Vũ
Hoàng Thư
hạc gọi đàn
ngón tay tượng
giọt sương
Mây
tháng mười cuốn lọn trôi xa, vẫn vô định như tự bao giờ. Sương buổi sáng vờn vợn,
sắp tan vì ngày đang lên. Người ngồi ngây, thơ haiku đọng lại từ những mùa thu
đã đi qua bỗng trở về không đợi gọi. Biết bao nước chảy dưới cầu… Sao lại hài
cú sương thu? Có lẽ haiku ngắn, gọn, và bởi có nhiều thứ đáng cảm về mùa thu
trước mặt, không thể dài dòng để còn bắt kịp điệu thu, mông lung đó có thể tan
trong khoảnh khắc. Nói mà chi, hay chẳng cần nói nhiều, lúc đó chỉ có làn sương
tụ, đọng lại trong hồn là đáng kể.
Thu
có thể trong vắt, ngất tạnh tầng cao, lạnh-lẽo-nước-trong-veo của Nguyễn Khuyến
nhưng thu thường xuyên về với sương, mù u ngõ vắng. Sương là gì nhỉ trong trời
đất? Là “Trời đất hòa hợp với nhau cho móc ngọt rơi xuống…”
theo Đạo Đức Kinh. Lão Tử gọi thứ mây khói đó là cam lộ, thứ sương mang vị ngọt,
“Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ” (*).
Phải chăng chỉ khi có sự tương hợp giữa đất và trời mới có sương? Thật vậy,
sương chỉ tụ lại khi có đủ điều kiện về độ ẩm, nhiệt độ vào đúng điểm sương
(dew point), và gió lặng. Một hạt sương rơi, như mọi thứ trên đời, đều có lý do
riêng của nó. Không nhân duyên chẳng có gì thành. Khác với Đạo Đức Kinh, danh từ
cam lộ trong kinh kệ và văn học Phật giáo dùng để chỉ về thứ nước thanh tịnh,
ngọt và mát, có thể xoa dịu mọi khổ đau. Ngoài ra, sương trong giáo lý Phật đà
biểu hiện sự mong manh, tạm bợ của kiếp sống, “Như lộ diệc như điện” (Như
sương, như chớp lóe, Kinh Kim Cang), và lẽ vô thường của thăng trầm trong cuộc
đời, “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” (thịnh suy như sương đầu cỏ, Sư Vạn Hạnh).
Trong
khí thu bàng bạc, xin trích một số thơ haiku của Issa được phỏng dịch đâu đó
trong quá khứ, im lìm nằm trong bộ nhớ của computer từ bao lâu. Người đọc nên đọc
một hai câu, chậm rãi, thư thả để nghe hơi sương rười rượi mát vỗ về. Đất trời
theo đó dường như tương hợp trong ngoài với thân tâm, phần bình luận sẽ hạn chế
bởi thiết nghĩ thơ ở bất cứ hình thức nào chẳng cần lời bàn, người đọc tự ngấm
và thấm riêng mình trong tuyệt đỉnh quai nhai. Thỉnh thoảng, ngẫu nhiên có đôi
lời thưa thốt, xin xem đó như những hơi sương còn quanh quẩn khi ánh dương chưa
lên hẳn cao…
Issa,
một trong bốn nhà thơ haiku nổi tiếng của Nhật Bản, mất mẹ từ lúc mới 3 tuổi, ở
với kế mẫu cho đến năm 15 tuổi thì bỏ nhà ra đi. Ông sống đời đạm bạc, lang
thang đó đây. Kiếp sống giang hồ đó đã để lại cho đời biết bao ngàn bài haiku.
Mười
bốn bài haiku về sương thu dưới đây là sáng tác của Issa, lựa chọn từ trang điện
tử “Haiku of Kobayashi Issa” (http://haikuguy.com/issa/) do David G. Lanoue
thực hiện. Lanoue phiên dịch sang Anh ngữ từ nguyên tác của Issa, Vũ Hoàng Thư
phỏng dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ dưới dạng thơ lục bát.
