Bài
diễn văn nhiệm màu: Thơ của Tomas Tranströmer
Tác giả: Teju Cole
Người dịch: Nguyễn thị Hải
Hà
Hai sự thật tiến đến gần nhau. Một đến từ bên trong, cái kia từ bên ngoài, và nơi chúnggặp nhau chúng ta có cơ hội nhìn thấy bóng dáng của chúng ta. (Từ “Preludes”Phần Mở Đầu).
Tomas, người được trao giải Nobel Văn chương năm nay,
đãnhiều năm là một trong những nơi trú ẩn của tôi. Các quyển thơ của ông đặt
trênkệ không bao giờ bị bỏ quên lâu ngày. Tôi hướng về ông mỗi khi tôi muốn
được tiếnđến, càng gần càng tốt, những điều không thể nói. Thập niên vừa qua
đầy nhữngnăm đen tối, và tôi vẫn tiếp tục tìm về với các nhà thơ. Họ chăm nom
tôi và,dùng một câu của Tranströmer, tôi sống nhờ vào sữa đánh cắp từ vũ trụ
của họ.Tôi đọc Walcott, Bishop, Ondaatje, Szymborska, Bonta, và cả chục thi sĩ
xuấtsắc khác, nhưng trên tất cả tôi đọc Heaney và Tranströmer, hai người, bằng
haicách khác nhau, đã kết hợp những vấn đề trọng đại nhất với kinh nghiệm cá
nhân.
Đọc Tranströmer – thời điểm thích hợp nhất là vào ban đêm, trong
im lặng, và một mình – là buông thả theo những điều nằm bên ngoài lẽ tựnhiên.
Đó là trèo ra khỏi giường và lắng nghe ngôi nhà nói chuyện gì và ngọngió trả
lời như thế nào. Mỗi độc giả đọc ông xem đó là một bí mật cá nhân. Vì lý do
này, không khỏi lạ lùng khi nhìn thấy một ông tổ sư của sự cô độc lại được chào mừng ồn ào trên
đườngphố hay là chủ đề thời thượng trên Twitter và có sách bán chạy nhất
trênAmazon. Ông thường trú ngụ trong những lãnh vực yên tĩnh hơn.
Thơ của Tranströmer chịu ảnh hưởng truyền thống Nhật Bản và
khởiđầu sự nghiệp ông đã làm thơ haiku. Đọc ông, độc giả cũng liên tưởng đến
cácnhà thơ Hoa Kỳ như Charles Simic (khuynh hướng siêu thực) và Jim Harrison,
GarySnyder, và W. S. Merwin (vì cách nói đơn giản và sự thông tuệ như công
ánThiền). Nhưng Tranströmer có cách mê hoặc riêng, những thí dụ mãnh liệt nhất
đếntrong tư tưởng tôi là âm nhạc của Arvo Pärt và những tấm ảnh chụp của
SaulLeiter.
Tôi bơi ra ngoài trong
cơn mê muội
trên nước đen lấp lánh
Tiếng kèn tu ba đều
đặn trôi vào
Đó là giọng người bạn: “Nhận huyệt mộ của bạn và bướcđi.”
(Từ “Two Cities” Hai Thành Phố)
Thơ của ông chứa đựng sự đơn giản rất minh bạch; nó
bànhtrướng cho đến khi nó đẩy cái bản ngã của bạn ra khỏi tổ ấm, và chỉ còn
bạn,một mình với Sự Thật. Trong thơ của Tranströmer, bạn chiếm chỗ không gian
mộtcách khác biệt; thân thể trở nên vật thể, tư tưởng trôi nổi, đồ vật có
đờiriêng và kể cả những thứ không phải là vật thể, ngay cả quan niệm, đều có
sựsống. Hồi ký của ông, “Ký Ức Ngắm Nhìn Tôi,” tạo cảm hứng cho tôi đặt tên
cộtbáo hằng tuần tôi phụ trách cho tờ báo Nigeria NEXT (trong những năm cócột
báo của tôi) “Chữ Nghĩa Theo Tôi.” Có rất nhiều thứ đi theo trong thơ của
Tranströmer,ngắm nhìn nhiều, từ xa và ở gần, cây cối, quá khứ, nhà cửa, khoảng
cách, cơn yênlặng, và ruộng đồng, tất cả đều đảm nhiệm vai trò người quan sát.
Có rất nhiều giấc mơ.
Tôi mơ tôi đã phác họa
những phím đàn dương cầm
trên bàn trong bếp.
Tôi nhấn phím đàn, không âm thanh.
Láng giềng đến xem.
(Từ “Grief Gondola #2” Gondola ĐauBuồn số 2)Tranh Salvador Dali
Thơ của Tranströmer được phiên dịch sang Anh ngữ rất nhiều (ngay
cả khi không được phiên dịch, cho đến tuần này, là sách bán chạy nhất), cónhiều
bản dịch khác nhau do nhiều dịch giả như May Swenson, Robin Fulton,Robin
Robertson và nhiều người khác. Quyển thơ tôi thích nhất là “TheHalf-Finished Heaven (Thiên Đàng Dang Dở),” một tuyển tập do
Robert Bly phiêndịch. Ngôn ngữ của Bly trong sáng và trực tiếp đến độ dường như
đốt giai đoạn phiên dịch. Đây là tuyển tập tôi thường đọc nhất trong những năm
kinh hoàng dưới thời Bush và Cheney, mặc dù là vào khoảng thời gian ấy, lòng
tin vào ThượngĐế của tôi cũng phai mờ, tôi cảm thấy tôi cần, giữ vững niềm tin
trong một đám nhân chứng. Tôi đã lạc lối rời xa giáo điều tôn giáo, nhưng cơn
đói thèm một bài diễn văn nhiệm màu chưa nguôi ngoai. Những bài thơ huyền bí
củaTranströmer, bay vần vũ ở bên cạnh bờ vực của những điều không thể nói
thànhlời, gặp tôi ngay ở điểm chính của nhu cầu.
