Sunday, September 30, 2018

TRANH HẢI PHƯƠNG

Paris Một Chớm Thu
Sơn dầu trên bố. 20” x 24”, thực hiện năm 2016.

Saturday, September 29, 2018

HƯƠNG CÂY & GÓC PHỐ HÒ HẸN


nguyễnxuânthiệp

Cây hoàng lan

Hương cây và góc phố hò hẹn là rất đỗi thân yêu, quen thuộc. Ổ đâu, với ai cũng thế -nó gắn bó với một phần đời ta. Với Nguyễn chẳng hạn, mùi hương cây vẫn còn đâu đó trong trí nhớ và kỷ niệm, cùng với góc phố hẹn hò thời còn trẻ. Nhưng trước hết xin được nói về xuất xứ của cái tựa đề rất thơ trên mà Nguyễn đã tình cờ nhặt được. 

   Nguyên là mới đây, đọc một bài tạp bút của nhà văn Lê Minh Hà trên một website (hình như là Da Màu) Nguyễn gặp mấy câu thơ rất hay của Dương Tường có liên quan tới mùi hương và kỷ niệm cùng những hẹn hò: Một thoáng rợn tên là heo may – một hương cây tên là kỷ niệm – một góc phố tên là hò hẹn – Một nỗi nhớ tên là không tên.
   Vậy trước khi đi sâu vào những câu thơ này, và hương cây trên góc phố hò hẹn, ta cần biết chút ít về Dương Tường. Dương Tường, ông là ai? Dương Tường là nhà thơ của Miền Bắc. Ông sinh năm 1932 ở Nam Định, từng bị nhiều khốn khổ trong “vụ án” Nhân Văn Giai Phẩm và Xét Lại trước đây.
   Trong thế giới sách vở, độc giả ở VN từng quen thuộc với những cuốn như: Cuốn theo chiều gió, Anna Karenina, Cái trống thiếc, Người xa lạ, Những con đường xứ Flandres, Truyện ngắn của Tchekhov, kịch của Shakespeare, Henrik Ibsen... do Dương Tường dịch.
   Ông cũng đã xuất bản một số tập thơ: 36 bài tình, Đàn, Mea culpa và những bài khác
   Và ông luôn nói rằng với ông, thơ mới là nghiệp chính, nhưng công chúng lại biết đến ông như là một dịch giả nhiều hơn là một nhà thơ.
   Với Nguyễn, trước sau Dương Tường vẫn là một nhà thơ. Lần đầu tiên thấy hình ông là khi ông xuất hiện trên sân khấu Ngày Hội Thơ ở trong nước cách đây dăm bảy năm. Ông xuất hiện với cuộn giấy vệ sinh (giấy đi cầu) có chép thơ ông, do một nhà thơ nữ trẻ đẹp quấn quanh người nhà thơ. Hình ảnh khá dung tục này không biết để nói lên điều gì hay chỉ do Dương Tường muốn chơi nổi để tự quảng cáo. Lần thứ hai, ông xuất hiện trong một video clip khi ông lên đọc thơ Dương Cầm Lạnh có đàn dương cầm và ca sĩ Thùy Dung hát với dàn đồng ca áo trắng phụ họa. Đoạn phim rất thơ này, do Lê Thị Huệ gởi đến, đã gây xúc động khiến Nguyễn viết một bài thơ dài có tựa đề “Tuyết xuống nghe dương cầm lạnh…”

Tuyết xuống
nghe cầm dương. lạnh
hồn siêu thực
trăng
mái phố
như chim
ca nhân
và nến cháy. bập bùng
lặng nghe
“chờ em
đường cầm dương. mưa
những giọt lá. sầu
dạ khúc”*
(*thơ Dương Tường)

  Bây giờ, trở lại với hương cây và góc phồ hò hẹn. Hương cây, ở đâu vậy nhỉ? Là hàng sầu đông ở Vương phủ, cứ mỗi mùa ra hoa tím ngát hương? Hoặc giả đó là những cây bông sứ ở lăng Tự Đức hoặc trong sân một ngôi chùa gần đó. Ngày xưa em theo anh về thăm Huế đã từng chụp hình dưới bóng những cây bông sứ này. Cũng có thể là những cây ngọc lan trong những khu vườn ở đường Hiền Vương, đường Gia Long ngày trước hay vườn chùa Già Lam?
   Thật ra hương cây và góc phố hò hẹn vốn liên quan mặt thiết với nhau. Thanh Tâm Tuyền viết: Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu. Cũng là nơi một góc phồ hò hẹn nào đó thôi. Và sau đây là thơ Phan Vũ, Phú Quang phổ nhạc

