Nguyên Yên
Ann Phong, Dark Ocean, mixed media, 2014
(Collection of David
Hai Goetz)
Đừng
đứng trước mộ tôi mà than khóc.
Tôi
không ở đó, tôi không ngủ,
tôi
là ngàn cơn gió vỗ,
là
hạt kim cương óng ánh trong tuyết,
là
mặt trời lấp lánh ngọn lúa vàng,
hạt
mưa thu nhẹ nhàng lời ru.
Khi
người thức giấc trong ban mai tĩnh lặng
tôi
xôn xao, xào xạc không trung
nơi
bầy chim lặng lẽ nối đuôi khoanh tròn.
Tôi
là vì sao dịu ngọt,
tỏa
sáng màn trời đêm.
Đừng
đứng trước mộ tôi mà giàn giụa.
Tôi
không ở đó, tôi không chết.
– Mary Elizabeth Frye
Kể từ ngày nghe tin em, tôi chưa một lần tìm đến thắp nén hương
cho Kim Yến. Có lẽ với tôi, em không thật sự ra đi. Hôm nay tình cờ đọc bài thơ
này, tôi như nghe tiếng em nói, em cười. Đâu đó trong cuộc đời này, em vẫn hiện
diện trong mọi vật thể, và nếu chúng ta có một điều gì đó để tin tưởng, tôi tin
rằng em đã không chết.
*
Chúng tôi lái xe dọc theo Pacific Highway đến một điểm hẹn nơi
hai chị em lần đầu gặp nhau. Trời vàng óng, nắng chiều đậu trên mái tóc ngắn bướng
bỉnh soi rõ một nửa khuôn mặt em cương nghị với cặp mắt sáng, đen nháy luôn mở
lớn quan sát cuộc đời. Đưa tay vặn âm thanh xuống khi Khánh Ly hát đến đoạn “Tại
sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui” em hạ giọng nghiêm chỉnh:
“Cảm ơn chị bỏ thì giờ đi với em. Nhất
là vào một buổi chiều trời đẹp như hôm nay.” Tôi nhìn mắt em long lanh,
có niềm vui pha lẫn nỗi buồn, tôi liên tưởng đến vẻ đẹp buổi chiều trước giờ tắt
nắng.
Quán nước nằm cao ngót trên triền đá, xung quanh là biển trời
mênh mông. Em kéo tôi vào ngồi ở bàn khuất trong góc phòng nơi có tấm thảm màu
xanh mạ lót dưới bộ sofa da bò màu nâu đất cũ kỹ, một bên là kệ sách gỗ cao
ngút tận trần nhà, một bên là cửa sổ mở tung vào bầu trời vần vũ những đám mây
hồng tía. Mặt trời hệt cái mâm tròn sà thấp sát mặt nước, đỏ ửng như cục than hừng
hực trước khi tắt. Chúng tôi ngồi xoay hướng về phía chân trời, hoàng hôn tĩnh
lặng tưởng chừng thanh bình, yên ả. Có tiếng chim kêu từ xa vọng lại não nề.
Trong thoáng chốc, biển hồ mới đó xanh thẳm chuyển sang đen ngòm. Vệt sáng cuối
cùng tự bao giờ bị nuốt chửng vào lòng biển không còn vết tích. Tôi nghe em lầm
bầm với chính mình, “Cái gì dù đẹp và
mạnh mẽ tột cùng cũng không để lại gì. Mọi thứ đều như thế, đều bị nuốt chửng
vào bóng tối.” Tôi nói với em: “Không
hẳn, có những thứ đi rồi mà vẫn lì lợm ở lại với chúng ta, chẳng hạn như hình ảnh
người tình chia tay chưa thỏa lời biệt ly.” Em nheo mắt: “Thứ còn lại chỉ là kỷ niệm. Và theo thời
gian kỷ niệm cũng tan biến vào bóng đêm.”
