Monday, October 16, 2017

YÊU TINH


Hồ Đình Nghiêm thưa chuyện cùng nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.

The Concert, 1957 - Marc Chagall

Nguyễn Thị Khánh Minh. Đinh Cường vẽ

Sáng hôm nay, nổi hứng, tôi bách bộ ngoài công viên nằm gần nhà. Cây cỏ chưa bị mùa màng tác hại, thu đã về nhưng lá vẫn xanh. Trong đầu, quàng xiên hiện lên mấy câu thơ của Nguyễn Đức Sơn: “Sáng mênh mông. Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng. Ồ bông, ồ mộng, ồ không”. Ở xa, có lùm cây nở những đốm bông lạ thường, bước tới gần lại nhớ những đoản văn chất đầy sắc màu của chị Khánh Minh, hồng, tím, vàng, đỏ, xanh lay động cùng “mưa nắng thềm nhà”. Heo may đi ngang, tôi quá bộ trở về, tự cười thầm khi cố tình “đạo” một đoạn trong trang đầu cuốn tản văn “Bóng Bay Gió Ơi”:

Thời gian gần đây, có lần “tập đoàn” yêu tinh họp nhau lại tìm cách quấy phá con người. Một yêu tinh (HĐN) nói: Phải nên hỏi “chị ấy” thu giấu thứ quý giá của con người ở đâu? Một yêu tinh đáp: Cũng dễ thôi, mày cứ thử gắp lửa bỏ tay người, vấn đề là mày liệu kham nổi không. Tuy mang tiếng là yêu tinh, nhưng tập đoàn ấy có đứa tin vào thánh thần. Nó uỷ lạo một câu rút ra từ thánh kinh: Gõ, cửa sẽ mở.

Hồ Đình Nghiêm (HĐN): Thân chào chị Nguyễn Thị Khánh Minh. Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, chưa đến mùa Halloween, chị thấy tôi có giống yêu tinh không? Tôi đến để xin chị viên kẹo bởi tôi nghĩ thơ văn chị viết quá đỗi ngọt ngào. Chị có rộng lòng đứng với tôi chừng nửa giờ ngoài thềm sương?

Nguyễn Thị Khánh Minh (NTKM): Ở đâu đó có ai nói, ấm áp không phải là ngồi trước một lò sưởi mà là có người đứng cùng mình trước thềm sương, và hỏi một câu như vậy. Bây giờ đang đầu thu, tôi đang có niềm vui được tâm sự. Trong một bài thơ về Halloween tôi có viết về mấy con ma thơ (có tôi) đi tìm người nghe thơ: … Những con ma thơ, cầm sách. “Cù lét hay đọc thơ.” Và cùng nhau im lặng. Nghe thơ… Giờ có người xin kẹo thơ. Thế thì chúng ta đều là những yêu tinh yêu thơ, đó không phải là Cõi Đẹp sao?


HĐN: Tôi bị chứng mất ngủ quấy phá, may chưa mộng du. Hoặc do mộng du mới được gần kề bên chị. Chị có phương thức nhằm trị liệu không? Tỉnh như sáo sậu có giúp chị ngồi viết được “những bức tranh”? (Tôi mượn ý của nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp khi bảo thơ chị đẹp như những bức tranh).

NTKM: Trị chứng mất ngủ hay trị mộng du? Mộng du và mất ngủ là liên hệ nhân quả qua qua lại lại? Tôi cũng đang bị mất ngủ kéo dài đây. Tối nào cũng đi mượn giấc ngủ từ viên thuốc bé xíu. Hãy hiểu mộng du theo cái nhìn của HĐN đi, tôi mong trong tình cờ nào đó của mộng du, tôi lọt vào cõi thơ để trò chuyện. Đó dường như cũng là lúc tỉnh như sáo sậu như bạn nói chăng? Tôi cảm thấy trong bất cứ lúc nào tôi viết là lúc tôi sống trọn vẹn nhất của từng phút giây, đại khái là phút tỉnh nhất.

HĐN: Lần trước, tôi nhớ là có viết ở đâu đó, rằng chị đỗ xong Cử nhân Luật… rồi bù trất. Xin chị chịu khó hé lộ một chút bằng ba chữ: “Sau đó thì…” cho lắm người đọc bớt nôn nóng đợi chờ.

