Sunday, May 31, 2020

SÀI GÒN, NHỚ...

Tạp văn Lê Ký Thương

Sài Gòn xưa

Đó là mùa hè năm 1965, năm có nhiều biến động thời cuộc nhất ở miền Nam Việt Nam. Hắn, lần đầu tiên từ quê nhà Nha Trang cùng đoàn Thanh niên – sinh viên – học sinh tình nguyện, bay vô Sài Gòn được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông, tham dự Trại hè TN-SV-HS toàn quốc, được tổ chức tại Khu Phượng Hoàng, Lái Thiêu, mục đích xây dựng nhà tạm – vách đất, mái lợp lá dừa nước cho đồng bào nghèo không nhà không cửa vì chiến tranh.

Nghe nói Khu Phượng Hoàng do không ảnh chụp giống hình chim phượng hoàng đang sãi cánh bay, do bà Ngô Đình Nhu làm chủ. Sau khi “phượng hoàng gãy cánh” năm 1963, bà Nhu sống lưu vong, chính quyền sở tại quản lý, coi như đất công.

Ngỡ ngàng với đất Phương Nam sáng nắng chiều mưa như bài địa lý thời tiểu học, bất ngờ trước câu thơ tình lãng mạn của Nguyên Sa nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông; những cô gái Sài Gòn mặc áo dài quần lụa trắng, đạp xe đạp dàn đầm đi trên những con đường rợp bóng me xanh – quá thơ mộng, hay lâu lâu bắt gặp vài cô mặc quần ống túm chạy vélo-solex – căng tròn sức sống.

Chỉ có một buổi ban đầu ngắn ngủi thôi mà Sài Gòn quyến rũ hắn đến thế! Rồi hắn từ giã Sài Gòn để về Lái Thiêu dự Trại. Nhưng rất may, cơ duyên đến với hắn, hắn được sắp xếp vào Ban Báo chí của Trại cùng với một nhà thơ Sương Biên Thùy – tác giả tập thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu, và một cô thư ký.

Buổi sáng, hắn cùng anh bạn nhà thơ có nhiệm vụ lấy tin sinh hoạt của các đội về viết, xong tin nào chuyển ngay cho cô thư ký đánh máy lên stencil. Đúng 6 giờ chiều, sau khi cơm nước, xe đưa chỉ một mình hắn về trụ sở nằm trên đường Phùng Khắc Khoan, Sài Gòn; ở đó có một anh sinh viên phụ trách in bản tin, còn hắn chỉ phụ tá xếp đóng 100 bản để sáng sớm hôm sau chở lên Lái Thiêu phát hành. Khâu in, xếp đóng có khi đến hai ba giờ sáng mới xong! Công việc cứ quay đều như vậy trong nửa tháng thì bế mạc trại. Vài hôm trước khi bế mạc Trại, hắn nhìn thấy cái máy quay ronéo chạy điện và tiếng máy quay đều đều khiến hắn khiếp sợ không dám đến gần! Bù lại, hắn được làm công việc hắn yêu thích.

Trước khi về Nha Trang, hắn được rong chơi vài hôm trên các đường phố chính ở Sài Gòn, nhất là đường Lê Lợi có nhà sách Khai Trí lớn nhất Sài Gòn và nổi tiếng cả miền Nam, nơi mà hắn hằng ao ước được đặt chân đến. Ngoài nhà sách Khai Trí còn có nhà sách Tự Lực, Ngàn Thông… Phía bên kia đường, đối diện với nhà sách Khai Trí có những cửa hàng và kiốt sách cũ. Hắn bị hớp hồn giữa một rừng sách mới và cũ – kho tri thức của nhân loại, nhưng hắn chỉ dám lướt nhìn tên sách. Thèm lắm, mà không có tiền mua! Hắn chỉ đủ tiền mua một tập truyện ngắn của một nữ tác giả thời danh mà hắn thích, để kỷ niệm lần đầu đặt chân lên đất Sài Gòn. 

Từ đó về sau, hắn có dịp về Sài Gòn nhiều lần, nhưng không được ở lâu.

Đến giữa năm 1970, hắn nộp đơn cầu âu xin đi học một khóa truyền thông ở Mỹ. Không ngờ đầu năm 1971, đơn vị chủ quản gọi về Sài Gòn học bổ túc Anh ngữ ở Trường Sinh ngữ Quân đội. Đây là một dịp may hiếm có. Hắn nghĩ ở Sài Gòn chuyện học hành là chuyện phụ, chuyện chính là trực tiếp giúp Nguyên Minh làm tạp chí Ý Thức. Được làm báo là điều hắn mơ ước từ lâu.

Trước ngày hắn vô Sài Gòn, tạp chí Ý Thức in ở nhà in Đăng Quang, đối diện với rạp hát Long Vân, trên đường Phan Thanh Giản. Lúc bấy giờ nhà in Thanh Bình mà chủ nhân là chị Mai, chị đầu của Nguyên Minh, ở 666 Phan Thanh Giản xây chưa xong. Cũng xin nói thêm rằng lúc hắn còn ở Phan Rang, hắn trọ ở nhà Nguyên Minh và gia đình coi hắn như một thành viên.

Lúc hắn vào Sài Gòn để học bổ túc Anh ngữ thì nhà in Thanh Bình đã thành lập và hắn được chị Mai coi như em, phụ giúp Nguyên Minh quản lý nhà in. Từ thời điểm này, tạp chí Ý Thức in tại “nhà in nhà”.

Mỗi tuần hắn học sáu buổi chiều, từ 13 giờ đến 18 giờ. Giờ đầu là vào phòng lab nghe băng. Với hắn, giờ này là giờ ngủ ngon nhất, con ma ngủ đến lúc nào không hề hay biết! Mỗi lớp chỉ có hai chục học viên, nên thầy giáo người Mỹ dễ kiểm soát. Mỗi lần bắt gặp ai úp mặt xuống bàn ngủ thì thầy đến lay nhẹ một cách lịch sự.  Hắn học bao nhiêu thì trả cho thầy ngay tại lớp bấy nhiêu, về nhà hắn không hề động đến sách vở của trường, chỉ dồn thời gian vào việc làm báo. Có đôi lần hắn suýt trễ học, nếu không gặp được “quới nhơn” là ông thiếu tá đồng môn nhưng khác lớp cho đi nhờ Cub 69, những lần khác từ nhà đến trường mất 45 phút xe lam, còn taxi thì phải chờ đỏ mắt mới đón được, một phần vì giữa trưa giờ ngọ. 

