Hồ
Đình Nghiêm
Hồ Đình Nghiêm. Đinh Cường vẽ
Trên
đường đi, đôi lúc bạn phải tạm dừng lại, nghỉ chân. Bạn nhìn quanh, phát hiện
cái thưa thớt, rơi rụng dần của bầu đoàn lữ thứ, hao hụt.
Có
những cuộc sum vầy tình cờ, đưa đẩy bạn ngồi kề một nhân dáng, hai ba bóng người
đối diện. Những khuôn mặt, giọng cười đùa vô thưởng vô phạt, nhạt; làm bạn nhớ
tới câu “Tửu phùng tri kỷ, thiên bôi thiểu. Thoại bất đầu cơ, bán cú đa”.
Đám
đông nào mà chẳng vậy? Kia là rậm rật ánh sáng, nọ là bóng tối với so vai, trầm
mặc tự chọn. Tôi luôn yêu mến một người anh già tuổi, ốm yếu. Ốm vì trong tay
luôn nắm cốc rượu, chẳng thiết việc ăn. Yếu vì môi kia luôn ngậm điếu Winston,
chẳng màng tâm sự. Hai hàm răng, chỉ còn trụ chừng năm bảy chiếc, nói giọng Hà
Nội 9 nút, trầm, đục; nhưng nghe thanh tao mỗi bận anh dùng chữ Đếch. Làm cái đếch
gì mà ồn thế! Chẳng phải ai cũng thốt được chữ đếch nghe vui tai bằng anh. Một
người thầy vừa khó tính lại rất mực dễ chịu. Nửa xa cách nửa thân cận. Nửa
khinh mạn nửa khuyên can. Có lần anh bảo: Cậu nên nhớ điều nầy, là nhà văn cậu
nên ngồi trong bóng tối, sân khấu đèn mầu là nơi dành cho Hùng Cường Mai Lệ Huyền.
Tạp
chí Văn số 89, phát hành tháng 11 năm 1989 có đăng bài thơ của anh, đa số không
dài, thường chỉ bốn câu, bài “Sáng Sớm”:
mắt
nhắm mắt mở bước lật đật
đi
một thôi đường còn gà gật
con
lật con đật hai con đi
cũng
sống rất an nhàn kiểu Mỹ.
Thời
gian ấy tôi chăm viết. Anh gửi thư hối bài, cũng chỉ đôi dòng, chữ viết đẹp
trên một vuông giấy nhỏ. Có khi hỏi: Cậu đâu biết làm thơ, nhỉ? Có khi phân trần
khi nghe tôi hăm sẽ gửi sang một cái truyện dài: Tôi rất tránh chuyện phải để
cho người đọc chờ cả tháng. Một ngắt rời từng đoạn là điều không nên.
Nếu
anh thuận lòng, biết đâu tôi đã phóng lao, rồi phải cực lòng theo lao. Tôi đâu
biết làm thơ, thơ nằm ngoài tay với. Văn Magazine như tấm gương soi, qua đó tôi
thấy mặt mình rất xấu chai. Cần siêng tắm gội, chải tóc, ăn ở hợp vệ sinh mới
dám bước vào vườn thơm hoa lạ (nhỡ gặp ai trong mơ, mình cũng đã chuẩn bị chút
đỉnh sự tử tế). Nói đâu xa, chính anh là một rào cản. Tôi không đủ lực để tạo dựng
sức mạnh, bước qua. Bài “Lẻ Một” của anh là một trong muôn ngàn lực cản:
sách
một dẫy nằm trơ trên giá
cạnh
người thân thế cũng trơ trơ
sách,
người hai cõi cùng hư hoại
nơi
một ngàn chương thiếu một tờ.
Không
những nhìn thấy trước cơn hấp hối của chữ nghĩa, tháng 10 năm 1989, vào thời điểm
ấy đã sớm tựu thành ở anh nỗi ám ảnh về một màu đêm tận tuyệt, nơi dừng chân thực
sự của những lên đường trước, sau. Đời bày ra thức mà anh gọi là “Món Đất”:
đất
tưởng còn xa trời vẫn gần
giờ
đất đã gần trời xa dần
khăn
bàn trải sẵn cùng thân thế
đợi
chiếc khay trời món đất ăn.
Sang
tới tháng 11 năm 1992, tạp chí Văn số 125 đăng một thứ gần với “Bản Chúc Thư
Trên Ngọn Đỉnh Trời” (nhan tập truyện ngắn của anh), bài thơ mang tên “Nói Với
Mộ Chí”:
đá
kia tuổi đá đã nghìn năm
dựng
trên kẻ đã về trong đất
nó
sống hư huyền như nó mất
đánh
dấu làm chi chỗ nó nằm.