NTKM: Đó là đoạn thời gian mà đối với tôi là một vết thương hoài không dám mở băng dán… Vâng sau đó thì, gia đình gặp nhiều biến cố, tôi làm nghề dạy kèm anh pháp văn cho các em 6-12 tuổi, con cháu của bạn ba má tôi, vì họ muốn giúp đỡ, cũng có con của cán-bộ trong xóm. Rồi đến nghề kế toán trong một công ty được phẩm lớn hồi bấy giờ cho đến 1982 tôi phải nghỉ việc vì bị đau cột sống. Qua tới đây từ 2006 tới giờ thì bịnh dài dài, (phải mổ cột sống hai lần) có khoảng hai năm tôi làm thư ký đánh máy bán thời gian cho một tờ báo văn học nghệ thuật ở Nam Cali.

HĐN: Mỗi người trong chúng ta (kể cả yêu tinh) hẵng phải trải qua một giai đoạn gọi là vàng son. Tôi ngắm tấm ảnh “Mẹ và con” thật rạng rỡ chụp ở Sài Gòn tháng 12 năm 1974 và tôi hoài nghi đó có phải là chặng đường đáng nhớ của chị?

NTKM: Mỗi khi nhớ đến thời sinh viên, tôi thấy ký ức quả thật là một kho báu quý, cho dù biết rằng chẳng nên bận bịu, quá khứ là điều đã qua, ngày mai chưa đến, nhưng khi tôi quay về những hình ảnh cũ tôi cảm ơn là kỷ niệm đã làm cho phút hiện tại của tôi nở hoa cảm xúc. Bạn biết không, tôi tốt nghiệp vào tháng 12.1974, khóa cuối cùng của Luật Khoa Đại Học Đường, năm đó Khoa Trưởng Vũ Quốc Thông lần đầu tiên tổ chức cho sinh viên tốt nghiệp được mặc áo như luật sư trong lúc lãnh bằng. Lần đầu và cũng là lần cuối. Ngày mà ba má tôi rất vui mừng. Dễ quên sao cái giá trị tinh thần ấy? Nên với tôi, đôi khi phải cần tìm về ngày qua để nạp năng lượng cảm xúc sinh cái mới cho hôm nay. Tôi thuộc dạng hoài cổ.

HĐN: Thời gian đó chị đã làm thơ viết văn chưa nhỉ? Tôi yêu thành phố “Nha Trang của chị” quá, yêu tới độ chưa dám viết xuống một đôi câu. Một phần, ngay cả chị còn sợ mang tội, phần khác sợ anh Vũ Hoàng Thư quở. Nhưng mà cần chi phải dụng bút, giờ đây kề cận cái danh xưng Nguyễn Thị Khánh Minh chừng như tôi đang nghe miền thuỳ dương cát trắng reo. Hồ đồ thêm chút nữa, Thâm Tâm đâu có đưa ai sang sông, tự dưng ai xúi mà ông nghe tiếng sóng ở trong lòng?

NTKM: Tôi làm thơ từ năm 11 tuổi, hồi đó báo Ngàn Khơi (báo này lúc đầu như là của Nhà Văn Chu Tử) mục thơ nhi đồng do Uyên Chuyên phụ trách đã cho tôi cái mác “thi sĩ búp bê” đấy. Xin lỗi nhớ cho là tôi đang nói chuyện thơ trong cơn mộng du. Cảm ơn là tiếng thơ cát trắng reo đã dội tiếng sóng trong lòng ai. Anh Vũ Hoàng Thư ơi, sóng Nha Trang và sóng Huế, anh đều có kinh nghiệm, vậy chớ âm ba nào làm anh mộng du? Giờ chúng ta chờ tiếng sóng của HĐN hòa âm…

HĐN: Trước khi sang Mỹ, chị có lần nào ra Hà Nội để thăm quê ngoại không? Tôi chẳng có điều kiện để đặt chân lên thủ đô, chỉ yêu thiết tha thành phố ấy qua những trang sách mượt mà ẩm sương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn gầy dựng nên.