1.
shira
tsuyu ni magire kondaru waga ya kana
in the silver
dewdrops
vanishing...
my house
vanishing...
my house
làn sương phủ trắng mờ
xa
bàng bạc khuất
mái nhà ta chìm mờ
2.
waga
kado no takara mono nari tsuyu no tama
a treasure at my
gate
pearls
of dew
pearls
of dew
báu một kho tại ngõ
mình
châu lóng hạt
sương lung linh giọt
nằm
3.
suzushisa
wa tsuyu no ôtama ko-dama kana
such coolness –
big pearls, little pearls
of dew
such coolness –
big pearls, little pearls
of dew
rười rượi mát –
châu nhỏ, to
giọt lóng lánh hạt ngời
phô trong lành
4.
tsuyu
chirite kyû ni mijikaku naru yo kana
dewdrops spilling –
suddenly the nights
grow short
dewdrops spilling –
suddenly the nights
grow short
sương nhỏ giọt –
khuya bỗng như
từng mỗi tối đêm dường
thu ngắn dần
5.
mi
no ue no tsuyu to wa sara ni shiranu kana
not at all aware
that life's dewdrop
is fading...
not at all aware
that life's dewdrop
is fading...
nào ai hay chẳng chút
ngờ
lệ đời đó
kiếp sương mờ phôi
pha
6.
shônin
no me ni wa o-shari ka kusa no tsuyu
to enlightened eyes
Buddha's bones?
dewdrops in the grass
to enlightened eyes
Buddha's bones?
dewdrops in the grass
xá lợi Phật
với tâm an?
một làn sương đọng
bay ngang cỏ đồng
Xá
lợi Phật là báu vật được Phật tử tôn kính và thờ phượng. Ở đây Issa làm một màn
phá chấp ngoạn mục. Ta bắt gặp tinh thần “Phùng Phật sát Phật” của Huệ Khai (Vô
Môn Quan), cởi bỏ hình tướng ràng buộc của đời thường ước lệ, thong dong tự tại
trong sự giải thoát tuyệt đối. Nói cho tận cùng rốt ráo, chẳng có gì gọi là tuyệt
đối mà cũng chẳng có chi gọi là tương đối, chỉ là một cặp đôi của tuyệt mù ngôn
ngữ nhị nguyên. Có lẽ Kazantzakis thâu tóm được yếu chỉ đó bằng một tuyên ngôn
phiêu hốt: "Salvation means deliverance from all saviors " (Giải
thoát nghĩa là sự thoát khỏi tất cả những kẻ cứu độ). Phải tự chính mình đập vỡ
vòng kim cô do chính ta tự đeo vào, chẳng ai khác.
7.
shiro
tsuyu to nakama yoku miyuru kagebôshi
silver dewdrops
and my companion...
sharp shadows
and my companion...
sharp shadows
sương mù khơi
bạn đồng hành…
bóng đổ xuống ập chớp
nhanh sương mờ
8.
cha
keburi ya okabo no tsuyu wo tada tanomu
tea smoke –
the upland rice
trusts in the dew
the upland rice
trusts in the dew
hơi trà sáng tỏa
hương mời –
đồng trổ lúa
thấm hương đời nụ
sương
9.
tsuyu
chiru ya sude ni onore mo ano tôri
dewdrops scatter –
soon enough
there go I
soon enough
there go I
lác đác rơi lời sương
gieo –
đến lúc thôi
một bước vèo về không
10.
shira
tsuyu no dotchi e hito wo yobu karasu
to which side
of the silver dew?
the crow's summons
of the silver dew?
the crow's summons
ở phía nào
bạc trắng sương?
quạ oang oác gọi từng
chương chiêu hồn
11
.
tsuyu
chiru ya goshô daiji ni naku suzume
dewdrops scatter –
the sparrow sings
of next-life enlightenment
the sparrow sings
of next-life enlightenment
sương tản mác mù
sương rơi
chim tước hát
tịnh độ trời vãng
sinh
Ba
bài haiku 9, 10 và 11 ở trên dùng sương làm nền, nhắc điều tạm bợ của kiếp sống.
