Hoàng Ngọc Nguyên
Văn Học Press & Việt Ecology Press
ISBN # 9781989993453
www.amazon.com, các hiệu
sách
“Vòng
Đai Xanh” của Ngô Thế Vinh được xem là một tiểu thuyết chiến tranh, được viết rất
thực bởi một quân y sĩ xông pha ngoài trận tuyến. Cuộc chiến tự vệ của người
dân Miền Nam chống xâm lược của Cộng Sản Miền Bắc kéo dài đến 15 năm (1960-75),
nếu không nói đến hoạt động khủng bố, phá hoại 2-3 năm trước khi chiến tranh
chính thức khai mào, cho nên chúng ta không thiếu những tác giả viết về cuộc
chiến đó, cảm khái từ những mất mát, đổ vỡ, tan hoang của con người, của tuổi
trẻ, của gia đình, của xã hội, của đất nước vì chiến tranh. Không thiếu, nhưng
chắc không thừa, không đủ khi nhìn đến “quy mô” của cuộc chiến, chiều dài của
nó về thời gian và không gian, cùng với những biến chuyển phức tạp qua các thời
kỳ. Mặt khác, phần lớn những tác giả của thời đó, thường là quân nhân (và một số
người không phải là “fan” của cuộc chiến đó), chỉ có phương tiện, thời gian và
cảm hứng để viết những tác phẩm ngắn. Và bình thường, những truyện ngắn thường
chỉ phơi bày những bi kịch thời chiến mà không có bất kỳ phê phán “tội ác chiến
tranh” nào. Tưởng như những người phản chiến mượn ngòi bút để thể hiện ý chí của
mình. Chúng ta không có một đại tác phẩm như “Chiến tranh và Hòa bình” của Leo
Tolstoy. Hay “All Quiet on the Western Front” của Erich Maria Remarque, hay “A
Farewell to Arms” của Ernest Hemingway. Hay “The Naked and the Dead” của Norman
Mailer…
VĐX,
một phần nào đó là một tiểu thuyết chiến tranh, ra mắt vào năm 1970. Tác phẩm
này được trao Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971 – giữa khi tác giả đang lặn
lội trong một đơn vị Biệt kích Dù vào sinh ra tử trong vùng cao nguyên rừng núi
biên giới thuộc Vùng 2 Chiến thuật. Ngô Thế Vinh không thể từ bỏ đơn vị để về
Saigon nhận giải và hiểu rõ hơn vì sao mình được vinh dự đó. Khó kiếm ra tài liệu
cho biết rõ hơn giải thưởng này đã được tổ chức thế nào, giám khảo là những ai,
và ai đã từng được giải thưởng đó… Trong trí nhớ rất khả nghi của một người cao
niên tuổi già sức yếu, tôi nghĩ đến những bậc trưởng thượng trong làng văn học
Miền Nam như Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn… Trong những
người đã nhận giải, tôi còn nhớ được nhà văn Trang Châu, cũng là một y sĩ tiền
tuyến. Giải thưởng của Ngô Thế Vinh là vào năm 1971, cho nên có thể kết luận
đây là Giải thưởng Văn học Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã lập ra từ năm 1969
(?), thay cho những giải đã có trước đó.
Tôi
đã cố tìm đọc trong ấn bản mới nhất của VĐX để hiểu được lý do vì sao ban giám
khảo đã chọn tác phẩm này để trao giải văn chương. Chẳng lẽ cứ “độc đoán” trao
giải mà không cần một lời bình phẩm, khen ngợi? Cũng có thể sự lựa chọn VĐX là
một quyết định cực kỳ tế nhị, các giám khảo đã đồng ý về sự lựa chọn, nhưng
cũng đồng ý giữ im lặng, không giải thích quyết định của mình, để tránh đụng chạm
hay phiền phức về sau? Một lời không nói có khi còn hơn vạn lời nói ra? Giải
thưởng mang tên tổng thống, bởi thế sự lựa chọn người được giải cũng có thể được
diễn dịch có sự đồng ý của ông. Nhưng cũng khó tưởng được Tổng thống Thiệu có
thì giờ đọc, hay có thể thích một tác phẩm có nội dung như VĐX.
VĐX
sẽ là một tác phẩm muôn đời gây tranh cãi bởi vì VĐX là một tác phẩm chính trị,
một tiểu thuyết chính trị! Chính trị luôn luôn là vấn đề gây tranh cãi muôn đời.