Em ơi, Hà Nội phố
Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm

    Còn góc phố nào tên là hò hẹn? Em ơi, anh làm sao quên được góc đường Tự Do và Bonard, ở chỗ tiệm Givral ngày nọ. Thuở ấy, cách đây đã ngoài năm mươi năm, chiều thứ bảy, nghỉ dạy vừa từ Mỹ Tho về, anh thường tới ngồi uống bia dưới mái hiên nhà hàng Continental chờ em đi taxi từ phía Nhà Thờ Đức Bà tới. Rồi sau đó anh và em đi ăn và đi nghe nhạc phòng trà Tư Do hay Mỹ Phụng cho tới khuya. Ôi, ước chi bây giờ anh lại được về chờ em ở một nơi nào đó của Sài Gòn, dưới những hàng me xanh mướt hương mưa trên đường Tự Do, hay trên bến Bạch Đằng dọc theo hàng cây bông sứ, và em sẽ tới cùng anh. Hoặc giả ta trở về lại Đà Lạt với mùi thơm của rừng thông, ngồi ở quán L’eau Vive của các bà soeurs, có rượu đỏ và món nouilles sautées beurre với đùi gà rôti thơm lừng.
   Vừa rồi, Nguyễn có nói tới mùi thơm của rừng thông. Ôi, làm sao quên được. Vừa mới tối nay, Nguyễn tưởng chừng như được sống lại cái không khí thơm mùi phấn thông và nhựa thông của Đà Lạt khi xem cái video của Phạm Cao Hoàng gởi đến trong đó ghi lại cảnh những rừng thông trong nắng khi anh và chị Cúc Hoa về thăm lại Đà Lạt hồi tháng Giêng năm nào. Ôi, ước chi….
   Như trong bài thơ “Những bông khuynh diệp để lại trên đường Trương Định cũ” của Đỗ Trung Quân viết về nhà thơ/dịch giả Diễm Châu lúc sinh thời. 

một người đạp xe chậm như không muốn đi
luôn bỏ đầy những bông hoa khô trong túi áo
hồi ấy, tháng mười hai...
mùi hoa khô đốt bằng chiếc quẹt gas cũ
mùi thơm rất nhanh
mơ hồ như tiếng chuông nhà thờ phía Tân Định…

   Vâng, ước chi anh có thể làm như Diễm Châu, về ngồi trước sân ngôi nhà xưa số 3 Nguyễn Trường Tộ Đà Lạt, chiều nhặt những nhánh lá thông khô và trái thông rớt vãi, chất thành đống đốt lên, yên lặng ngửi mùi hương xưa. Và để nước mắt rơi…
   Vâng, ước chi hương cây và góc phố hò hẹn nói tới trong bài này, và ở nhiều nơi khác nữa, mãi mãi là của những người yêu nhau.
NXT



THƠ TRÀ BỤI


nguyễnxuânthiệp

Người bán trà rong. Tranh cổ Nhật Bản

Sáng nay, thức dậy không biết nhớ ai, trí óc như mù sương…
Bỗng vang lên đâu đó những câu thơ bụi ngày nào viết
trên vỉa hè đường phố Sài Gòn những năm sau 1982 đi tù CS
về. Cụ thể đó là thềm ga xe lửa Sài Gòn thuở xưa. Mời bạn
đọc để nhớ lại một thời nhé.

Nhìn lên
Chữ đề
Địa Ngục Môn
Cổng tam quan lừng hương trà mộc
Dưới hiên lửa đỏ
Xúm xít qua đêm. những hồn không nhà
Chăn. chiếu. bát. nồi. và trẻ nhỏ
Những mảnh đời húp cháo khuya
Tôi dừng lại. gác xe lên hè phố
Cô hàng ơi. cho một chén trà
Trong chất đắng. có chút gì lãng đãng
Mật của hoa. và hạt lệ đỏ pha
Cười nhé
Đời thổi bạt ta ra hè phố
Mỗi gốc cây là một mái nhà
Soi đáy chén ửng màu nâu sậm
Ánh trăng tan. giọt máu đời ta
Thuốc lào kéo. thấy sông trôi đầy gỗ
Cơn say. ô. một ngụm khói phà
Mắt mở nhắm. hình người lố nhố
Tiếng cười âm trong tiếng tiền rơi
Bụng đói. hiên khuya. trẻ khóc
Ôi chén trà, om bát mê hồng
….
NXT
(Trích Trà Ca. chưa xuất bản)