Kim Yến là một người bạn trẻ hơn mà tôi thường gọi đùa là “bệnh
nhân” đặc biệt của tôi. Thời gian mới quen biết nhau, chúng tôi gặp nhau cách
tuần, có khi ở quán, có khi ở nhà, có khi ở khuôn viên, đôi khi chỉ gặp nhau ở
một bãi đậu xe. Vào những lúc em ở tình trạng “trầm trọng”, tôi đem chai rượu
sang nhà em và hai chị em nói chuyện đến khi mặt trời lên. Có những buổi ngồi với
nhau cả buổi chiều, chúng tôi chỉ ậm ừ vài câu, để sự yên lặng làm chất xúc tố
hòa quyện tình cảm và sự thông hiểu giữa hai trái tim mệt nhoài. Có những ngày
em nói chuyện huyên thuyên, nói về những việc không đâu vào đâu, nhắc về một
khoảnh khắc kỷ niệm thơ ấu, về một người thân, một cuốn sách, một bản nhạc. Dù
em nói chuyện gì đi nữa, tôi ngày càng hài lòng hơn về tiến triển tinh thần của
em. So với một Kim Yến im lìm và khép kín, em giờ đây biểu lộ cảm xúc, đôi khi
còn có vẻ nhạy cảm.
Vào những buổi chiều trời nhiều sắc màu biến đổi như chiều nay,
hai chị em thường ngồi im lặng bên nhau chờ cho cảnh vật lắng đọng. Hôm
nay, trông em có vẻ bồn chồn bất an, tôi sốt ruột đi thẳng vào đề: “Có gì không ổn? ” Cúi sát đầu
vào tôi, em nói như thì thầm: “Đã hơn
vài tuần nay, họ không về nữa.” Giọng em hạ thấp: “Em đã cố gắng đến kiệt sức. Đã làm mọi cách.
Nhưng lần này, họ thật sự biến mất.” Có chút gì đó tắt nghẽn trong giọng
nói, như âm hưởng của sự tuyệt vọng. Tôi cố gắng nói với em một câu gì đó, lúng
túng tìm một câu trích thích hợp nhưng rồi im bặt trước cặp mắt em xa vắng, trống
rỗng, như thể em đang trân trân nhìn vào một hố đen trước mặt.
Tôi nắm tay em bóp chặt: “Đã
nhiều năm qua rồi, có lẽ mẹ và em đã siêu thoát...” Em vẫn đăm đăm nhìn
vào hố sâu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc ngồi im cùng em phóng mắt vào
màn đêm. Ngoài kia những đợt sóng từng lớp xô vào bờ, thỉnh thoảng đập mạnh vào
những mỏm đá làm bọt sóng tung cao gây cảm giác tan vỡ.
Đó là đêm cuối cùng tôi gặp em.
*
Sinh ra đời,
chứ không
phải cái chết,
là sự mất mát nặng nề nhất.
– Louise Gluck
Mẹ sinh ra em vào mùa xuân năm 1972 tại Nha Trang, vừa chào đời
em khóc oa oa mẹ dỗ mãi không nín. Một lát sau, em bỗng dưng im bặt. Mẹ nhìn ra
cửa sổ nghe có tiếng chim trời hót vang. Mẹ đặt tên em là Nguyễn Kim Yến. Một
năm sau khi em chào đời, mẹ sinh thêm một bé gái đặt tên là Nguyễn Kim Vân. Vài
năm sau miền Nam thất thủ, gia đình ly tán, cha em chết trong trại tù cải tạo, mẹ
buôn bán tảo tần sáng tối cố gắng sống còn trong những ngày cả nước khốn khó,
nuôi dạy hai chị em lớn khôn trên bãi biển Nha Trang. Hai chị em ngày đêm không
rời nhau như hình với bóng cho đến cái ngày định mệnh ấy.
Cơn bão đã tan và mặt trời trên cao chói chang khi em tỉnh dậy
trên một bờ biển. Mở mắt ra, em thấy hàng trăm cặp mắt xung quanh chăm chăm
nhìn vào mình như thể họ đang chờ đợi một phép mầu. Cảm giác người nóng ran,
thân thể tím bầm, nặng trịch như bị cột chặt vào tảng đá đang từ từ chìm xuống,
em ú ớ gọi mẹ, cố nhớ lại chuyện xảy ra đêm qua, khi đám hải tặc tràn lên tàu.
Một cảm giác đau buốt truyền từ hai chân lên tới đầu, em đưa tay lên ngực cố giữ
chặt trái tim đang co thắt hoảng loạn.
Mặt đất bồng bềnh. Bầu trời sà xuống thấp như muốn bóp nghẹt khoảng
không gian ngột ngạt. Tiếng người bàn tán xôn xao, ai đó với khuôn mặt thần
chết đang cố gắng giải thích sự việc. Em nhắm chặt mắt lại, hiểu rằng từ nay trở
đi khi mở mắt, mình sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy mẹ và em gái thương yêu nữa.