Càng
về sau anh càng thích thu bé lại, làm thơ nhiều, trong quán rượu, ngồi xe đò,
trên máy bay. Thôi viết dài, đêm khuya cúi bóng trên trang giấy, đèn thắp nhìn
thấy mực dầu đang xuống dần, đốm sáng lung lay. Tạm gọi là dài khi mỗi tháng chỉ
viết được Sổ Tay lay out chừng bốn năm trang, kể chuyện nắng Cali mà mưa
Seattle, ai vừa di dân đến ai vừa bỏ lại hành trang. Trang văn rất lành, không
bình phẩm chẳng khen chê một ai (mặc xác chúng nó). Trước sau chỉ là một kẻ đưa
tin, càng trung thực càng tốt. Nhưng, cốt lõi của thơ lắng đọng lời tự thán,
chút yếm thế, vẽ ra viễn cảnh chừng thảng thốt, “ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Và chữ dùng, ám chút hằn học, bất ưng: “Thằng Viết Mướn”.
những
trang đời viết còn dang dở
sẽ
có bàn tay ấy viết giùm
ngón
cái sang trang và ngón út
viết
giòng vuốt mắt phút lâm chung.
Nhà
văn Mai Thảo (1927-1998) hàng tháng viết tên cùng địa chỉ tôi trên bì thư vàng,
ra bưu điện mua tem, con mộc Westminster đóng lên và tờ Văn chưa một lần lỗi hẹn
tới vùng băng giá.
Lý
ra tôi chỉ nên nói riêng về anh, nhưng khi tìm đọc lại những số báo Văn cũ, úa
mầu, tôi đụng phải một bài thơ “thần sầu” của Cao Đồng Khánh (Văn số 131, tháng
5.1993). Một tiếng thơ lạ, (đôi khi chữ lót của anh lại thiếu dấu huyền) người
không có tên trong tuyển tập 40 năm thơ hải ngoại và cũng đã vắng mặt dài lâu tựa
Mai Thảo. Cao Đồng Khánh, tác giả của thi tập nổi tiếng “Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn”
sinh năm 1941 và mất năm 2000. Sau đây là bài vừa chạm trán, “Địa Chỉ Tình
Yêu”, cầm lòng không đậu buộc phải chép lại, thay tưởng nhớ người bạc mệnh:
đời
tứ xứ! em ơi. thành
phố tôi tróc nóc
mưa
bão nào. hơn nữa. cũng không sao
có
người thuỷ tận đi tìm sắc nước
con mắt màu lý lục
không yên.
con
mắt có đuôi vẫy gọi trí nhớ
chiếc
lá cuối cùng thắm thiết ra giêng
như
vết môi son thoa trên đông chí
bay
ngập vào trong tiểu sử phiêu lưu.
tháng
chạp bạch kim. tháng giêng tóc bạc
mùa
đông lạ kỳ khuya sớm tuyết trân sa
tháng
chạp gió lúc. tháng giêng nước nổi
những
tháng trời gầm em ở thật xa.
mưa
bát ngát phía bên trời đánh lớn
trên
đường sét sáng trưng ai đó quẩn quanh
sầu
cố xứ nặng nề hơn thế sự
chuyến
xe đò lên xuống máy long lay.
mặt
trăng sắc xảo trong sơn cùng ký ức
địa
chỉ tình yêu, em. hãy nhớ tận tường
con
đường máu nóng đưa vô hương lộ
có
một ngôi nhà trong góc giác quan.
ở
ngoài bão táp. trong lòng giông tố
hãy
ghé vào đây, em. bàn ghế tận tình
em
sẽ gặp em, như, một người mất tích trở lại
chải
gỡ đời tư bằng gương lược liêu trai.
những
tàn tích hệ luỵ trồng ngoài sân, phong cảnh
về
sau thành thế núi hình mây
ngôi
nhà cảm động nồng nàn sự thật
yểu
điệu vô cùng thân thể trăm hương.
tháng
giêng, trên ấy tuyết rơi, dưới nầy mưa lũ
ở
giữa, cuộc đời, lạnh lẽo long đong
mặt
trời quốc sắc trong tư phần phú quý
có
một ngôi nhà trong khoé mắt em.
Trong
ý nghĩ cạn xợt của tôi, bài thơ trên có thể là một biểu tượng cho hai từ: Hải
Ngoại. Giạt trôi. Giông bão. Hoạn nạn. Tấp bồi. Lưu lạc. Sống thở bằng trí nhớ
đã thôi còn nguyên trạng. Không thể hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười.
Một bài kệ dài chất không thứ lớp những rạn vỡ từ con chữ khác thường, lạ lẫm.
Mà tôi yêu quý.
Có
người nhiễu sự đặt dấu hỏi: “Thơ đến từ đâu?” Tôi câm lặng. Có người dùng từ thậm
sáo: “Tôi là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi”. Tôi tủi thân. Tôi vụng về.
Tôi chỉ biết thổn thức khi nhớ đến hai tài năng đã về “núi lạ”. Cảm ơn anh Mai
Thảo. Cảm ơn anh Cao Đồng Khánh. Mộ chừng nghe cỏ mọc xanh!
HỒ
ĐÌNH NGHIÊM
No comments:
Post a Comment