NTKM: Trong bài viết Bồng Bênh Quê Nhà, tôi có nhắc đến hai quê: Hà Nội và Nha Trang, Hà Nội quê ngoại là một giấc mơ khắc khoải, Nha Trang quê nội là giấc mơ đã được sống cùng. Hai giấc mơ bồng bênh như một nhịp nhàng của hơi thở. Sẽ có lúc trở về nơi làng hoa Ngọc Hà để nghe tiếng gió sớm lay động nụ tường vy trong tiếng oa oa chào đời của mình, mẹ tôi nói sân nhà hồi đó có cụm tường vy rất đẹp. Tôi chỉ ở đó tới vài tháng tuổi thì bà nội tôi kêu cả nhà về Nha Trang, lúc đó là năm 1952, cho nên, lớn lên biển ở trong tim, lớn lên da ngào muối biển, và Hà nội thì vẫn thường về mơ mớ giấc chiêm bao… nên nó rất đẹp trong tôi, qua văn của Thạch Lam.

HĐN: Nêu câu hỏi vừa rồi cũng chỉ nhằm nói lên ý chính: Tôi quê mùa chưa hề sang tới Calif. nhưng đã có chút cảm tình về nó nhờ đọc tản văn của chị. Theo chị, thơ văn có thể mang tới sức mạnh nhằm thu phục được yêu tinh? (tựa như cái hồ lô trong tay đạo sĩ vậy).

NTKM: Tại sao Dưới Bóng Hoàng Lan của Thạch Lam, Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng đã cấy dược những hình ảnh đẹp về Hà Nội nơi tôi? Tôi tin tưởng một cách mê tín vào sức mạnh của thơ văn. Nó tạo nên Cõi Đẹp. Và tại sao không thu phục được một loài ma đi tìm người nghe thơ, cũng như yêu tinh đi xin thơ, đi nghe đọc thơ? Tại sao nhà thơ cỡ Nguyễn Xuân Thiệp lại rung động bởi thơ đẹp như bức tranh và tại sao thơ lại để âm ba nơi cảm xúc một nhà văn cỡ HĐN? Đó chả phải là sức mạnh của thơ? Nói yêu tinh một cách thơ mộng như Hồ Đình Nghiêm, tự nhiên tôi nghĩ ra một điều, con đường vào cõi thơ văn trong sáng là con đường hướng thiện. Yêu tinh ơi, tìm đọc thơ để nhận chân hạnh phúc là mỗi lúc mỗi gần hơn cõi thiện. Khi đọc một bài thơ văn mình thích, tôi cảm nhận được điều thiện mà tác giả ấy đã làm cũng như điều thiện tôi đang làm. Cũng là một pháp tu?

HĐN: Mặt khác, theo tôi, chữ viết cũng có sự giới hạn của nó. Các bậc tài hoa Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Thiệp, Phan Tấn Hải, Lê Giang Trần, Nguyễn Lương Vỵ và “tập đoàn” yêu tinh có đứa đã thu gom bao bồ chữ tốt đẹp nhằm ca ngợi chị, cá nhân tôi đi sau đành bất lực mót không ra thứ gì khả dĩ “ăn theo”. Chị đồng ý về luận cứ đó không? Trong đối thoại giữa các bạn bè, chị luôn là người thắng áp đảo hay nhún nhường thua cuộc?

NTKM: Hồi trước khi đọc thơ văn của Hồ Đình Nghiêm trong Gio-o, tôi đã rất ngưỡng mộ, Nhà văn chủ biên Lê Thị Huệ quả có con mắt xanh. Tôi nghĩ mình không thể theo kịp những mới mẻ của người viết này, hôm nay lại được lời ngỏ đứng nói chuyện cùng mình nơi thềm mùa thu. Quả là mộng du. Bởi tôi là người nhát đối thoại, và gần như né tránh mọi tranh luận, nên không biết thắng thua. Khi nhận bài mà bạn gọi là tâm sự này, tôi toát mồ hôi, sợ hơn là khi đọc bài tiểu luận lúc thi tốt nghiệp nữa, lạy trời là HĐN sẽ hài lòng như Giáo Sư Vũ Quốc Thông chấm điểm khá cho tôi.