Những năm tháng trung học ở Mỹ sau đó em trở thành một cô bé
câm. Con chim trời không còn tiếng hót, nhốt mình vào lồng kín. Có lẽ với em,
thế giới càng nhỏ càng thu hẹp, hình ảnh mẹ và em gái càng không bị lu mờ.
Thông thường, người ta phải tập quên đi và đóng chặt cánh cửa nhìn vào quá khứ
để vượt qua và tiếp tục bước đi trong cuộc sống. Riêng em, quá khứ dù là những
vết cắt ngoài sức chịu đựng, nhưng lại là chiếc cầu nối duy nhất đưa em trở về.
Em nuôi dưỡng những vết thương trong lòng mình, bám víu vào cơn
ác mộng hằng đêm níu giữ lại khuôn mặt người thân yêu.
*
Cái chết
được ấp ủ
từ những vết thương.
– Federico García-Lorca
Mùa đông năm 2013, trong khi tôi đang vật lộn với một cuộc khủng
hoảng tình cảm tưởng chừng như không vực dậy nổi, tôi tình cờ gặp lại Kim Yến
và hoàn toàn bị em thu hút. Tuy em luôn im lặng và khép kín đến vô cảm, tôi vẫn
có cảm giác như tận cùng trong con người bằng da bằng thịt đó ẩn náu một linh hồn
đang vùng vẫy cố thoát ra khỏi thân xác. Điều gì đó trong ánh mắt em khiến tim
tôi đau nhức, hệt như hồi còn bé nhìn con chim bị bắn gãy cánh vùng vẫy gắng sức
lết theo đàn.
Có lẽ khi đã mệt nhoài, người ta không còn đủ sức chống chõi,
che đậy nữa, mà để yên cho người ngoài soi thấu vào tâm can mình. Thoạt nhìn
vào, Kim Yến là một cô gái mạnh mẽ, thông minh, ngăn nắp, sống một đời sống độc
lập, lý tưởng. Nhưng hệt như những vết thẹo hằn sâu trên thân thể, trái tim em
chằng chịt những vết thương. Em yếu đuối và mỏng manh. Em đau đớn, sợ
hãi. Tôi có cảm tưởng chúng tôi gần gũi nhau bằng sự cô đơn và tuyệt vọng,
với hy vọng tình thân yêu sẽ giúp nhau vượt qua những đêm tối của cuộc đời.
Tình yêu, dù ở dưới dạng nào, cũng là hạt mầm hy vọng. Tình bạn
với em giúp tôi phần nào tìm lại được thăng bằng. Còn em, có khi tôi thấy em
như tạm quên những oan khiên trong đời, tung cánh bay cao. Tiếng chim hót dường
như cũng thánh thót hơn. Tôi để ý thấy những chuyến bay thường xuyên trở lại
Thái Lan tìm mẹ và em cũng dần dà thưa dần. Có thể nào những vết thương đã liền
lặn, và cuối cùng trong một góc sâu thẳm nào đó, em đã cho phép đứa con gái sống
sót duy nhất trong gia đình được quyền sống, được quyền hiện hữu.
Hồi đó tôi thường tự cho rằng mình có một giác quan thứ sáu, nhạy
cảm với mọi sự việc, nhất là với những người mình thương yêu. Vậy mà chiều hôm
đó, tôi đã không mảy may linh cảm được điều gì, kể cả khi đưa em về nhà, em chỉ
chồng sách đặt sẵn trên bàn: “Chị đem
về nhé. Ba trong những cuốn sách này là sách em trả lại chị. Những cuốn còn lại
em cho chị mượn đọc. Là những cuốn favorite của em.” Đặt chồng
sách vào xe, cuốn The Birth of Tragedy đập vào mắt tôi vì màu giấy ngà
cũ kỹ, tôi cầm cuốn sách lên, hàng chữ First
Edition đã phai màu nhạt thếch và mùi giấy cũ gây cho tôi một cảm giác rờn
rợn.
*
Chị, chị đâu rồi. Em không nhìn thấy chị.
Chị đây. Sát bên em nè.
Không, em không thấy chị. Chị đâu.
Chị đây. Chị đang ôm em đây nè. Tay chị nè.
Không. Em không cảm giác được gì hết.
Chị. Chị ơi. Tay chị đâu. Tay em đâu.
Người ta đè lên em tê cứng. Tay em đâu rồi. Chị, chị ơi.
Suỵt. Đừng sợ. Chị đây.
Chị. Chị ơi. Chị đâu. Đừng buông em ra.
Hẳn nhiên rồi.