Tôi mở cánh cửa đầu
tiên. phòng rộng đầy ánh sáng mặt trời. Xe nặng nề chạy bên ngoài làm đĩa bát
run rẩy.
Tôi mở cánh cửa thứ
hai. Bạn bè! Bạn uống chút bóngtối và trở nên hữu hình.
Cánh cửa thứ ba. Căn
phòng khách sạn nhỏ hẹp. Nhìn ra ngõ hẽm. Ngọn đèn chiếu sáng mặt nhựa đường.
Kinh nghiệm, chất phế thải của nó đẹp. (Từ “Elegy” Điếu Ca).
Và, tác phẩm “The
Scattered Congregation, Nhóm Người Tản Mác”gồm có năm phần ngắn, có những
dòng thơ này:
Chúng tôi chuẩn bị
khoe ngôi nhà. Người khách nghĩ:bạn sống sung sướng. Xóm tồi tàn phải nằm trong
lòng bạn.
Nicodemus, kẻ mộng du
đang trên đường đi đến Địa chỉ.Ai giữ Địa chỉ ấy? Không biết. Nhưng đó là nơi
chúng ta sẽ đến.
Trong nhiều bài thơ có một sự bất lực, cảm giác bị cái gì đó
lôi cuốn đi mà không thể kháng cự và cũng không nhìn thấy. Thơ ông có những nhận
định về xã hội rất chua chát, cảm giác công lý bị thương tích (“khu tồi tàn
phải nằm trong lòng bạn” – nhiều năm Tranströmer là chuyên gia tâm lý ở mộtcơ
quan dành cho trẻ vị thành niên phạm pháp). Trong thơ ông cũng có vẻ bất động
không thể phân biệt được với một tốc độ tuyệt nhanh, tương tự âm nhạc của
ArvoPärt có thể cùng một lúc vừa nhanh vừa chậm. Cũng may là tôi không biết hỗ
thẹnvề chuyện bị ảnh hưởng, bởi vì tôi nhận ra có rất nhiều quan niệm của Tranströmer
tôi đã “gói” trong các tác phẩm của tôi. Khi tôi được hỏi điều gì tôi yêu thích
nhất về New York ,tôi thường trả lời bằng một câu ngắn lấy từ trong Schubertiana”:
Bên ngoài thành phố
New York, ở một chỗ trên cao nơi cái nhìn thoáng qua bạn thu vào những ngôi nhà
nơi tám triệu người đang sống.
Những hình ảnh mà Tranströmer dùng để làm phong phú thơ của ông
làm tôi nghĩ đến khái niệm “acheiropoieta,” “nghệ thuật sáng tạo không dung tay;
trong nghệ thuật Byzantine, những hình ảnh được tạo ra mà không dùng tay là những
hình ảnh người ta cho là chúng tự biến thành vật thể mà do họa sĩ vẽ nên.Tấm
mạng Turin và tấm mạng Veronica là những thí dụ nổi tiếng nhất. Những hình ảnh
này được ghi nhận bởi cách tiếp xúc trực tiếp, và chúng thường là hình ảnh
Gương Mặt củaChúa. (Albrecht Dürer, trong thái độ thiếu khiêm tốn của ông, đã
gián tiếp dung những phương pháp này khi ông ta vẽ điên cuồng chính diện thân
thể trần truồng của ông vào năm 1500.) Tôi có cảm giác cách dùng hình ảnh của
Tranströmer cũng giống như thế, và giống như cách in từ phim chụp ảnh mặt phụ
(negative) hay mặtchính (positive). Không có chứng cớ cụ thể; mà thay vào đó là
cái cảm giác của sựđến bất thình lình của vật đã hiện diện sẵn, như trường hợp
con cá voi trồi lên để thở: khổng lồ, hân hoan, và mau kết thúc.
Sự thỏa mãn, thú vui, cảm giác dễ chịu người ta nhận được từ
những bài thơ này ở chỗ chúng nó dường như đã hiện diện trước chúng ta. Hoặc có
lẽ, nói một cách khác, sự nhiệm mầu nằm trong khả năng chúng có thể trình bày
các khía cạnh của cuộc đời của chúng ta đã lâu năm bị chôn vùi dưới phong cách
cá nhân, văn hóa, và ngôn ngữ. Những bài thơ nhớ đến chúng ta và, nếu chúng ta tuyệt
đối giữ yên tĩnh, sẽ cho chúng ta cơ hội nhìn thấy bóng dáng của chúngta.
NTHH
Teju Cole: Nhà văn, sử
gia nghệ thuật, nhiếp ảnh viên trênphố. Sinh ra ở Hoa Kỳ năm 1975, cha mẹ là
người Nigeria, sống ở Brooklyn, tácgiả của hai tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn
Every Day is for the Thief (Mỗi NgàyLà Một Kẻ Cắp), và một tiểu thuyết dài là
Open City (Thành phố Mở). Cộng tácviên của Qarrtsiluni, Chimurenga, the New
Yorker, Transition, Tin House, etc.Hiện đang viết một quyển ký về Lagos và
Small Faté (Định Mệnh Nhỏ Bé). Giáo Sư ở Bard College (Khóa mùa Xuân 2012).
http://www.newyorker.com/online/blogs/books/2011/10/miracle-speech-tomas-transtromer-nobel-prize.html#ixzz1a2XAMAzS
No comments:
Post a Comment