Friday, September 28, 2018

ĐẤT CÒN THƠM MÃI MÙI HƯƠNG


Thi phẩm Phạm Cao Hoàng



In lần thứ ba
bổ sung 9 bài mới
Thư Ấn Quán xb tháng 9-2018
In trên giấy quý đặc biệt (linen business paper)
Bìa: Đinh Cường
Phụ bản: Đinh Cường – Trương Vũ
Nguyễn Trọng Khôi – Đinh Trường Chinh
Tựa: Phạm Văn Nhàn
Bạt: Nguyễn Xuân Thiệp
Trình bày: Thiên Kim

Muốn có sách, liên lạc với
Mrs. CÚC HOA:
hoatruong206@yahoo.com

ĐỒNG HƯƠNG


Hồ Đình Nghiêm                                             

Tác phẩm của Kim Thúy

Một chiều hè chẳng oi bức vào năm 2011 xa xưa, tôi đi bộ dọc con phố chính của Montréal, đường Saint Catherine. Đợi đèn chuyển màu ở một ngã tư, tôi ngó thấy bìa một cuốn sách mỏng nằm khiêm nhượng, chẳng bắt mắt dựng đặt đằng sau cửa gương một hiệu sách. Đèn xanh, bộ hành lần lượt đặt chân xuống những vạch sơn trắng ám trên mặt lộ để tiếp tục sải bước nhàn du (không mục đích?). Riêng tôi, nhàn cư vi có việc, không toan tính, tôi đi lại mở cánh cửa để lách thân vào một không gian bao giờ cũng nhốt chật một bầu khí quyển thơm tho luôn thu hút, luôn gợi mời, luôn hấp dẫn. Và tôi đã mó tay tới “RU”. Chẳng tuân thủ chuyện nhập gia tuỳ tục, tên tác giả in đủ, không đành lòng đánh rơi dấu sắc. Kim Thuý hẳn hoi. Đích thị là người Việt. Mặc dầu trong trí tôi vừa mọc lên sự tiếc uổng về cách trình bày bìa. Quá khiêm nhượng, từ màu sắc cho đến tên tác giả. Chữ Kim Thuý (tên hay mà, hay hơn Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân) giá mà nó lấn “đất”, lớn bằng một phần mười cái tựa đề ấy thì đẹp biết bao. Nhà sách vắng người, không có cảnh sắp hàng, tôi đặt cuốn Ru lên quầy và việc mua bán diễn ra chẳng quá ba mươi giây, êm thắm. Bonjour. Merci. Bye.

Toàn bộ bề dày cuốn sách là 146 trang, được viết bằng Pháp văn, mặc dù vậy tác giả giữ nguyên động từ “Ru”, giữ thứ chữ “độc cô” Việt ngữ nầy làm nhan truyện. Dân nói tiếng Pháp thôi hiếu kỳ, họ sẽ được đả thông ở trang 7: Tiếng Việt nghĩa là “berceuse” hoặc “bercer”. Khi đó, tôi không khỏi nhớ tới cuốn truyện dài thành công của nhà văn Duyên Anh năm xưa: Điệu Ru Nước Mắt. “Ru” tôi đang nắm trong tay có chan nước mắt chăng? Không biết mình tiếp cận nó có dễ dàng? Bởi tác giả là người đồng hương tị nạn giống tôi mà lại viết bằng ngôn ngữ thứ hai, thứ tiếng mà người di dân đang cực lòng thích nghi, học hỏi, trau dồi lời ăn tiếng nói để mưu sinh. Không có một băng giấy nhỏ bao quanh in đôi dòng quảng cáo, chẳng có lời rào đầu của một nhà văn bản xứ giới thiệu như chúng ta thường thấy ở ngoại hình các cuốn sách khác. “Ru” trần trụi. “Ru” có vẻ lẻ loi. Thú thật, tôi mua “Ru” vì hai lẽ: Kim Thuý cũng vượt biển như tôi và Kim Thuý đang sống đâu đó ở Québec hoặc Montréal. Thấy gần gũi, nghe thân cận. Trước tiên là vậy. Và chỉ có bấy nhiêu. Mọi thứ khác hẳn hạ hồi phân giải.

Tác giả sinh ở Sài Gòn vào năm Mậu Thân 1968. Cùng gia đình vượt biển từ Rạch Giá năm 1978, có nghĩa là mang phận thuyền nhân khi lên 10 tuổi. Định cư ở Québec, kiếm sống bằng đủ nghề và tốt nghiệp về ngành Luật. Bản thảo “Ru” do một người bạn mang đi ký gửi ở những nhà xuất bản, để không lâu sau, năm 2009 cơ sở Libre Expression ở Québec chấp thuận và nhận in vào tháng 7 năm 2010.