Huống chi vào thời đó, VĐX nêu lên một vấn đề chính trị đương đại có tính cách
quyết định sự sống còn của đất nước Miền Nam cho dù không hẳn chúng ta trước
đây đã nhìn thấy ở mức độ quyết liệt đó. Bối cảnh hay trọng điểm chính là một
vùng đất rất chiến lược theo đúng nghĩa, rất trọng yếu cho an ninh, an toàn của
Miền Nam, một tiền đồn then chốt cho chế độ Miền Nam, thế nhưng người Mỹ đã xem
nhẹ tiền đồn Miền Nam của Thế giới Tự do như thế nào thì chúng ta cũng “thiếu cảnh
giác” đối với tiền đồn của đất nước của mình như thế đó. Người Mỹ mất tiền đồn
này (Miền Nam), họ chỉ nhún vai và quay qua hướng khác. Còn chúng ta? Mất tiền
đồn này (tức cao nguyên trung phần của đất nước) thì chỉ có một con đường vong
quốc trước mặt!
Có
thể hình dung một giám khảo của giải thưởng này đã đưa ra một phát biểu ngắn gọn
sau đây: “VĐX không phải là một tác phẩm văn học, văn chương. Nhưng đó là một
tiểu thuyết chính trị hiếm có, đặc biệt hiếm có. Đặc biệt tế nhị vì nhìn thẳng
vào thực tại đáng quan ngại của Miền Nam hiện nay. Tiểu thuyết chính trị đã rất hiếm có thời nay
vì thường phải đụng chạm với các thế lực lớn trong xã hội. Có khi không tránh
được đụng chạm đến tôn giáo. Đến các địa phương. Tiểu thuyết chính trị VĐX
chuyên chở một nội dung không có hư cấu tí nào mà nhìn thẳng vào một thực tại
chính trị có tính sống còn của đất nước một cách xác thực nhằm đưa ra một cảnh
báo nghiêm trọng cho lãnh đạo, cho quốc gia như thế thì thật đặc biệt hiếm có.
Một nội dung rất thẳng thắn, sâu sắc, trung thực một cách táo bạo nói lên tất cả
sự dũng cảm của tác giả, nhưng không chỉ là sự dũng cảm mà là một tấm lòng lo lắng
tha thiết đối với dân, với nước của một trí thức, một sĩ phu tưởng rằng chỉ có
từ thời xa xưa”. Những giám khảo còn lại hẳn đồng tình với ông, vì đương nhiên
họ đã cũng đọc hết tác phẩm này. Người
ta không thể ngoảnh mặt với vận mệnh dân tộc khi cảm thấy bờ vực không xa!
Khi
nói đến chính trị là nói đến các thế lực đang tranh chấp và chia sẻ quyền lực,
tiếng nói của người dân và vai trò phán quyết của công lý, pháp luật. Khi nói đến
chính trị của thời đó là nói đến những năm sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng
thống Ngô Đình Diệm bị sụp đổ (1963), một thời chiến tranh đang bùng phát khắp
mọi nơi trên lãnh thổ Miền Nam, sau biến cố Vịnh Hạ Long (tháng tám năm 1964)
và quyết định Mỹ chính thức đưa quân chiến đấu đến Việt Nam (tháng ba năm 1965)
để giúp Miền Nam khỏi rơi xuống bờ vực và giành lại thế chủ động chiến trường.
Nhưng chính trị của thời đó là sự tranh chấp quyền lực của các phe phái trong
quân đội (các tướng tá sổng chuồng, từ “cách mạng” 1-11 đến “chỉnh lý” 30-1 và
hàng loạt đảo chánh thật, đảo chánh giả, cho đến khi một số tướng lãnh lộ mặt
thật ra, chính thức cầm quyền tháng sáu năm 1965), sự lạm dụng tín đồ, đặc biệt
là học sinh-sinh viên, với hàng loạt xuống đường trong bốn năm 1964-67 khi người
tu bỏ đạo để bon chen với đời, và tính ấu trĩ của đảng phái khi người ta không
hề nghĩ đến chuyện làm sao đến với dân và làm cho người dân đến với nhau… Sự
xung đột giữa những thế lực lớn này để nắm quyền lãnh đạo đã bất kể người dân
đang ngày càng bất an, khốn đốn về thời cuộc, chiến tranh ở thôn quê, khủng bố ở
thành thị, và chính trị ở Saigon, điêu đứng về công ăn việc làm và kinh tế lạm
phát. Và bất kể một cuộc chiến có tính sống còn của đất nước, của chế độ, và tư
cách, uy tín, danh dự phải giữ đối với một đồng minh trụ cột trong cuộc chiến
này mà chúng ta đang lệ thuộc chẳng phải hầu như hoàn toàn mà là hoàn toàn mặc
dù đồng minh này ngày càng mất tín nhiệm nước chủ nhà và xem cuộc chiến chống cộng
này là cuộc chiến của họ!