Lác đác sương rơi, quạ gọi hồn trong chiều lữ thứ, người tự hỏi đã đến lúc định
mệnh gõ chuông? Và như thế, biết điều không thể tránh nên dựa lời chim hót mong
mỏi cõi cực lạc Tây Phương, đất hứa cho an lạc và buông bỏ khổ nạn. Những dấu hỏi
điệp trùng từ hai phía của giọt sương, tụ rồi tan, không chóng thì chầy, cũng sẽ
đến lúc thôi, chỉ trong một bước vèo…
12.
tsuyu
no tama tsumanda toki mo hotoke kana
a dewdrop pearl –
I pinched it into
a Buddha
I pinched it into
a Buddha
một hạt châu nhẹ
sương bồng –
tay vừa chạm giọt về
không
Phật Đà
Về
không – “Không” ở đây không hiểu theo nghĩa là cái đối chọi với cái “có”. Sự đối
đãi “không/có” mà ta nhìn vào thực tại xuất phát từ ý niệm, danh từ, những xích
xiềng của cố tín tích lũy tự bao đời, những thứ tạo ra không biết bao nhiêu khổ
đau. Để vượt qua cửa ải của chữ Không và sống trong chữ Không tuyệt đối, Huệ
Khai của Vô Môn Quan bảo rằng: “Nếu ngươi thực muốn vượt qua rào cản này, ngươi
phải có cảm giác như ngậm một viên sắt nóng mà ngươi không thể nuốt vào hay khạc
ra.” Do vậy, câu nói “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” nêu ở phần trên là một
lối nói ví von của kẻ trí, diễn tả trạng thái của một người đang tìm cách phá vỡ
tới cùng những ngăn ngại trên đường tiến tới tự do vô hạn: giải thoát. Người
phàm chớ bắt chước theo nghĩa đen của câu nói, bởi giết Phật thì sẽ sa vào địa
ngục, giết Tổ thì sẽ đi ở tù!
Issa
chạm vào hạt sương và nó biến mất. Biến mất chẳng phải là chấm dứt, là không
có, sương chẳng phải tạo ra từ không đó sao? Chẳng qua chúng ta cứ vin vào cặp
bài trùng không/có để cảm nhận sự hiện hữu của vạn vật. Bước trên/dưới, bước
ngoài/trong, hay đứng tại chỗ, khi sự phân biện dập tắt, nhất thể chân như ắt
hiển bày. Bấy giờ “Phật Đà” hay “Ta Bà” chỉ là những danh hiệu.
13.
kusabana
ya tsuyu no soko naru kane no koe
wildflowers
–
in the depths of the dew
the bell tolls
in the depths of the dew
the bell tolls
loài
dã hoa –
lẫn
trong sương
chuông
chùa vọng âm vô thường về ngân
14.
tsuyu
no yo wa tsuyu no yo nagara sari nagara
this world
is a dewdrop world
yes... but...
is a dewdrop world
yes... but...
trần gian
một cõi mù sương
một cõi mù sương
ừ thôi... là vậy...
thế nhưng... có là...
Đây
là một trong những bài haiku nổi tiếng nhất của Issa. Ông sáng tác bài này
trong ngày giỗ đầu của con trai đầu lòng Sentarô, mất sau khi lọt lòng mẹ chỉ mấy
ngày. Âm nagara sari nagara cuộn tròn liên lỉ duyên sinh, dường như
Issa đang buồn thảm và bất lực. Ngài Mục Kiền Liên vào địa ngục chẳng dâng được
bát cơm cho mẹ, khi gió nghiệp lồng lộng chẳng ngừng. Bài thơ bỏ lửng bao dấu hỏi
trong lòng người đọc. Ôm chầm hay buông bỏ? Ôm chầm cái gì và buông bỏ cái gì? Ừ
nhỉ thế đấy, nhân gian một cõi mù sương, nhưng không... ồ vậy... vô thường
sương tan…
oOo
Lời
sương là lời của khoảnh khắc, chẳng hẹn với nhân gian lâu dài. Sương tượng hình
tự thinh không, giọt long lanh ngà ngọc, Issa ví von sương như trân châu. Giọt
châu, nhìn kỹ và sát gần, phản chiếu cả một thế giới chung quanh, nằm gọn lỏn
trong đó. Ta hòa cùng đại thể, hay đó, một loại châu Hoa Nghiêm?
Trong
thanh khí thu, haiku của Basho trở về lung linh trong ngần của một thời khắc điểm
sương,
I like to wash,
the dust of this
world
In the droplets of
dew.
(Basho)
cho tôi phớt nhẹ
bụi trần
không dưng về đậu lấm
phần tinh sương
Vũ Hoàng Thư
Tháng 10, 2017
-------------------------------------------------------------------
(*) Chương 32, Đạo Đức
Kinh, Lão Tử - Nghiêm Toản dịch.
No comments:
Post a Comment