Thursday, April 30, 2020

HẠT NƯỚC MẮT HÔM QUA...



và khuôn mặt những người thân yêu, ở lại... chiều 28. 4. 75.

Duyên

Thích Nhất Hạnh’s calligraphy.
Sambhala Sun. Jan. 2016.

ngày ra đi, không biết sẽ về đâu
chạy hoảng loạn, tâm hồn bất định
theo dòng người. đời cuốn. cứ trôi...

bao năm…dường như mới hôm qua
sáng nay đọc lại
Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle*
tuyết rơi. rơi. không dứt...
tuyêt trắng ngời. trời xám nhẹ
đã vào Xuân?
như  bức tranh kia. của ‘người hoạ sĩ’. *
gammes mầu gì 
thật lạ 
có phẫn nộ, bi thương, tận cùng. niềm tuyệt vọng
có đau thương. oằn oại. suốt đời người
có thiết tha. buông...để sống
chơt, nụ cười. hy vọng 
sẽ. sang. xuân. 

tháng Tư. đau
bao kỷ niệm. thật thà... 
thương và nhớ. đến, xót xa 
vẫn đó...
có bao nhiêu chiếc quan tài, qua phà
về, lại mái nhà xưa
người lính buồn, đứng im như pho tượng
giọt mưa rơi, phủ ướt một phận đời 
lá cờ vàng xô lệch. chiếc khăn sô
mưa. dập tắt. nén hương
vừa thắp.*

tháng Tư. đau 
người thân yêu, chia nhau cơ khổ
những chia ly. sửng sốt. vội vàng
có những bàn tay. vuột, bàn tay
thế giới bên kia. bỗng là cứu rỗi...
nên, người lìa đời. vội vã...
dứt. ăn năn.

mưa Sài Gòn
mưa hoài. trong nỗi nhớ
giọt mưa rơi. rơi, suốt phận đời 
ngưởi ra đi. đến miền đất lạ
bỏ người ở lại. buồn 
thọ nạn. tháng Tư đau

tôi yêu mưa Sài gòn 
những ngày, xa xưa. cũ
chiếc dù. che hạnh phúc
quá mong manh 
ngày mai. lãng đãng...
ai. có ngày mai.
ai. là ai?

hôm nay mưa buồn
gơi nhớ
hôm qua…

(the tears I shed yesterday have become rain.)**

DUYÊN.
4. 3. 2016.
4/30/2020

* ý trong bài Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle, Trần Mộng Tú.
* người hoạ sĩ (Trời), Mưa Saigon, Mưa Seattle.
** dòng chữ calligraphy, thầy Thích Nhất Hạnh.

Wednesday, April 29, 2020

NHỮNG NĂM NÀO CHIẾN TRANH ĐÃ QUÊN


nguyễnxuânthiệp

ởng nhớ những năm tháng ấy.
La Vang mùa hè 1972


     Ngày 30 tháng 4 đang trở về. Nó gợi lên nhiều hồi ức trong mỗi chúng ta. Những quên quên nhớ nhớ bật sáng nơi chân trời trước mắt. Một câu hỏi được đặt ra: Nên quên hay nên nhớ cuộc chiến đã qua trên đất nước Miền Nam?Thảo Trường trong Đá Mục khi nhìn lại cuộc chiến ấy đã thốt lên: Phải luôn luôn nhớ rằng hãy quên đi tất cả.

    Nguyễn xin mượn câu thơ của Thanh Tâm Tuyền làm đề từ cho trang viết này. Những năm nào chiến tranh đã quên... Có thật vậy không? Đành rằng chiến tranh đã lùi xa 45, nhiều cuộc đời đã tàn phai (như Nguyễn và các bạn ta) hoặc mập béo phây phây (như mấy cha nội ở quê nhà)- và lớp người trẻ sinh sau chiến tranh nay đã bước vào đời đảm nhận những công việc mới... Vâng,  đành rằng là thế, nhưng rải rác đây đó vẫn còn dấu tích của một thời đã qua, và một khi cơn giông kéo đến trên bầu trời làm bật lên những gốc rễ từ trong lòng đất, thì lòng người bên này và bên kia còn dấy lên những u hoài.      
   A, những năm nào chiến tranh đã quên... Con mắt đen... Niềm im lặng sâu. Câu thơ của Thanh Tâm Tuyền viết về chiến tranh chứa nhiều tầng ý nghĩa mang nội dung siêu hình. Con mắt kia là cái nhìn lịch sử. Còn niềm im lặng kia có phải là sự lãng quên hay nó là ý thức bị dìm xuống. Đã quên, hay tưởng rằng đã quên, nhưng mãi mãi sẽ không bao giờ chúng ta quên được cuộc chiến của một thời mà chúng ta đã tham dự. Nó vẫn còn đó, trong tim trong óc mỗi người, trong cái trở mình của đêm hay thức giấc của bình minh đợi chờ cơn bão. Nhà báo Seth Mydans trên tờ The New York Times một lần đã viết: lớp trẻ ngày nay hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh cách đây nhiều chục năm. Nhận định đó không hoàn toàn đúng. Có thể ở trong nước, do bị bưng bít và xuyên tạc, hoặc mải mê theo cuộc sống thực dụng và những bóng ảnh phù hoa, có thể giới trẻ chỉ có một hình ảnh lờ mờ về thời chinh chiến đã qua. Nhưng ở hải ngoại thì khác. Ở đây có cộng đồng và các bậc phụ huynh chăm lo truyền thụ và giáo dục con em cho nên lớp trẻ lớn lên biết ít nhiều về cuộc chiến đấu dũng cảm của quân dân Miền Nam cùng những đóng góp đáng hãnh diện của cha ông họ. Ở đây, cần phải ghi nhận công lao của báo chí và văn nghệ trong việc kiến tạo tinh thần của lớp trẻ. Chương trình Lá Thư Từ Chiến Trường của Asia trước đây là một thí dụ. Hay như vừa qua, khi vị tướng anh hùng Lê Minh Đảo nằm xuống, báo chí ở đây và cả những trang mạng đã viết những bài ca ngợi, vẽ lại con đường gian khổ nhưng kiêu hùng vị tướng này đã đi. Gần đây, Nam Lộc và Trúc Hồ cũng chung sức thực hiện một DVD về Những Người Lính Bị Bỏ Rơi để nhắc nhở thế hệ trẻ đừng quên quá khứ oai hùng của cha ông.  Chính nhờ tất cả những nguồn ảnh hưởng tốt đẹp vừa nêu trên, những người trẻ như anh Phùng Trọng Kiệt mới hiểu rõ hơn cha anh của mình. Anh Kiệt viết như sau trên DCV Online ngày nào:
   "Ba ơi, hàng năm vào ngày này (ngày 30 Tháng Tư), con thường nghĩ đến sự hy sinh cao cả của Ba, của các Cậu Chú Bác trong gia đình và của toàn thể các Cô Chú Bác trong quân lực VNCH. Các vị đã hy sinh cả tuổi thanh xuân để bảo vệ tự do cho miền Nam. Sau cuộc chiến, CS đã áp dụng 1 sự trả thù tàn độc trên thân xác và tinh thần của quý vị trong những nhà tù; và nhiều vị đã phải bỏ mình vì không chịu nổi... Một vài dịp khi Ba hàn huyên với bạn bè anh em, con cũng được nghe 1 vài câu chuyện về những năm tháng dài đăng đẳng khổ lao, những lần vượt ngục kiểu Steve Mc Queen trong phim "The great escape" và những lần bị hụt và bị bắt lại. Vì Ba thường kể với giọng điệu hài hước chế diễu những tên cai tù nên con không cảm nhận được những đau đớn thể xác và tinh thần mà họ đã dành cho Ba sau những lần đó. Sau này khi đọc được những chứng từ của những tù nhân, con mới cảm nhận được sự bất khuất của Ba.
   Ngày 30/04, con cũng nghĩ đến sự hy sinh của Má, của những bà Mẹ, những người vợ đã hy sinh cả cuộc đời để lo cho con, nuôi chồng trong những trại tù khắc nghiệt. Có lần Má đã dẫn anh chị con đi thăm Ba (con không được đi cùng vì còn nhỏ) trong 1 nhà tù nằm sâu thẳm trong rừng và đã bị lạc trong rừng với 2 trẻ nhỏ. Muỗi rừng đã đốt anh chị con đến làm độc. Khi đến được trại tù thì người nói Ba không còn trong trại tù và nói Má cứ yên tâm về lao động xản xuất nuôi con. Má tưởng Ba đã chết và bắt đầu ngã bệnh, năm đó Má chỉ còn 29 kg. 
   Con xin nghiêng mình ghi ơn sự hy sinh cao cả ấy..."
   Những năm nào chiến tranh đã quên. Con mắt đen... Không, hãy nhìn vào đôi mắt của hạ sĩ Lê Văn Nào. Nhà báo Seth Mydans ngày nọ đã ghi: "Đôi mắt của hạ sĩ Lê Văn Nào bị đục thủng trên bức chân dung bằng sứ trong nghĩa trang quân đội của miền Nam bị bỏ hoang. Những con bò lang thang gặm cỏ, nơi mà những mẫu đất với những tấm bia nghiêng ngả, nhiều tấm bị vỡ vụn và bị phá nát, nhiều tấm bị bật tung lên nằm bên cạnh những ngôi mộ trống." 
   Bi thảm như thế đó. Và ghê thay cho sụ thù hận, tàn ác của kẻ thù. Xin đọc tiếp Stele để có câu trả lời, dù là hư vô, cho quên và nhớ:
   "Ở trên đỉnh đồi nhìn xuống nghĩa trang bị bỏ hoang của miền Nam có một đền thờ cỏ dại mọc hoang tàn, những cơn mưa hè và rêu phong gần như bào mòn những chữ khắc oai hùng "Vị quốc vong thân." Những chân hương cắm ngổn ngang trên mặt đất. Trên một tấm đá khắc kỷ niệm một người nào đó dùng mực xanh ghi lên vài chữ "thành kính."
   "Trong những trưa hè oi ả, một thanh niên tên là Nguyễn Minh Quang thích ngồi nghỉ dưới bóng mát của ngôi đền. Anh là người lao động cho những xưởng làm gạch nhỏ, họ đào những tảng đất vàng chung quanh các ngôi mộ để nung gạch. Anh Quang chỉ mới 24. Anh nói chẳng bao giờ anh để ý đến chuyện lịch sử của ngôi đền mà anh đang trú nắng hoặc những ngôi mộ chung quanh. Nhưng anh bảo thỉnh thoảng cũng có người đến quỳ trước các tấm bia mộ tỏ lòng thành kính. 
    "Một vài người, có lẽ là những người Việt ở bên kia đại dương trở về thăm viếng, đôi khi trả tiền cho những người thợ làm gạch để gìn giữ những ngôi mộ của một người anh hay một người con. Thực ra, người thanh niên nói, cha anh là một thương binh từng là hạ sĩ trong Lực Lượng Đặc Biệt của miền Nam, mỗi năm cũng ghé vào đền vài lần để cầu nguyện.
   "Bố tôi thích lên đây thắp hương. Tôi chẳng biết để làm gì," người thanh niên nói. "Tôi thấy bố tôi đến thắp hương. Ông nói với tôi rằng ông đã từng chiến đấu cùng với người Mỹ. Tôi chẳng bao giờ hỏi bố tôi tại sao."  