Ở tòa soạn tạp chí Ý Thức trước đó có nhà thơ TNS phụ tá cho Nguyên Minh một giai đoạn ngắn, rồi TNS bỏ việc đột ngột, hắn thế chỗ của TNS. Hắn cùng NM làm tất cả mọi khâu công việc từ “bếp núc” cho tới khi hình thành một số báo rồi chở đi gởi chành để phát hành về các tỉnh bằng chiếc Suzuki cà tàng của Nguyên Minh mang từ Phan Rang vô.  Chiếc xe này, một lần hắn chạy công việc về gần tới tòa soạn thì bị cảnh sát “vịn”, hỏi bảng số xe. Nhìn xuống, bảng số rớt mất từ bao giờ! Bèn để lại xe về hỏi Nguyên Minh, Nguyên Minh cho biết hôm trước chở báo đi phát hành, gặp ổ gà rớt mất, lỡ trớn chạy luôn, không thèm quay xe lại lượm. Thôi, bỏ “nó” đi! Nghe Nguyên Minh phán một câu dứt khoát – tính anh ta là vậy, bèn nhẹ lòng.

Gần nhà in Thanh Bình có một con đường ngắn, rẽ qua thì gặp đường Trần Quốc Toản. Buổi tối, khi rảnh rỗi, hắn và Nguyên Minh tới một quán quen nằm trên đường này “làm vài ve” Con Cọp và đổi giấy lau chén đũa – cắt từ rẻo giấy in báo – để lấy một dĩa đầu vịt nhâm nhi. Sáng chủ nhựt thì đón taxi ra phố Lê Lợi, uống cà-phê ở Brodard hay La Pagode, thỉnh thoảng kéo ghế ở nhà hàng Thanh Bạch, rồi đi lên đi xuống đi qua đi lại, (may mà không có em), tha hồ “nghía” nam thanh nữ tú dạo phố, rồi tạt vô dãy kiốt sách cũ san sát nhau bán đủ loại sách Ta–Tây-Tàu để mua một hai quyển mình thích. Cả Sài Gòn, chiều thứ Bảy và trọn ngày Chủ nhựt, chỉ có phố Lê Lợi là nơi phồn hoa đô hội. Tân binh ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, sinh viên sĩ quan Trường Bộ binh Thủ Đức, rồi những người lính từ mặt trận nghỉ phép về, những khách vãng lai, hòa cùng dân Sài Gòn tạo cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” – một bức tranh hoàn hảo tiêu biểu cho một Sài Gòn năng động, nhộn nhịp mặc dầu trong thời chiến.

Giai đoạn làm tạp chí Ý Thức cũng lắm kỷ niệm không thể nào quên…

Nhà thơ-nhà giáo Hạc Thành Hoa dạy học ở Sa Đéc, thấp người lại ốm tong teo, cứ cách sáu tháng lại lên Sài Gòn tái khám định kỳ để được đổi giấy miễn dịch (miễn đi lính). Mỗi lần như vậy, anh nghỉ lại tòa soạn ba bốn bữa, nhịn ăn hoàn toàn, chỉ uống nước cầm hơi, với mục đích để giảm cân theo tiêu chuẩn miễn dịch ấn định!

Năm 1970, nhà văn Trần Hoài Thư từ chiến trường Buôn Ma Thuộc bất ngờ xuất hiện tại tòa soạn vào một sáng đẹp trời, tuyên bố hùng hồn rằng được đơn vị cho nghỉ phép về Sài Gòn cưới vợ! Bạn bè hết sức ngạc nhiên. Mới cách đó không lâu, anh về Cần Thơ để gặp người yêu, lên lại Sài Gòn gặp bạn bè với vẻ mặt buồn thỉu buồn thiu dưới cặp kính cận nặng. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra cho “cuộc tình văn chương” của anh rồi nên không hỏi tới. Đùng một cái, về lần này anh tuyên bố cưới vợ, và người vợ tương lai của anh không ai khác ngoài người mê văn Trần Hoài Thư ở Cần Thơ. Anh nhờ bạn bè Ý Thức tổ chức đám cưới cho anh. Nguyên Minh bèn nhờ chị Mai, chủ nhân nhà in Thanh Bình, làm đại diện họ nhà trai. Đến ngày cưới, họ nhà trai gồm chị Mai, chị Minh Quân (nhà văn), Đỗ Nghê (tức bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – nhà thơ), Nguyên Minh và hắn… xuất phát từ nhà in Thanh Bình và cũng là tòa soạn Ý Thức đến một khách sạn gần đó đón cô dâu cùng thân nhân nhà gái từ Cần Thơ lên, rồi họ nhà trai và nhà gái cùng đến một nhà hàng dự tiệc thân mật để hai họ làm quen. Giống như nhiều đám cưới thời chiến…

Trước khi hắn nhận visa du học ngắn hạn ở Mỹ, Linh mục Nguyễn Ngọc Lan – tục gọi Cha Lan – một cây bút chủ lực của tạp chí Đối Diện giới thiệu cho hắn gặp nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, nổi tiếng với ca khúc Trường làng tôiMùa thu không trở lại.

Thời gian này (12-1971) Phạm Trọng Cầu đang “bí mật” thành lập ban tứ ca gồm các ca sĩ Mai Hương, Kim Tước, Bùi Thiện và Đoàn Chính. Đúng hẹn, hắn cùng cô sinh viên ngành báo chí đang thực tập tại tòa soạn Ý Thức đến tư gia của NS Phạm Trọng Cầu cũng nằm trên đường Phan Thanh Giản. Phạm Trọng Cầu tự xưng mình là “Người Việt gốc Voi” vì vóc dáng to cao, tuy bị mất một chân trong thời kỳ chống Pháp, nhưng trông rất “nghệ sĩ” nhờ hàm râu quai nón. Anh rất hiếu khách, dễ gần, nói với người nhà pha cà-phê mời chúng tôi. Rồi Bùi Thiện đến, người kế tiếp là Đoàn Chính. Tất cả chúng tôi ngồi bên chiếc bàn tròn mà anh gọi đùa chúng mình đang tham dự hội nghị bàn tròn. Anh mở băng nhựa cho chúng tôi nghe bản demo của bốn danh ca trình diễn và hàn huyên tâm sự. Anh cho biết chưa hài lòng về bản demo này, phải thực hiện lại. Đến hơn 10 giờ đêm, khi nghe tiếng chuông reo ngoài cổng, anh vội chống gậy ra mở như đã hẹn trước với ai đó. Chúng tôi cũng chào từ giã và theo anh ra cổng. Thì ra, anh sinh viên khiếm thị ở Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn đến chào từ biệt thầy để mai lên đường sang Pháp du học tại Nhạc viện Paris, nơi mà thầy mình đã từng học.