HĐN: Chắc chị có biết Bửu Chỉ, hoạ sĩ nổi tiếng ở Huế? Ngoài tài năng trong lãnh vực hội hoạ, thời gian còn ở bên nhà tôi “mê” anh ấy qua cách nói chuyện đầy thuyết phục, bởi dầu gì anh ấy từng học qua Luật khoa. Một cử nhân Luật, nói có sách mách có chứng, hình bóng ấy có thích nghi với thế giới thơ mộng tuyệt chẳng nảy sinh ra chuyện bất ưng chất chứa đầy trong thơ chị không? Đọc thơ văn chị trí óc tôi buộc phải hình dung tới một thứ gì mong manh, nhưng khó đổ vỡ, hoặc cường điệu một chút, như sương giăng trên mặt hồ tĩnh yên. Cứ lãng đãng nhưng không tan biến. Chị có biết trong võ học có môn gọi là thuật phân thân? Như đôi vầng nhật nguyệt, chị biết cách dung hoà?

NTKM: Luật sư, nói chuyện hay và làm thơ chẳng bà con gì với nhau HĐN ơi. Tôi chưa hành nghề luật sư một ngày nào, nói chuyện lại nhút nhát, chút nương tựa vào thơ, mặt này coi bộ êm nhất, bằng chứng là có ít nhất một nhà văn nổi tiếng là HĐN đây đã đã hình dung ra tôi thơ như vậy. Tôi thấy không khó khăn gì, tôi sống như tôi là như thế, và tôi có một trái tim quyết liệt để đi đến với Thơ. Thơ là một người chỉ đường, tôi là đệ tử.

HĐN: Đã lâu, chị có phát biểu, đại ý đã là thơ thì tối thiểu phải chở được tính thẩm mỹ của Thơ? Tôi hoàn toàn đồng ý về thứ tạm gọi là căn bản đó, nhưng điều này vô tình trở thành rào cản cho những trường phái khác, nơi quy tụ các tay muốn thoát khỏi các quan niệm có sẵn. Chị có thông cảm cho sự “làm mới” ấy không?

NTKM: Trong bài phỏng vấn của Nhà Văn Lê Thị Huệ, tôi đã nói đến vấn đề này, khi tôi làm thơ tôi không hề bị một rào cản nào của những quan điểm về thơ văn thời đàn anh. Tôi chú trọng ý thơ, đến chất thơ của từ, nhưng điều đó không có nghĩa tôi không tôn trọng những phong trào cải cách làm mới thơ. Những nhà khai phá họ có cái nhìn thẩm mỹ khác nhau của thơ, phản ảnh thời đại họ đang sống, và họ chứng tỏ điều đó qua chữ thơ ý thơ của họ. Cũng đã có những thành tựu, cũng có những cái đang chịu thử thách. Những phong trào đổi mới tạo nên sinh khí trong văn chương nghệ thuật.

HĐN: Khi tôi theo học hội hoạ, sách vở người ta dạy rằng: Bạn phải biết cách giảm thiểu những đường nét, đôi lúc phải gián đoạn, đừng để cho đường viền kia liền lạc. Phải biết xóa nhoà đường biên giữa ánh sáng và bóng tối, hoặc trong một bức tranh, dựng xong bố cục, bạn phải nên chừa cho nó một khoảng trống, một lối thoát (cho người thưởng ngoạn tự suy diễn?). Tôi nghĩ điều này có “bà con” với một bài thơ hay. Nét đẹp của nó ngầm mang một thứ gì gần như bất toàn. Tôi có một ví dụ: Lắm người khen thơ của chị Trần Mộng Tú, lại có người đưa ý kiến “thơ hay nhưng cái vẻ đẹp ấy tròn trịa quá!”. Ồ! Trăng khuyết có khi đẹp mông lung hơn trăng rằm sao? Có thể xin chị một ý kiến không?

NTKM: Tùy sự thưởng lãm của mỗi người. Tôi không dám lạm bàn về sở thích. Riêng tôi tôi thích cái bỏ lửng mênh mang ở câu kết một bài thơ Haiku. Tôi cũng thích tranh ít đường nét và sắc màu như trong tranh của Họa Sĩ tài hoa Bé Ký, chỉ với những nét đen, mảnh mà Họa Sĩ đã phổ hết vào đó những linh động của một gánh hàng rong, cái khoảng trống của tranh Bé Ký là cái ngầm sâu thẳm gợi nên âm thanh của không gian nơi những nhân vật đang sống. Trong bức Mẹ Con chỉ trên dưới mươi nét cong và nhanh. Mà thấy được mẹ con đang dắt díu nhau đi trong ngày rét và nói nhỏ lời thương yêu hẳn phải có của Mẹ. Thụy Khuê đã viết, “… với Bé Ký… Trước khi vẽ, bức tranh đã phải xong rồi, và đặt bút là kết thức tác phẩm*” Có phải vậy mà giữ được cái thần của cảm xúc ngay lúc ấy. Tôi nghĩ một số nhà thơ đã sáng tác thơ theo kiểu này, viết theo ý tứ dẫn mình đi với cảm xúc ngay lúc đó.