Người
dân Saigon bị cuốn hút vào chính trị Saigon – các tướng tá, các thầy, các cha
và đồng đô la xanh, đô la đỏ, đặc biệt trong những năm đó. Họ cũng chẳng hiểu
bao nhiêu chuyện “địa lý chính trị” phức tạp của Miền Nam, vùng nào thì người
nào làm chủ (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, Đại Việt Cách Mạng,
Việt Quốc…), cho nên đương nhiên chẳng hiểu được chuyện chính trị ở vùng cao
nguyên trung phần. Năm 1964 chẳng hạn, chẳng mấy ai biết hay bận tâm với biến cố
người Rhadé nổi dậy ở một trại lính ở Ban Mê Thuột giết chết bao nhiêu lính và
cả thường dân người Việt[i]. Người ta nghe loáng thoáng đến phong trào FULRO,
nhưng chẳng mấy ai biết đây là tên gọi của Mặt trận Thống nhất Đấu tranh cho
các Sắc tộc Bị áp bức – Front Unifié de Lutte des Races Opprimées[ii]. Tại sao
phong trào của người Thượng mà mang tên tây? Câu hỏi này đáng cho những bậc thức
giả chính trị phải tỉnh hẳn dậy!
Biến
cố này xảy ra vào tháng chín năm 1964, giữa khi chính trường Saigon đang cực kỳ
nhiễu nhương: các thượng tọa không lý gì đến chuyện “từ bi hỉ xả”, đành lòng để
Dương Văn Minh bác đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn, để cho Nguyễn Khánh xử bắn
ông (5-5); hai tôn giáo chính chẳng có một lời hòa giải với nhau; Tướng Khánh lợi
dụng Hội đồng Quân nhân Cách mạng đưa ra Hiến chương Vũng Tàu (15-8), trao cho
ông ta quyền tổng thống. Việc không thành vì sư sãi và linh mục xuống đường,
nên ngày 8-9 Khánh lập “tam đầu chế” Minh-Khánh-Khiêm (Dương Văn Minh, Nguyễn
Khánh, Trần Thiện Khiêm), tồn tại chưa được hai tuần. Sau đó, hai tướng Dương
Văn Đức và Lâm Tấn Phát lại tổ chức “biểu dương lực lượng”, mở cơ hội cho Nguyễn
Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ can thiệp và nhảy lên sân khấu chính trị. Ngày 25-9,
nhóm “Young Turks” (sĩ quan trẻ) chính thức ra mặt, yêu cầu Khánh giải nhiệm
Khiêm và 4-5 tướng khác… Khiêm và Minh đều phải rời khỏi nước cho các tướng trẻ
yên tâm! Sau đó, ngày 26-9, người ta dựng lên Thượng Hội đồng Quốc gia. Lãnh đạo
ở Saigon còn không lý gì đến chuyện nổi loạn này và nỗi lo lâu dài nó đặt ra,
huống gì người dân. Làm sao họ có thể để ý vụ nổi loạn ở “xứ Thượng” – tưởng
như chuyện xa vời, không liên quan gì đến mình. Đương nhiên, ít người hiểu ý
nghĩa trầm trọng của vấn đề.
Phải
nói cho ngay tình, tuy khẩu hiệu quen thuộc là “Kinh Thượng đoàn kết một nhà”,
nhưng ai ở nhà nấy, không hề biết đến nhau, không sống chung trong một nhà cho
nên chẳng cần nói chuyện đoàn kết. Quan hệ Kinh Thượng này còn xấu hơn quan hệ
giữa người da trắng và da đen ở Mỹ. Người da trắng gọi người da đen là
“nigger”, một số người Kinh gọi người Thượng là “mọi”. Người da trắng còn lập
gia đình với người da đen. Người Kinh hầu như không lấy người Thượng – ra đường
còn không nhìn những phụ nữ Thượng ăn mặc thế nào! Người da trắng biết gốc gác
người da đen hơn người Kinh biết người Thượng. Chúng ta thường đơn giản chỉ
nghĩ đến người Thượng như người sống tách biệt trong vùng rừng núi[iii]. “Nụ cười
sơn cước” chỉ là chuyện hoang đường, mua vui. Ít người hiểu rằng trong dân Thượng
có cả dân Chàm, Chân Lạp, Chiêm Thành… mang nỗi hận mất nước – con cháu Chế Bồng
Nga. Cho nên “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” chẳng có trong quan hệ giữa
Kinh/Thượng. Nguy hiểm hơn nữa, người Thượng vẫn xem phần đất mà họ đang sống
trên đó là giang sơn của riêng họ, nhiều người vẫn muốn có một nước riêng (Đông
Sơn) và người Kinh hãy tránh xa, đừng lui tới (Anh khách lạ, đi lên đi xuống).
Chẳng ai nghĩ hay lo sợ vì mối quan hệ “a divided house cannot stand” này vì phần
lớn chúng ta không thấy được hay thấy hết vị trí tiền đồn chiến lược của vùng
Trung Nguyên này trong cuộc chiến một mất một còn chống sự xâm lăng của Miền Bắc.