Trên đường về, hắn mang theo dư âm giọng hát ngọt ngào sang trọng của ca sĩ Kim Tước: Em nghe chăng mùa thu, mùa thu không trở lại…
SG, Thu 2015
LKT

*Nguồn: Văn Chương Việt

BÓNG EM HOANG TÍM DẠI SẦU

Huỳnh Liễu Ngạn

Thiếu nữ bên sông. Tranh Đinh Cường

em như chim sãi cành đông
ngõ sau vườn trước mặn nồng về đâu
trăng lên thì gió bạc màu
bóng em hoang tím dại sầu vương mang
em như ải ngạn hương ngàn
em như đầu ngọn sóng tràn vu vơ
sông sâu về mẹ dại khờ
bóng trăng chẻ sợi tóc hờ hững vai
em còn bóng nước sương mai
ngõ hồn anh lẻ một vài mây bay
để cho em được tròn đầy
đầu sông ngọn suối bờ cây trổ cành
chần chừ thả tóc vai anh
cho mây tụ dưới mong manh sắc trời
qua đêm trường mộng rã rời
lẻ loi anh kể chuyện đời xưa sau
em về góp hết thương đau
cho anh thấy lại ngàn lau bọt bờ.
23/2/2020

HUỲNH LIỄU NGẠN


Monday, May 25, 2020

PHẠM THIÊN THƯ. CÓ NGẦN ẤY THÔI


Nguyễn Đức Tùng

Nhà thơ Phạm Thiên Thư

*gởi Hoàng Thị Hạnh

Thơ Phạm Thiên Thư là thơ để ngâm, để hát, là chanson poétique.
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng

Đúng ra, thơ ông có điệu nói lẫn điệu hát. Là tu sĩ Phật giáo nhưng vẫn nhắc đến Chúa: đó là tinh thần tự do của Phạm Thiên Thư. Nhiều người cho rằng thơ ông được phổ biến là nhờ ca khúc do Phạm Duy phổ nhạc, hoặc vì ông là thi sĩ kiêm thiền sư, những cái ấy đều có thể đúng cả, nhưng thơ không hay thì không ai nhớ. Vậy phải có mấy thứ cùng lúc: văn hóa và văn bản. Nhà phê bình Đặng Tiến có một nhận xét thú vị rằng câu “rằng xưa có gã từ quan” là câu thơ được nhớ nhiều nhất. Điều đó quả nhiên đúng, nhưng tôi nghĩ có lẽ vì nó được phổ nhạc, và là câu mở đầu của bài hát. Nếu Phạm Duy chọn câu khác, ví dụ câu thứ nhất của Động hoa vàng “Mười con nhạn trắng về tha”, thì biết đâu câu ấy lại nổi tiếng hơn?

Bạn nói vậy hoá ra câu “rằng xưa” ấy không có giá trị gì? Cũng không phải thế. Đó là câu nghe qua cũng tầm thường, nhưng với lối nói lửng lơ, nhiều hư từ, của người Việt, nó lại gợi ra nhiều thứ. Nó mở ra, mông lung. Bùi Giáng có nhiều câu như vậy. Một chữ thành công phải đúng thời điểm, mở đúng cánh cửa. Mà một cánh cửa chỉ có một người mở. Nhưng trước hết nó phải kết tụ tiếng nói của dân tộc, như một thứ “tổng kết thời đại.” Ở miền Nam ai không thấy cảnh nữ sinh áo dài tha thướt ùa ra cổng giờ tan trường, nhưng phải đến Phạm Thiên Thư, thơ mới bật ra bốn chữ:
Em tan trường về
Cũng một trường hợp khác, ví dụ, Nguyễn Tất Nhiên, với:
Có còn hơn không
Mà ông thường có những câu những chữ như thế. Đây là một ví dụ khác:
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Nhiều hư từ. Nhưng trong lần đọc đầu tiên, tôi nhớ liền. Những chữ như thế xưa nay vẫn dùng, nhưng khi kết hợp lại, chúng trở nên mới.
Có ngần ấy thôi
Tất nhiên là từ câu Kiều:
Ái ân ta có ngần này mà thôi
Nhưng tám chữ ấy tuy hay thì hay thật, Nguyễn Du mà không hay?, lại rõ ràng, cay đắng quá. Cắt ra bốn chữ: thành mơ hồ. Cái gì ngắn cũng mơ hồ. Chỉ có một chữ thần tình phải giữ lại, chữ ngần. Chữ ấy được ông dùng tới vài lần nữa. Phạm Thiên Thư láy ca dao:
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
Động tác leo trèo là quan trọng nhất, trèo lên cây bưởi hái hoa, chứ không phải chữ, vậy nên thi sĩ đổi phắt chữ trèo trong ca dao thành leo, miễn nó hợp vần. Một câu thơ hay không bao giờ để chúng ta yên. Nó đánh thức người ta như tiếng chuông. Đang ngủ, nó dựng bạn dậy. Ủa, tiếng chuông văng vẳng đâu vậy kìa?
Ngày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ
Có bạn còn tưởng mình đang ở Tô Châu, gần chùa Hàn San.
Thì ra sự nối kết của loài người lớn hơn nỗi cô đơn của họ.
Tôi cần nhấn mạnh rằng mặc dù tạo ra chữ mới hay tập hợp các chữ mới là một đóng góp của Phạm Thiên Thư, chính khuynh hướng thẩm mỹ của ông, tư duy nghệ thuật của ông, phù hợp với thời đại của mình, mới là nguyên nhân làm cho thơ ông có giá trị lâu dài. Ngay những bài thơ đầy hoài niệm cũng biết lay gọi, đặt câu hỏi. Những câu hỏi kín đáo, xa vời, nhưng ám ảnh. Bài thơ đầu tiên của Phạm Thiên Thư là bài tôi vừa nhắc, Vết chim bay:

Ngày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ
Con chim nào qua đó
Còn để dấu chân in

Anh một mình gọi nhỏ
Chim ơi biết đâu tìm

Mười năm anh qua đó
Còn vẫn dấu chân chim
Anh một mình gọi nhỏ
Em ơi biết đâu tìm

Ngày xưa anh đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ anh qua đó
Còn thấy chữ trong chuông

Anh khoác áo nâu sồng
Em chân trời biền biệt
Tên ai còn tha thiết
Trong tiếng chuông chiều đưa

Ngày xưa em qua đây
Cho tình anh chớm nở
Như chân chim muôn thuở
In mãi bậc thềm rêu

Cõi người có bao nhiêu
Mà tình sầu vô lượng
Còn chi trong giả tướng
Hay một vết chim bay!