HĐN: Sẵn, xin cho tôi được “múa rìu qua mắt thợ”. Tôi yêu mấy câu này, đoạn cuối trong bài thơ “Sông Thương Tóc Dài” của Hoàng Nhuận Cầm, hiện ở Hà Nội:

“mai đành xa sông Thương, thật thương
mắt nhớ một người, nước in một bóng
mây trôi một chiều, chim kêu một giọng
anh một mình náo động, một mình anh”.

Đơn giản, mộc mạc, chân thành, nhưng nó tải được vào lòng tôi chút khuấy động. Chị có lời phản biện nào không, thưa chị?

NTKM: HĐN ơi, cảm ơn bạn đã gợi nơi thềm sương này mắt nhớ, nước thương, dù tất cả chỉ một-mình, ta cũng một mình sao ta bị náo động, vì cái nhớ làm ta chao đảo chăng? Đây lại là vấn đề sở thích, mà tôi vốn không tranh luận về sở thích của người khác, không thể nào bảo anh thích thế sai, là đúng, Một câu văn một câu thơ mà đánh động được mình là nhân duyên của mình với nó, câu thơ gieo vào lòng mình những diệu âm, kéo mình vào miên viễn của mộng tưởng, những điều ấy ở mỗi người mỗi khác, vì thế mà có những ngưỡng mộ khác nhau. Đó là hạnh phúc cho người viết. Sở thích của người đọc cũng là một điều giác ngộ cho người làm thơ.

HĐN: Nhà văn Phan Tấn Hải từng đưa thắc mắc: “Tại sao trong tuyển tập “40 năm thơ Việt Hải Ngoại” lại thiếu tên Nguyễn Thị Khánh Minh?” Chị có lợn cợn chút gì không? Riêng tôi thì đồ rằng chuyện ấy nào có gì quan trọng, bởi theo cách nhìn đầy “gây hấn” của nhà thơ Phan Nhiên Hạo, tuyển tập ấy chỉ có 5, 7 tác giả là đáng đọc! Căng quá. Đôi khi người ta gây nên lỗi lầm và đôi khi mình nên thở phào cho sự đãng trí ấy. Chị nghĩ sao?

NTKM: Đây cũng là chuyện sở thích. Tôi viết trước hết cho chính mình, mọi chuyện sau đó tùy nhân duyên, và tôi không có tham vọng lọt vào tất cả danh sách sở thích. Tôi rất cảm động bởi bài viết của Nhà văn Phan Tấn Hải. Có ai đó đồng cảm coi như mình đã gặp được bạn tri âm. Có được tri âm để có thể chia sẻ những văn thơ hay của người, hưởng giây phút ngọn cỏ đang rung lên bởi tiếng chuông nơi núi xa, đó là điều làm tôi tự tại hạnh phúc.

HĐN: Chị có thật lắm con. Nhà nêm chật tiếng cười. Tôi chỉ mới trông thấy hai “cháu” Ký Ức Của Bóng và Bóng Bay Gió Ơi mà đã muốn nói chuyện thâu đêm. Sương xuống đầy bên thềm và chị thì quên mang khăn quàng cổ. Ca từ của Trịnh Công Sơn có “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi” thì con yêu tinh này e phải đến lúc quay gót. “Nhạc chiêm bao réo rắt. Đi đi những bước chân. Rất xanh. Bùa hương xanh”. Cảm ơn chị. Vào nhà nhớ kiếm viên thuốc. Sức khoẻ là vàng mà thơ là kim cương. “Thắp bao nhiêu lần ngọn lửa. Đốt bao nhiêu lời. Vẫn không tận mặt được Thơ…” Tạm biệt chị.

NTKM: Lời chia sẻ này là một kết rất hay cho phút tạm biệt nơi thềm sương mù…

HỒ ĐÌNH NGHIÊM
thực hiện bằng điện thư, cuối tháng 9, 2017  



*trích trang 41 trong tập tranh Quê Hương Mến Yêu của Họa Sĩ Bé Ký, USA 2002.

1 comment: