
Trong lạnh buốt hay chói chang
mùa hạ,
Bên mẹ, dưới bức tường đỏ mù
lòa.
II
Thêm lần nữa giờ tưởng niệm tới
gần
Tôi thấy, tôi nghe, tôi cảm giác
các bạn
Tất cả các bạn: kẻ què liệt phải
có người dìu dắt,
Rất đau đớn, cho tới lúc xong
hàng; kẻ ngất ngư;
Và cô gái ấy, kẻ lắc lắc chiếc
đầu xinh đẹp,
Và nói: “Tôi tới đây như thể nó
là nhà.”
Tôi muốn gọi hết thảy bằng tên
từng người,
Nhưng danh sách đã bị lấy đi và
không biết tìm nó ở đâu.
Tôi đã dệt cho họ chiếc khăn
choàng vĩ đại,
Từ những lời khúm núm tôi từng
nghe lỏm.
Tôi vẫn nhớ chúng, không sót một
tiếng, bao lâu còn sống,
Dù khủng khiếp mới hay khổ nạn mới,
tôi chẳng hề quên.
Cho dẫu người ta bịt kín cửa
miệng kiệt sức của tôi,
Nơi qua đó cả trăm triệu người
gào thét;
Tôi mong biết mấy khi tôi lìa
đời,
Họ sẽ nhớ tới tôi trong ngày lễ
giỗ.
Và nếu ngày nào đó trên đất nước
này,
Có người nào đó quyết định dựng
tượng đài cho tôi.
Tôi bằng lòng vinh dự ấy,
Với một điều kiện – rằng nó sẽ
đứng
Không ở bên bờ biển, nơi tôi
chào đời,
Mối dây sau cùng của tôi với
biển ấy đã đứt.
Không ở trong vườn hoàng gia gần
lùm thông reo,
Nơi chiếc bóng tuổi trẻ khôn
nguôi đang tìm kiếm tôi.
Nhưng ngay chỗ này, nơi tôi đã
đứng suốt ba trăm giờ,
Và là nơi người ta không bao giờ
mở chốt cửa cho tôi.
Hãy nghe đây, cả trong cái chết sung
sướng tôi vẫn còn sợ
Rằng tôi sẽ quên đoàn xe tang
đen.
Quên như thế nào cánh cửa ghê
tởm đóng sập lại
Và một bà lão hú lên như con thú
bị thương.
Và có thể dòng tuyết đang tan
như những giọt nước mắt,
Từ hàng mi bất động bằng đồng
của tôi.
Và chim bồ câu nhà tù gù lên ở
một chốn xa
Và những con thuyền thuận buồm
xuôi dòng Neva.
[20]
Chú thích
[1] Khủng bố Yezhov. Cuộc đàn áp tập thể tại Liên bang Sô
viết, đặc biệt trong hai năm 1938-39, cao điểm của Ðại khủng bố thời Stalin (The
Great Terror) khởi sự từ đầu thập niên 1930. Cuộc này được tiến hành bởi
Nicolai Yezhov (1895-1939?), ủy viên nội vụ của Stalin (đứng đầu cơ quan NKVD).
Chỉ riêng tại Ukraine, có tới 162.000 đảng viên Bôn-sê-vich, chiếm 35% tổng số,
biến mất; khoảng 98% ủy viên trung ương và 80% ủy viên khu vực bị bắt. Các
thành viên hàn lâm viện như Mykhailo Kravchuk và Yeven Oppokiv bị tống vào trại
lao động. Các nhà văn như Ivan Mykytenko, Ivan Kulyk, Borys Kovalenko, Ivan
Kyrylenko, và Mykola Filiansky biến mất không một dấu vết.
[2]
Nay là nhà tù Kresty.
[3]
Akhmatova ghi: Tháng Ba 1940
[4]
Bản tiếng Anh: Black Marias (Ðoàn xe ngựa đen trong đám ma).
[5] Hai câu cuối của đoạn này lấy từ bản của D.M. Thomas;
ba bản dịch khác (xem phần Nguồn), đều đại thể giống nhau: “Mẹ sẽ giống như vợ của những người Streltsy bị giết, Than vãn không
nguôi dưới các ngọn tháp Kremlin”. Ðội thị vệ Streltsy đứng lên nổi loạn
chống lại Pyotr Alexeyevich Romanov (Peter I Ðại đế) năm 1698. Hầu hết bị hành
quyết hoặc lưu đày.
[6]
1935, Mùa thu, Moscow
[8] Dinh thự của hoàng gia vào mùa hè, cách trung tâm St.
Petersburg 26 cây số, nơi giới quí tộc thường lui tới, (nay là thị trấn
Pushkin), nơi Akhmatova sống thời thơ ấu, và là nơi bà gặp người chồng thứ
nhất, Nicolay Gumilyov.
[9] Các bản tiếng Anh: The Crosses. Quần thể của nhà tù
Kresty tại trung tâm Leningrad, nay lấy lại tên cũ là Petersburg, gần nhà ga
Finland, được gọi là khu Thánh giá vì nó có hình hai tòa nhà chéo nhau. Nhà tù
này gồm 960 xà lim, thiết kế nguyên thủy là để giam 1.150 người tù.
[13]
22 tháng Sáu, 1939, mùa Hè. Fontannyi Dom
(ngôi nhà Akhmatova sống ở Leningrad).
[15] Cả bốn bản tiếng Anh: Limetrees hoặc lindens, cây
đoạn. Tôi dùng “cành dương” cho có thi tính và gần gủi với người Việt.
[16]
4 tháng Năm, 1940, Fontannyi Dom
[17] Tông đồ Gio-an, người được Ðức Giê-su yêu quí nhất
trong 12 Tông đồ và trối lời phó thác mẹ của ngài.
[20]
Tháng Ba 1940, Fontannyi Dom
Nguồn:
1. Anna Akhmatova, Selected Poems , D.M. Thomas dịch,
Nxb Penguin Books, New York, HK, 1976, bài Requiem,
tt.87-96;
2. Requiem, Yevgeny Bonver dịch, www.poetryloverspage.com/yevgeny;
3. Requiem, Sasha Soldatow Mayakovsky dịch,
www.
Eliteskills.com/analysis_poetry/Requiem_by_Anna_Akhmatova_analysis.php-;
4. Requiem, Judith Hemschemeyer dịch, www.bezumive.com/requiem.htm;
5. en.wikipedia.org/wiki/
Anna_Akhmatova;
6. Và một số trang web có
liên quan tới Anna Akhmatova.