Nhịp năm chữ. Bài này được Cung Tiến phổ nhạc, hình như trước Phạm Duy với Ngày xưa Hoàng thị, nhịp bốn chữ. Nếu là bài thơ đầu tiên thì cũng hợp lý, vì ngôn ngữ mộc mạc, không tài hoa như bài kia. Tuy vậy đã lộ ra phong cách riêng trong những câu như:
Cõi người có bao nhiêu
Mà tình sầu vô lượng
Những chữ như “vô lượng” hay “giả tướng” của nhà Phật lần đầu được đưa vào thơ, mà đưa tài tình. Nghệ thuật của Phạm Thiên Thư nhấn mạnh ở sự lặp lại. Âm nhạc là lặp lại, hay trùng điệp. Trong một bài thơ ngắn, chữ chim xuất hiện năm lần, chữ chuông bốn lần. Trùng điệp (repetition) là thứ dễ nhất mà cũng khó nhất trong nghệ thuật tu từ. Bên cạnh chữ và nhạc điệu, thơ Phạm Thiên Thư có hình ảnh đẹp, nhưng mang tính tượng trưng. Chẳng hạn, hoa trong thơ ông, hoa đào, hoa lan, hoa vàng, cũng nhiều như hoa trong Thơ mới, trong thơ Chế Lan Viên sau này, nhưng chúng hiện hữu như biểu tượng: nhà thơ không mô tả một bông hoa cụ thể; không cảm xúc vì một cái bông riêng biệt nào; chúng xuất hiện như cái phông (background) hay như một đại diện, gây ra các liên kết. Con người khác nhau, cô đơn, nhưng đó chỉ là những quan sát bề mặt, vì từ trong sâu xa họ chỉ là một.
Lần lưng còn một hạt đào
Quyết đem hạt nọ ương vào vườn kia.
Nguyện sau cây lớn xum xuê
Bên đường cho khách đi về nghỉ ngơi.
Nguyện xin trái thẫm hoa tươi
Lợi riêng nhưng để người người hưởng chung.
Bốn câu trên là thơ, hai câu dưới là kệ. Nhờ liên kết trong không gian mà chúng ta có thế giới, nhờ liên kết trong thời gian mà chúng ta có lịch sử. Mối quan hệ giữa tính nghệ thuật và tính thông điệp không phải dễ giải quyết. Trước hết bài thơ phải được bạn yêu mến, sau đó nó mới có thể làm bạn thay đổi. Thơ lục bát là loại thơ có hệ toạ độ, người đọc có thể đóng vai người viết và ngược lại: không có sự khác biệt lắm giữa sáng tạo và thưởng thức. Trong nghi lễ và phong tục, con người trở lại với nhạc điệu, vì vậy mà có hai chữ thơ ca, làm sống lại tình yêu đối với cuộc sống. Thơ Phạm Thiên Thư, cũng như nhiều nhà thơ ở miền Nam thời ấy, sử dụng nhiều thơ có vần. Thực ra, về hình thức, như thế là cũ. Chim chóc, suối, hoa, rừng, cũng là những hình ảnh không có gì mới, nhiều thi nhân đã nói, nhưng đến Phạm Thiên Thư chúng trở thành thiêng liêng.
Lớn lên giữa núi xanh rì
Cỏ hoa như thể tứ chi cận kề
Chữ tứ chi cũng là thần tình. Ẩn dụ là liên kết hình ảnh có tính linh cảm giữa hai sự vật, là hoạt động vô thức, bạn không biết tại sao, có những mạch ngầm bên dưới không hiểu được, những mạch ngầm ấy được chia sẻ bởi nhiều người. Phép ẩn dụ vừa cần mới lạ, gây ngạc nhiên, nhưng cũng phải chừng mực, dễ hiểu. Không những “động hoa vàng” là câu chuyện về “gã” bỏ quan trường về, mà còn là hình ảnh của con người bơ vơ đi tìm nguồn cội. Ẩn dụ của Phạm Thiên Thư lớn, đẹp, hòa hợp với tâm thức người Việt, trong một xã hội loạn lạc.

Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn
Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu
Tiếng nàng hát vọng đôi câu
Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ
Lều tranh còn ủ chăn mơ
Mối tình là một bài thơ vô đề
Ẩn Lan ơi! Mái tóc thề
Gió Xuân nay có vỗ về suối hương
Đêm nao ngồi học bên tường
Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm
(Đoạn trường vô thanh)

Thơ tình không tạo ra niềm hy vọng giả dối nào: chúng đều buồn. Vì hầu hết tình yêu sẽ thất bại. Con người chấp nhận thất bại trước số phận nhưng không bỏ cuộc, mà suốt đời săn đuổi ý nghĩa của tồn tại, ý nghĩa của tình yêu, của đau khổ. Một chủ đề thường xuyên của Phạm Thiên Thư là mối quan hệ giữa tình yêu và cái chết, cuộc sống và sự lụi tàn. Xoay quanh chủ đề ấy, phong cách nghệ thuật của ông ngày càng rõ nét.

Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ôi mối tình đầu

Như đi trên cát
Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhòa mau
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?

Bài thơ nói về sự vô vọng, sự trống rỗng, cuộc trò chuyện giả tưởng giữa hai người. Thực ra chưa phải là tình yêu mà là ước muốn, theo đuổi, tìm kiếm, chia ly, sự im vắng của kỷ niệm được ngôn ngữ bắt giữ, trở thành một thế giới không thể hiểu được, trở thành lời thì thầm độc thoại. Đôi khi bài thơ tựa như cách diễn tả những cảm xúc khác nhau, thăm dò những tình huống trái ngược, nhờ vậy tạo ra đáp ứng ở người đọc. Chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn là khuynh hướng lớn của thơ miền Nam thời kỳ Phạm Thiên Thư, bên cạnh khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng hiện sinh. Trong khi ở ngoài Bắc cùng thời nó đã bị thay thế bởi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì trong Nam sau một thời gian lùi bước, có sự quay trở lại của phong cách lãng mạn, mà Phạm Thiên Thư là tiêu biểu. Nhưng đó là một chủ nghĩa lãng mạn mới, hiện đại hơn; và tình yêu trong thơ Phạm Thiên Thư cũng pha màu siêu thực, là những thử nghiệm: tình yêu tuổi học trò ở một người đã qua giai đoạn ấy, tình yêu trần tục ở một thiền sư, tình yêu của cổ nhân trong con người hiện đại. Đó là tình trạng hưng cảm kèm với lo âu, lo âu về bản thân mình và về đối tượng hướng tới, bề ngoài gần gũi với thiền, mà bên trong là sự lo lắng. Thực ra:
anh trao vội vàng
chùm hoa mới nở
là những câu phi thời gian. Không còn cũ hay mới. Cũng như:
nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu
(Vũ Đình Liên)
Nhiều nhà thơ đương đại tránh xa xúc cảm. Kể ra cũng phải, thế giới ngày nay đòi hỏi một cách biểu hiện khác cho những tình cảm mới, giữa những người sống không quá khứ, không lý tưởng, quay đảo trong cơn lốc của chủ nghĩa tiêu thụ, ngày càng xa nguồn cội. Trong hoàn cảnh ấy, Phạm Thiên Thư là người đại diện cuối cùng của một không khí tiền chiến kéo dài. Kỳ lạ thay, ngay trong chiến tranh, cận kề cái chết, con người có thể sống đẹp như huyễn mộng. Có một cố gắng phối hợp giữa các ý tưởng luân lý hay triết học và sự giản dị có tính thơ ca, nhưng không phải khi nào Phạm Thiên Thư cũng thành công và đạt đến sự hài hòa.
Con ơi con ngủ cho lành
Chắt chiu nguyện ước gửi vành trăng non
Mẹ nghèo còn tấm lòng son
Giờ gieo câu đố, con tròn mộng sau
Thẳng gì hơn những thân cau
Mềm gì hơn những dây trầu leo quanh
(2009)
Tuy vậy, mười bài Đạo ca của ông là một thành tựu xuất sắc, được Phạm Duy phổ nhạc, và nghe nói Thái Thanh thích hát nhất.
Xưa em là kiếp chim
Chết mục trên đường nhỏ
Anh làm cội băng mai
Để tang em, chờ mấy thuở

Xưa em là chữ biếc
Nằm giữa lòng cuốn kinh
Anh là thiền sư buồn
Ngồi tụng dưới ánh trăng
Tình cảm tác giả chất phác, mà ngôn ngữ thì không.
Cái chết không chỉ là sự chấm dứt đời sống mà còn là khởi đầu của một loại thời gian khác. Chúng ta đến đó, gần bờ vực, biết rằng bên kia mọi việc đã thay đổi, có người than khóc, có người kể chuyện, hát những bài hát. Bài Em đi lễ chùa của Phạm Thiên Thư là một trong những bài thơ đặc sắc nói về cái chết. Hình như người kể là một tu sĩ trẻ, và nhân vật nữ là có thật. Nó nhắc tôi nhớ đến bài của Huyền Kiêu:
Hạ đỏ có chàng tới hỏi
Em thơ chị đẹp em đâu
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Tất cả sức nặng của tình yêu, chiều sâu của cái đẹp, sự tiếc nuối, lòng thương xót, quyện vào nhau. Bài thơ là lời ai điếu cho người ra đi, nhưng cũng là tiếng cầu kinh, giúp một linh hồn sớm về cõi khác. Về đâu?
Sao ta biền biệt chưa về
Lưng đồi sim tím bốn bề chim ca
Joseph Huỳnh Văn viết trong tập Động hoa vàng: “tìm về cái muôn thuở – muôn nơi cũng có nghĩa là không về đâu cả, nên trong thơ, người thi sĩ biết rõ điều nghịch lý đó, hiểu rằng chỉ còn có cách về, chỉ còn có những lời đẹp cho giấc mộng không bến bờ. Những chữ tìm tới giấc mộng không bến bờ không ràng buộc thường có vẻ đẹp hững hờ đạm bạc.” Thơ Phạm Thiên Thư thực ra có nhiều chữ và cách nói cũ, sáo, chứa một thứ triết lý đạo Phật bình dân; mà ông cũng không cố tỏ ra là bậc chân tu biết nhiều hiểu rộng. Sự việc một thiền sư làm thơ tình và thơ hay đã gây dư luận sôi nổi một thời. Sau Phạm Thiên Thư, hiện tượng ấy không lặp lại. Thơ ông là một thứ thơ thiền nổi loạn. Câu mở đầu của tập Động hoa vàng trong đoạn đánh số một:
Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thường tụ trên tà áo xuân
Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
Thơ thiền mà tình tứ, không những tình tứ mà nhục thể, gợi tình, táo bạo. Độc giả lúc nào cũng thích ăn trái cấm. Nguyễn Du từng dạy: tu là cội phúc, tình là dây oan, nhưng vị thiền sư này làm ngược lại, ông kết hợp hai thứ. Ông nổi tiếng một phần vì vậy. Nhưng ta cần nhớ rằng những tài năng thực sự cao hơn dư luận. Trong khi tác giả nói về tình yêu thì cũng nói về tính nguyên thủy của tạo vật.
Đoạn trường
Sổ gói tên hoa
Xưa là giọt lệ nay là hạt châu
Đây là Đoạn trường vô thanh, ra đời năm 1972, được tặng giải thưởng văn chương toàn quốc 1973. Tác giả viết tiếp Đoạn trường tân thanh, như một tri âm của Nguyễn Du đến sau mấy trăm năm. Mê Kiều đến thế là cùng. Năm 1992, Phạm Thiên Thư viết: “Một đêm nằm mơ, ở đất Tân Bình – gặp Người Đẹp tặng tấm gương soi và cây bút. Tỉnh dậy, mới biết ấp trang Vô Thanh trên ngực mà ngủ quên – Tự nghĩ mặt mày mỗi ngày còn phải rửa lại, huống chi là hư truyện đã viết cách nay trên hai mươi năm – đọc lại lắm chỗ chẳng được như lòng… Nên đêm nay, khêu đèn dầu hao, tựa mảnh trăng tròn hơn ngoài cửa, mượn Người Đẹp ngọn ý bút, nhuận sắc lại Vô Thanh, cốt để tự soi mình vậy – Nay thêm đôi dòng tạ tội. 21-4-1992”.
Non Hồng núi Tản chim ca
Sông Hà sông Cửu la đà dòng xuôi
Núi sông chiếu diện tinh khôi
Ngọc lên mặt biển, vàng trôi mạch rừng
Mừng Người Trời Đất tưng bừng
Ruộng Lam trâu kéo một vừng long lanh
Những câu thơ cuối nhắc lại niềm mơ ước của thi sĩ: đất nước hòa bình, xã hội thanh bình, thiên hạ thái bình. Phạm Thiên Thư viết rất nhiều thơ trong một giai đoạn ngắn, những năm bảy mươi, điều này làm người đọc khó theo dõi. Tôi liệt kê lại cho những bạn quan tâm:
- Động hoa vàng (1970)
- Hội hoa đàm (1971)
- Đạo ca (1972)
- Đoạn trường vô thanh (1972)
- Suối nguồn vi diệu – Kinh thơ (1973)
- Ngày xưa người tình (1974), trong đó có các bài Ngày xưa Hoàng thị Em lễ chùa này.
- Trại hoa đỉnh đồi (1975)
- Những lời thược dược (2007)
- Hát ru Việt sử thi (2009)
Sau năm 1975 ông ít xuất hiện, thế hệ sau chỉ biết đến ông qua vài ca khúc được Phạm Duy phổ nhạc; nhạc ấy cũng bị cấm phổ biến nhiều năm. Đối với nhiều người khác, thơ ông quá cảm xúc, trong khi thời đại ngày trở nên khách quan, hài hước. Thế giới của ông là một thế giới đẫm vị thiền, phảng phất tình yêu thơ mộng, sầu muộn nhưng không thảm khốc. Tôi nhớ tập thơ Động hoa vàng khổ nhỏ màu vàng trong sáng, do một người bạn gái tặng, có in lời của Thích Minh Châu và bìa sau vẽ minh họa thiền sư Phạm Thiên Thư thật đẹp.
Thời thế thay đổi, chàng thi sĩ của Hoàng thị cởi áo cà sa hoàn tục; người yêu thơ không mấy khi thấy ông nữa. Điều đó chứng tỏ thơ Phạm Thiên Thư cũng như nhạc Phạm Duy là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội, một thứ kỳ hoa dị thảo chỉ nở trong một giai đoạn khi những giấc mơ được phép sống lại, các thế giới được phép giao thoa. Thực ra Phạm Thiên Thư cũng có cố gắng viết theo yêu cầu mới, sau 75, nhưng không được chú ý mấy. Tôi thấy tiêu biểu là mấy bài như sau đây.
Trong lòng đất thâm sâu
Thốt một nhành thược dược
Đóa hoa như giọt nước
Lóng lánh hồn thiên thâu