Có thể xem RU là một tự truyện, liên khởi những hồi ức khi phải sống xa đất mẹ. Những manh động chằng chéo, một sợi chỉ đứt đoạn đang ra công ngồi nối lại độ dài nối kết từ Canada lần tới Việt Nam. Ngay dòng chữ khởi đầu, tác giả viết như một bản tự khai nhằm giới thiệu về mình. Ngày chào đời, bỏ xứ ra đi, nói tới những thành viên thân cận trong gia đình. Những khó khăn phút đầu hội nhập… Tất cả được viết bằng giọng văn trong sáng gần như đơn giản, mạch lạc nhờ vào một nhãn quan mang đầy tính hồn nhiên, cố giữ sự trung thực khi thuật chuyện, không trau chuốt. Không cường điệu, chẳng đẩy tình huống đi vào ngõ bí, không chú tâm làm cho căng thẳng hoặc rắc rối. Và như vậy “Ru” cách xa với thể loại hư cấu, hiện thực huyền ảo, không đào bới tới sự tưởng tượng phi hiện thực. Một người có cách thức kể chuyện hay mà lôi cuốn, người đó chẳng cần phải thêm mắm dặm muối. Kim Thuý chú trọng tới sự đơn sơ và cô thích chứng minh cho người xem: Một vẻ đẹp tự tại chả cần tới phấn son, cầu kỳ. Điều này, vô tình hoặc có chủ ý, trên suốt những trang chữ, thứ bi kịch của cái gọi là thảm trạng thuyền nhân, mặc cảm các thứ vẫn quá nhẹ so với những mưu cầu cốt hoàn thiện về một cuộc sống mới, gặt nhiều cơ hội khi được hoà mình vào trong xứ sở tự do.

Là một thuyền nhân vượt biển sau Kim Thuý hai năm, đã chất tuổi đời trên lưng nhiều gấp ba lần Kim Thuý, là một đứa tị nạn cộng sản không giỏi tiếng Pháp bằng cô, tôi đọc “Ru” mà mất đi khá nhiều lòng mong đợi, rằng lý ra tác giả phải làm đầy ắp cái “ba chìm bảy nổi” trong khi kể về cảnh ngộ một kẻ bị (hay được) khoác áo boat people. Và “Ru” trước tiên cũng như sau cùng, viết ra chỉ nhằm cho độc giả phương Tây đón đọc. Tôi tiếc uổng duy chỉ một điều: Kim Thuý là một thuyền nhân quá may mắn. Sau lưng Kim Thuý, cả một rừng người bất hạnh bị vùi thây dưới lòng biển cả, xiết bao đau thương hơn cả một “điệu ru nước mắt”. Được biết thêm, năm 1998 cô có trở về Việt Nam và làm việc trong bốn năm, ở Hà Nội.

Mấy hôm gần đây, tên Kim Thuý được cộng đồng người Việt xa xứ nhắc nhở trong hân hoan bởi tên cô lọt vào trong 4 ứng viên trên tổng số 47 người được đề cử cho “Giải Thưởng Mới Trong Văn Chương” (the New Prize In Literature). Giải này tạm thời thay thế cho Nobel văn chương 2018 do bởi đã có những vết nhơ, scandal liên quan tới ban giám khảo (lạm dụng tình dục và từng ăn hối lộ) - hàn lâm viện Thuỵ Điển vừa cho biết.

RU được dịch sang 27 thứ tiếng khác biệt. 27 quốc gia “cha căng chú kiết” có quyền đọc “Ru” nhưng tiếng Việt, quê hương tác giả, thì hổng có. Giải thích điều này, Kim Thuý nói: “Có lẽ vì tôi viết về đề tài vượt biển? Một chuyện “khó nói” ở trong nước”.

Trả lời báo National Post, tác giả “Ru” tâm sự: “Viết văn chỉ là một sự tình cờ. Tôi không chọn văn chương mà văn chương đã tự tìm đến tôi”. Bà cũng thẳng thắn: “Tôi không hy vọng thắng giải, vì đứng bên tôi có Neil Gaiman người Anh cũng như Haruki Murakami của Nhật, những nhà văn dày dặn kinh nghiệm trong khi tôi chỉ mới khởi đầu cuộc hành trình của mình”.