Thụp, một tiếng động mạnh, hệt như một con thú vừa hạ bàn chân
khổng lồ giậm mạnh xuống boong tàu, mọi thứ rung chuyển. Những tiếng la ó thất
thanh nổi lên khi những bóng đen từ trong bóng tối nhảy vọt lên tàu. Trong muôn
vàn âm thanh hỗn loạn, con bé nghe tiếng em gái ré lên từng hồi. Nó ôm chặt em
nó, cảm giác bàn tay ai đó đang lôi nó xềnh xệch. Nó nhắm chặt mắt lại. Chặt đến
nỗi mọi cảnh diễn ra sau đó không thể nào lọt vào mắt nó.
Năm, mười, mười lăm, hai mươi. Nhắm mắt. Năm, mười, mười lăm,
hai mươi. Nhắm mắt. Nhắm mắt. Bầu trời chằng chịt những ngôi sao, hai chị em
leo thoăn thoắt lên những hốc đá chơi trò trốn tìm. Nhắm mắt. Bãi cát Nha Trang
sớm mai êm ả hiền hòa, hai chị em chân đất nắm thay nhau chạy ra đón những chiếc
tàu đánh cá vào bờ. Chỉ cần nó nhắm mắt. Nhắm mắt và cầu nguyện. Những bàn tay
thô bạo. Cái thân nặng ngàn cân trên người nó. Cái cảm giác đau nhói liên hồi
giữa hai chân nó. Tất cả rồi sẽ biến mất. Chỉ cần nó nhắm mắt. Cầu nguyện. Khi
mở mắt, mọi thứ sẽ biến mất.
Và như thế, mọi thứ biến mất. Em nó, mẹ nó, tuổi thơ nó, tâm hồn
nó, niềm tin tình yêu của nó, tất cả những gì tốt đẹp gắn bó hình thành nó đã
vĩnh viễn biến mất – đêm hôm đó.
Thứ còn lại là nỗi dày vò, bứt rứt khôn nguôi của người sống sót
ở lại, cùng những hồn ma trong lòng.
*
Chúng tôi thường hẹn nhau vào cuối ngày trước giờ tắt nắng. Có lẽ
màu sắc của bầu trời và sự tĩnh lặng của không gian đem đến sự bình yên tạm thời.
Cũng có lẽ sự trở lại đều đặn, bền bỉ mỗi ngày của thứ sắp tan biến xoa dịu nỗi
bất an vô hình.
Đêm đầu tiên khi giấc mơ hằng đêm không về, em thức dậy hụt hẫng.
Người không toát mồ hôi, máu cũng không dồn về tim, nhìn ra ngoài mặt trời đã
lên cao, em nằm yên không chuyển động chờ cho đêm trở lại. Con người một khi đã
quen tiếp xúc với điều gì đó, dù là nỗi đau, sự hành hạ, thậm chí sự đục khoét
lở loét vào vết thương, nhưng nếu thiếu nó, người ta sẽ không còn cảm giác mình
đang sống, đang hiện hữu.
Khi những bóng ma quá khứ vĩnh viễn không trở về nữa, em thấy
mình như kẻ thất tình, cảm giác một lần nữa bị bỏ rơi giữa dòng không một liên
hệ nào sót lại trên đời. Cuộc sống. Mọi hệ lụy. Giấc mơ. Hy vọng. Thế giới. Tất
cả. Một sự vắng bóng.
Điều cuối cùng con người phải làm là tan biến. Như bóng chiều –
mất biến vào đêm tối.
*
Ngày được tin em ra đi ở Thái Lan, tôi hình dung đến cảnh hoàng
hôn sà thấp xuống một chuyến tàu. Trên cao, từng đàn chim yến nối đuôi nhau soãi
cánh về hướng mặt trời. Người phụ nữ đứng dựa lan can tàu thản nhiên đưa chân
bước vào khoảng không trước mặt.
Tiếng chim trời ngoài khơi kêu vang, như tiếng kèn hiệu hồi kết.
Cũng có thể là kèn hiệu bắt đầu. Biết đâu khi người ta đi hết quãng đường thế
gian, có một chốn nào đó nơi khổ đau không hiện hữu, và đàn chim có thể tự do
lượn cánh không sợ bị bắn rơi nửa đường.
Bất kể nơi nào, tôi tin rằng có một nơi chốn tốt đẹp hơn cho
em, xa hẳn thế giới này.
NY
– Viết tưởng nhớ Kim Yến [1972-2017]
S
S