Từng cánh hồng đan nhau
Xòe những lời bất tận
Lòng đất già lận đận
Ướp thơm những chùm hoa

Hoa nhiệm mầu trong ta
Đất nhiệm mầu trong nụ
Cây dương cầm vũ trụ
Đất góp khúc tình ca

Thược dược hồng môi hát
Gió tơ trời bay đi
Cây đàn tình xanh ngát
Mười ngón đời vân vi

Ai biết đất nói chi
Trong những lời thược dược
Đóa hoa như giọt nước
Lóng lánh hồn thiên thâu

Trên môi nàng ca sĩ
Những cánh tình bay mau

(Những lời thược dược. 19-12-1988)
Mai em ra trường
Đi xa dạy học
Hứa dạy trẻ đọc
Trang sử đấu tranh
Của dân tộc mình

Miệng cô xinh xinh
Giảng về cách mạng
Và trên vầng trán
Ngời ánh quang vinh

Em đem bình minh
Về từng mắt trẻ
Anh tưởng tượng thôi
Đã rưng nghẹn lệ
Yêu em vô kể
Cô giáo ngày mai
Con đường tương lai
(Ngày mai) (1)

Thơ như thế thì cũng chưa phải là cách mạng lắm. Có lẽ Phạm Thiên Thư giống những trí thức miền Nam trước, ngây thơ, thánh thiện, cũ. Không khí lãng mạn đã chết, thiết chế xã hội nâng đỡ nó không còn, một vài nhà văn vẫn viết nhưng Phạm Thiên Thư gần như đã xong, dù có xuất bản vài tuyển tập khác, và có lần xuất hiện bên cạnh Phạm Duy, trong một chương trình sân khấu rực rỡ. Vậy, thơ giúp người ta sống cuộc đời mình như thế nào?
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
Bài thơ tựa như người được đánh thức, giây phút bừng sáng chiếu rọi khắp trang giấy. Bất chấp những ý niệm cũ, những chữ đã được dùng nhiều lần, trở nên mòn sáo, sự quyến rũ của Phạm Thiên Thư vẫn còn đó. Ông nhiều lần nhắc đến hình ảnh từ quan:
này mộng ảo trả về mộng ảo
khăn gói lên, treo ấn từ quan
Một bài thơ hay làm ta thao thức, trở đi trở lại, tự hỏi, đặt ta vào dòng chảy của đời sống. Thơ giải phóng con người khỏi thế giới đầy tin tức, những ứng dụng hữu ích, ở đó con người đầu hàng các phương tiện, trở thành một phần của các phưong tiện ấy. Thơ đi ra từ nhịp điệu vũ trụ, bốn mùa, nhịp điệu cơ thể. Thơ làm cho những kinh nghiệm riêng tư chốc lát trở nên có thể hiểu được và tái lập được. Tái lập là điều quan trọng trong các thí nghiệm khoa học và cũng quan trọng không kém đối với nghệ thuật. Một bài thơ hay mang lại cảm giác tương tự, dù bạn đọc ở đâu, lúc nào. Thơ mang chúng ta vượt qua ranh giới giữa hữu thức và vô thức, giữa quá khứ và hiện tại, giữa người nói và người nghe.
Đầu mùa Xuân cùng em đi lễ
Lễ chùa này – vườn nắng tung bay
Và ngàn lau – vàng màu khép nép
Bãi sông bay – một con bướm đẹp
Cái chết là ngưỡng cửa, không những cho người chết mà còn cho người sống. Người sống mới là nạn nhân của cái chết. Kẻ thương tiếc nhận ra cái bóng của sự chết, như nhìn thấy vực thẳm, chia lìa, đoán trước được nó, và sự tiên đoán ấy làm họ lo âu, khốn khổ.
Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu
(Đinh Hùng)

Thơ Phạm Thiên Thư khác thế, cũng dẫn người đọc đi qua mất mát, đi qua cái chết ấy, nhưng hồi tưởng mà không sợ hãi. Đó là thơ của sự đau buồn sâu xa nhưng dịu dàng, sự kháng cự số phận theo kiểu khác. Nhà thơ mang lại hình ảnh luân chuyển của sự sống và cái chết, của hạnh phúc và đứt gãy, như nhịp tuần hoàn vũ trụ. Sự lặp lại của các chữ trong thơ khi nói về cái chết chính là sự lặp lại của mùa.
Tàn mùa Đông vào chùa bỡ ngỡ
Tiễn đưa em trong áo quan này
Từng cội hoa – trầm lặng thương nhớ
Tóc em xưa – tơ óng như mây
Bài thơ của Phạm Thiên Thư có đủ bốn mùa xuân hạ thu đông.
Cho đến khi nào chúng ta chấp nhận nó, cái chết, chấp nhận thua cuộc, chúng ta chịu lìa bỏ hạnh phúc tạm bợ trần gian, lúc ấy mới có thể có thức tỉnh. Tuy là một thiền sư, Phạm Thiên Thư không nhắc nhiều đến các lý thuyết Phật giáo, và về mặt này, ông hồn nhiên. Nếu có ý thức làm một tu sĩ, ông sẽ có những câu thơ nặng rao giảng, khuyên nhủ, cũng như trường hợp các thiền sư khác, như thơ Nhất Hạnh. Nhưng thơ không phải là tiếng nói của triết học. Khác với một số nhà thơ đi trước, ông không đẩy tình cảm của mình, yêu ghét, hạnh phúc, đau khổ, lên đến cực điểm. Không có những câu ca ngợi diễm ảo:
Anh nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
(Nguyên Sa)