   Thế đấy, chiến tranh qua đã 45 năm còn để lại dấu ấn trong tim người. Lịch sử không bao giờ quên. Và chúng ta cũng không quên sự hào hùng và nỗi bi hận hàng triệu người đã trải qua. Không. Không thể nào quên được.
Viết 2015
Nhuận sắc lại 2020
NXT

Tuesday, April 28, 2020

CHÚC THƯ CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH CHẾT GIÀ


Huy Phương


Nhà văn Huy Phương và tác phẩm

Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.

Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho đến phút sau cùng
Đã tự hiến thân mình cho tổ quốc
Thắng hay thua thì cũng vẫn can trường.

Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.

Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.

Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.

Chiến hữu tôi chết đầu sông cuối biển
Ngày tan hàng đành nằm lại quê hương
Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu
Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng.

Hãy phủ cờ lên nấm mồ tử sĩ
Xác bị xới đào trong nghĩa trang xưa
Hãy rải hoa trên con đường thấm máu
Phút lui binh phải gãy súng buông cờ.

Anh là ai, mang ngọn cờ tổ quốc
Nhân danh ai, đứng phủ lá quốc kỳ.
Chúng ta là những con người bỏ ngũ
Quên anh em nằm lại, để ra đi.

Ta lành lặn để bao người thương tật
Ta sum vầy đành để bạn chia phôi
Ta đến bến để bao người chết biển
Dù ấm êm cũng thương nhớ một đời.

Danh dự này dành cho người đã chết
Đã hy sinh để giữ vững ngọn cờ
Không phải tôi, người lính hèn bỏ ngũ
Để sống còn trong lúc bạn sa cơ..

HUY PHƯƠNG