Kim Thuý có nhắc tới Haruki Murakami (nhà văn tôi yêu thích) làm nhớ lại một tác phẩm mới của ông nhà văn Nhật này. Tác phẩm Kishidancho Goroshi, được chuyển dịch thành Killing Commendatore. Cuốn tiểu thuyết bị xếp vào hạng 18+ khi vào thị trường Hong Kong vì những đoạn văn mô tả về tình dục quá sức bạo liệt, bị xem là ấn phẩm thô tục. Sách được bọc giấy kiếng ở hiệu sách, nếu muốn mượn ở thư viện người xem phải trình thẻ căn cước chứng minh trên 18 tuổi. Tuy nhiên, khi sách sang tới Trung quốc thì tình cảnh lại khác hẳn, chỉ trong những ngày đầu (từ 10/3/2018) cuốn sách “đồi truỵ” ấy được bán đi trên 700.000 cuốn. Ở Thượng Hải, một cửa hiệu sách giới thiệu tác phẩm đó đã có hơn 2.000 người sắp hàng vào mua, sẵn dịp để xin chữ ký của dịch giả. “Văn chương phải mở ra được những chân trời khác với cuộc đời nhàm chán này. Tôi không nghĩ là Haruki Murakami bị sa lầy, người đọc đã vô tình quên đi khía cạnh thơ mộng luôn tải đầy trong văn của ông ta”. Một độc giả đứng sắp hàng đã phát biểu cảm tưởng như trên.

Vậy thì, sự thưởng văn vốn là thứ bất khả tư nghì. Người khen kẻ chê, chuyện ấy xưa nay vẫn diễn ra, như kiểu vào nhà hàng ăn có người xuýt xoa hít hà lại có đứa ơ hờ tuồng không hợp khẩu vị. Mới hôm qua, trời chuyển sang Thu, tôi lại buồn chân “bát phố”. Đi ngang qua cửa hiệu sách ngày nào vớ được cuốn “Ru”, giờ phát hiện một đổi thay: Nhà sách vẫn còn đó nhưng hiện tại nó bị xắn làm đôi, thu bé lại; nửa kia đèn đuốc sáng loà chuyên trị nữ trang, hột xoàn, đồng hồ đắc tiền cỡ Rolex của cựu hoàng Bảo Đại và bút máy bơm mực giá tối thiểu 1.500 gia kim một cây. Đã bị lấn đất dành dân, giang sơn đã cắt làm đôi vậy mà nhìn vào cửa hiệu sách thì chỉ loe ngoe đôi ba mạng chắp tay lỗ đít đi thơ thẩn mặt mày coi bộ không ham đọc sách in trên giấy. Thời buổi lạ kỳ! Sách vở và vòng vàng kim cương, chúng nằm sánh đôi và xem chừng chúng không hề là thứ nằm trong ý nghĩ của nhà văn Trung quốc Mạc Ngôn khi viết nên tác phẩm nổi tiếng: “Báu Vật Của Đời”.

Tôi mang cùng ý nghĩ với Kim Thuý: “Không hy vọng được lãnh giải…”. Một nhà văn chân chính, thường họ chẳng màng tới sự vinh quang kia. Haruki Murakami là một bằng chứng, lần nào người ta cũng xướng tên ông lên, những là ứng cử viên sáng giá, để rồi sau đó chả ai thèm nhắc tới. Ông ấy vẫn chăm viết, vẫn chẳng lấy đó làm điều và đọc giả trung thành của ông thì nhiều biết cơ man nào mà đếm xuể. (Hàn lâm viện Thuỵ Điển sẽ công bố người thắng giải văn chương vào ngày 14 tháng 10. Nhận được hiện kim tương đương 112.000 USD rồi cùng nhau tham dự một bữa tiệc thịnh soạn thuần về ẩm thực).

Là người Việt, tôi xin được chia vui cùng tác giả Kim Thuý. Khi thế giới đề cử bà là một trong 4 thành viên có cơ may đoạt giải, chỉ chừng ấy thôi là đã đủ hãnh diện rồi. Đã mát dạ mát gan rồi, đã đủ sức “ru” cộng đồng người Việt lưu vong đi vào một giấc mộng êm đềm, dù nhỡ hạ hồi câu chuyện không dẫn tới happy ending. “Ru em cho thét cho muồi, để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu…” Tôi ăn không được lá trầu có têm vôi bên trong, nghĩ là nó cay đắng vô cùng. Trầu cau cũng có sự tích chua chát đầy bi kịch của nó, mà tôi, tôi nào được tích sự gì đâu! Hồi nào “Ru” được nhà nước cởi mở thông thoáng cho in ấn bản tiếng Việt, lúc ấy tôi xin được cà kê dê ngỗng dài lời hơn. Trong khi chờ đợi, dù không ai ru, tôi cũng trùm chăn đi thét đây.

HỒ ĐÌNH NGHIÊM
26/9/2018.