Thơ tình Phạm Thiên Thư cũng không nặng về nhục thể như Bích Khê, không thần bí như Đinh Hùng, không đau đớn như Du Tử Lê, không bất cần như Nguyễn Tất Nhiên. Đó là sự cân bằng giữa thực và ảo, giữa hiện thực và siêu thực, một thứ chủ nghĩa lãng mạn hiện đại. Trong một vài năm ngắn ngủi, Phạm Thiên Thư trung thành với câu chuyện tình yêu của mình. Nhưng có khi ông càng viết, người đẹp của ông càng trở nên một thánh nữ:
Khép mắt ta nhìn em
Thấy hình hài diễm lệ
Đứng trên ngàn sóng bể
Trấn át ngàn phong ba
Hình ảnh ấy không thuyết phục. Tôi e rằng nàng thơ (Muse) của các thi nhân không thích cái gì quá siêu phàm, mà chỉ thích bay la đà mặt đất? Bốn chủ đề: tình yêu, đạo pháp, cái chết và thời gian, thiên nhiên và giấc mơ thái bình. Ngôn ngữ Việt trong thơ ông trở lại với sự trong sáng của thơ có vần, đôi khi như lời hát ru, đôi khi mạch lạc như sự thức tỉnh. Một thứ chủ nghĩa sinh thái nguyên sơ, gần với tôn giáo nguyên thủy.
nền chợ xưa giờ họp lách lau
hỏi cô hàng xén giạt về đâu
đêm đêm bầy đóm xanh từng chiếc
tụ giữa nền hoang nhóm lửa sầu
(Đom đóm)
Tình yêu dưới mái hiên chùa là sự táo bạo vừa phải, cũng thách thức xã hội nhưng được dư luận chấp nhận, vì hình như đó chỉ là tình hư ảo. Việc dùng nhiều điển tích hoặc giai thoại cũng là một đặc điểm thú vị.
Ván cờ bày trắng bông đào
Sao lên núi thẳm trăng vào chén không.
Thiên nhiên có mặt thường trực. Dù viết về đề tài gì, thơ ông cũng được đặt vào phong cảnh, cây cối, chim chóc, đất trời, bằng một ngôn ngữ có phần tượng trưng. Không thấy rõ trong thơ các ý thức về xã hội chính trị, thậm chí chiến tranh cũng chỉ hiện ra thấp thoáng. Thế nhưng niềm mơ ước đối với hòa bình ở ông thật lớn. Có ba khái niệm khác nhau: hòa bình là để phân biệt với chiến tranh, không có chiến tranh tức là hòa bình, không có hòa bình tức là chiến tranh. Thanh bình tất nhiên phải có hòa bình nhưng là một tình trạng tốt đẹp hơn, không có xáo trộn, chính sự phiền hà. Nhưng thái bình mới là tình trạng lý tưởng, ngày xưa được hiểu như thời thịnh trị, chính quyền liêm chính, trí thức trong sạch, người dân sống tự do, vui vẻ, lành mạnh. Thơ ông là niềm ao ước về một xã hội thái bình như vậy, lời kêu gọi trở về nguồn cội, đi tìm cái vĩnh viễn trong sự chuyển dời, là lời cầu nguyện dành cho quê hương. Đó là một trong vài chủ đề lớn nhất của Phạm Thiên Thư. Kết thúc trường thi Động hoa vàng, tác giả nói lại giấc mơ của mình lần nữa, về non nước cũ.
Mai sau trời đất thái bình
Về lưng núi phượng một mình cuồng ca
Gây dàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây

Phạm Thiên Thư là một trường hợp đặc biệt, về xuất thân và thi pháp. Thơ ông giàu nhạc tính, di chuyển giữa những trầm tư, giấc mộng, độc thoại và đối thoại, ngôn ngữ thơ ấy giản dị nhưng không chất phác, vần điệu cũ nhưng phối hợp chữ rất mới, và ý tứ thoáng đãng, tác động đến người đọc trong mênh mông các liên kết văn hóa. Người đọc về sau còn nhớ đến thơ ông vì đó là suối nguồn trong lành tắm mát cái tôi của họ. Cái tôi trong chủ nghĩa lãng mạn tiền chiến là cái tôi cô độc lẻ loi, với trục tọa độ một chiều, thời gian qua đi không trở lại. Lòng yêu đời là sự khao khát vội vã, tiếc nuối vì thời gian vụt mất, chóng mặt:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
(Xuân Diệu)
Cái tôi trong chủ nghĩa lãng mạn mới như trường hợp Phạm Thiên Thư là cái tôi trở lại với thời gian như những chu kỳ, có sinh có diệt, có được có mất, trong lẽ tuần hoàn. Thấy được như thế nên thi nhân tiếc nuối mà không đau đớn, yêu đương mà không vội vã. Đối với cái chết, cái mất mát, những bi kịch con người, câu trả lời của đạo, của thơ là trở về với uyên nguyên. Nhà thơ có lần tâm sự: “Trước khi viết, tôi ăn chay, nhập thiền, cầu nguyện và viết. Tôi không nghĩ đó là thứ ngôn ngữ của mình mà cảm giác có một phép mê dụ, ảnh tượng vô hình nào đó dụ dẫn. Khi tĩnh tâm đọc lại từng trang thơ, tôi không nghĩ là mình có thể viết được như vậy”. Nhờ những điều kiện xã hội thời ấy, đầu những năm bảy mươi thế kỷ trước ở miền Nam, Phạm Thiên Thư đã viết được một loại thơ phi chính trị, phi lịch sử, “như có một phép mê dụ”. Cõi thơ bát ngát của ông đặt trong bối cảnh loạn lạc ấy vốn đã là một thứ gì siêu thực.
Tường thành cũ phiến bia xưa
Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
Chiều xanh vòng ngọc trao tay
Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha
Nhà thơ tìm ra tiếng nói của mình trong tự do, tìm thấy căn nhà của mình trong chính ngôn ngữ thơ ca mà ông sáng tạo. Mất ngôn ngữ ấy, mất căn nhà ấy, ông không còn là ông nữa.
Ông chuyển qua làm nghề hốt thuốc chữa bệnh.
Ngày xưa có tục con cầu
Khẩn xin Trời Phật cho đầu thai nhi
Lòng thành như ngọc lưu ly
Làm lành lánh dữ suốt kỳ mang thai
Phạm Thiên Thư chưa bao giờ tỏ ra có ý định làm mới nghệ thuật. Mặc dù trong một cuộc phỏng vấn đâu đó, thi sĩ ngụ ý rằng ông vào chùa là để trốn quân dịch, và quả thật sau 75 cũng đã hoàn tục, nhưng thơ ông thấm đẫm sâu sắc vị đạo, hương thiền. Dòng thơ ấy mở rộng cánh cửa cho mọi người bằng ngôn ngữ nhiều giao tiếp, chính xác, đẹp. Người đọc không cần phân vân suy nghĩ. Đó là loại thơ giả tưởng rằng người đọc và kẻ sáng tạo cùng trong một truyền thống văn hóa. Cũng do đó sức hấp dẫn do tác động liên văn bản là sâu xa. Nhân vật và tác giả đổi chỗ cho nhau. Đừng quên rằng thơ viết trong thời kỳ lửa đạn, vì vậy còn cảm giác thanh bình tạm bợ, giữa sự đứt gãy của chủ nghĩa hiện đại, sự phân rã xã hội, vết thương tình tự dân tộc. Còn lâu Phạm Thiên Thư mới tới gần chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng hoàn cảnh của một xã hội dịch chuyển mang lại cho thơ ông tính chất vô trung tâm, tính rời rạc, không cố định, gần như vô mục đích.

Thơ hôm nay đã đi xa hơn thời của Phạm Thiên Thư, tất nhiên, vì thời đại thay đổi, đa dạng hơn, mặc dù thế người đọc sẽ còn nhớ đến ông, nghe nhạc phổ thơ, đọc lại, vì họ tìm thấy ở đó dấu vết của một đời sống khác, ngôi nhà của một tâm thái khác, không phải chỉ nhớ tiếc mà còn là tham chiếu cho những giá trị hiện tại. Chúng ta chứng kiến sự trở lại trong thơ Việt ngày càng rõ cái tôi trữ tình sau một thời kỳ dài vắng mặt trước các hồi ký, tiểu thuyết, trường ca, thơ phản ảnh hiện thực nông cạn, lời kêu gọi; cái tôi này sẽ làm nên giọng điệu chính của thơ hôm nay, và không phải là không có một mối liên hệ ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa nó và thơ thời kỳ những năm sáu mươi bảy mươi ở miền Nam. Sau mỗi khúc quanh, thơ hình thành một dòng chảy mới, mang theo nó những yếu tố nhận được từ gia tài quá khứ. Việc nhớ lại Phạm Thiên Thư chỉ bằng một vài ca khúc là điều đáng tiếc, người đọc thơ cần đọc ông nhiều hơn, một trong những nhà thơ quan trọng của nền văn học chiến tranh mà ở ngoài chiến tranh. Thơ Phạm Thiên Thư không mới lắm, mà có lẽ ông cũng không có ý định làm mới, nhưng trước ông và sau ông, chẳng ai viết thế. So với nhiều nhà thơ cùng thời, những thành tựu của ông khó nắm bắt hơn, khi miền Nam phải đối diện với những vấn đề lớn như chiến tranh, hỗn loạn. Đó là tiếng hót của loài chim quý, tiếng hót ngắn ngủi, cuối cùng, ngân lên trong những ngày cuối, vì vậy mà buồn đau, ngọt ngào, thương xót. Cùng thời với Phạm Thiên Thư là Du Tử Lê; cả hai đều viết thơ tình. Cần nhớ rằng trong suốt một thời gian dài thơ miền Nam chính yếu không phải là thơ tình, mà là thơ về thân phận, quê hương, chiến tranh. Sau những năm thanh bình đầu tiên thời đệ nhất Cộng hoà, của Mùa thu Paris, Áo lụa Hà đông, thơ chỉ còn là dằn vặt khôn nguôi về số phận, đất nước, nội chiến. Không phải tình cờ mà ông và Du Tử Lê cùng được trao giải thưởng văn chương toàn quốc VNCH năm 1973, về bộ môn thơ (chính xác là Du Tử Lê về thơ, Phạm Thiên Thư về trường thi). Nếu tôi không lầm, đây là giải thưởng toàn quốc cuối cùng. Như điềm báo hiệu:
Cuối xuân ta lại tìm qua
Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn
Sớm thu ta đánh đò sang
Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa
Thân xác của người nữ hay của giấc mơ tự do?

Thơ Phạm Thiên Thư còn là lời tri ân đối với đời sống. Nhớ lại tức là sống, quên đi tức là kết thúc. Khi một người chết đi, không được ai nhớ lại, đó là biến mất vĩnh viễn. Khi một người chết đi, được người khác nhắc lại, đó là lúc người ấy trở về. Không cách nhớ nào đẹp bằng cách nhớ của thơ ca. Vì ký ức ấy là ký ức bền vững, chưng cất, thăng hoa. Chúng ta nhớ lại một người tình, một quãng đời, một xã hội, một bài thơ, hầu hết là vì ân huệ mà người ấy, quãng đời ấy, nguồn thơ ấy, bầu khí quyển ấy, trong đó ta hít thở như khí trời, đã từng ban tặng cho ta.

NGUYN ĐC TÙNG

Nguồn tham khảo:
(1) Toàn bài Ngày Mai. Phạm Thiên Thư, Ngày xưa người tình, NXB Văn nghệ, 2006.
(2) Tiểu sử:
“Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đình Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiến Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn – Tp.Hồ Chí Minh (1954 đến nay).
Từ 1964-1973: Tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều – Đoạn trường vô thanh. Năm 1973-2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn Dưỡng sinh Điển công Phathata (viết tắt chữ Pháp-Thân-Tâm).
Tác phẩm đã in: Thơ Phạm Thiên Thư (1968); Kinh Ngọc (thi hoá Kinh Kim Cương); Động Hoa Vàng (thơ, 1971); Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều – Đoạn trường vô thanh (1972); Kinh Thơ…”
(3) Đặng Tiến: Ngày xuân tìm động hoa vàng (http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c300/n14236/Ngay-xuan-tim-Dong-hoa-vang.html)
(4) Vĩnh Hảo: Đọc thơ Phạm Thiên Thư (https://thuvienhoasen.org/a18370/doc-tho-pham-thien-thu)