Nói
dài dòng, lòng thòng như thế chỉ nhằm nêu bật một điều: sự tỉnh thức của tác giả
VĐX và hoài bão thức tỉnh mọi người của NTV qua VĐX. NTV đương nhiên cũng bị cuốn
hút vào thời sự chính trị của Saigon tao loạn. Vào những năm đó, anh đang là
sinh viên y khoa và là chủ bút/tổng thư ký của báo Tình Thương, một tờ báo sinh
viên nhưng vượt cả những rào cản thường tình của một tờ báo sinh viên để dấn
thân vào cuộc sống của đất nước, của xã hội. Đó là chuyện hiếm có chỉ thấy ở
báo chí hung hăng tranh đấu nhảm nhí ngoài Huế. Nhưng Tình Thương không tranh đấu
và không nhảm nhí. Hai chữ dấn thân có ý nghĩa nhập cuộc. Bởi vì Tình Thương
không thể đứng ngoài hay đứng trên khi cuộc sống của người dân ngày càng bất
an, vận mệnh đất nước mon men đến bờ vực. Có thể biến cố nổi loạn của phong
trào FULRO vào tháng chín năm 1964 đã là “giọt nước tràn ly” đối với NTV. Như
được thức tỉnh, anh bắt đầu tìm hiểu như một nhà báo, và hẳn phải bàng hoàng
trước thực tại chính trị ở vùng cao nguyên biên giới này. Khi tốt nghiệp, anh
trở thành quân y sĩ cho một đơn vị Biệt kích Dù hoạt động trên vùng cao nguyên
này. Anh có thêm điều kiện, kinh nghiệm thực tế trong tìm hiểu đời sống chính
trị và xã hội của người dân Thượng. Có thể đó là bối cảnh của sự ra đời của
VĐX.
Lúc
ban đầu, NTV không có ý định viết tiểu thuyết mà đặt trọng tâm vào thể tài
phóng sự điều tra. Phóng sự điều tra dĩ nhiên phải thực. Nhưng thiên phóng sự
điều tra này đương nhiên đụng chạm đến nhiều vấn đề chính trị nhạy cảm, ví dụ
như Mỹ với sức mạnh quân sự (USOM) và viện trợ kinh tế (USAID), đã “soán đoạt”
chủ quyền của chính phủ Saigon ít nhất ở vùng này (bài hát thịnh hành hồi đó:
“Cái nhà là nhà của ta, USAID, USOM làm ra”). Lính Mũ Nồi Xanh (Green berets)
là một lũ kiêu binh, nghĩ rằng có thể làm giặc được, chỉ kém lính “lê-dương”
(légion) thời thực dân Pháp. Binh đoàn này có thể thành công trong ngăn chận
lính Bắc Việt xâm nhập vào vùng trung nguyên, nhưng cũng gây hãi hùng cho người
dân trong những cuộc hành quân có tính cách “lùng và diệt” của họ. Các tướng
già theo tây, tướng trẻ (Young Turks) Mỹ giúp khôn lớn xem chừng thích quyền
hành hơn quyền bính, ham chính trường mà né chiến trường, cho nên liên miên đảo
chánh. Các thầy dường như cũng chẳng biết gì chuyện đất nước có giặc – nhất là
sau khi Thích Trí Quang được lên bìa tạp chí Time ngày 22-4-1966 với đề tựa
“The Buddhist Bid for Power”. Dân Saigon sống lo sợ nghèo đói và VC khủng bố…
Và quan trọng hơn cả, những người lãnh đạo đất nước chẳng có đường lối nào để
đánh giặc, phó thác tất cả cho cố vấn Mỹ. Điều đó càng hiển nhiên hơn khi chúng
ta nhìn vào chính trị ở vùng trung nguyên địa đầu này. NTV muốn nêu lên tất cả
những điểm này. Anh thừa can đảm làm chuyện đó, nhưng làm sao những người kiểm
duyệt có đủ can đảm thông qua những chuyện này? Bởi thế mà anh phải tìm cách nặn
lại thiên phóng sự điều tra VĐX thành một tiểu thuyết.
Theo
lời NTV, một trong những lý do, hay “động lực” chính, của ông khi dấn thân vào
VĐX là “The Green Berets”. Tiểu thuyết này ra đời năm 1965, được xem là một
thiên “anh hùng ca” của những người lính mũ nồi xanh đã bình định được khu vực
biên giới cao nguyên này và đem an vui đến cho người dân, ngược lại với sự “bất
lực, hèn nhát và nhũng lạm” của quân chính phủ Saigon cùng sự độc ác, tàn bạo của
kẻ thù VC. “Green Berets” là tác phẩm phổ biến nhất – ít nhất là đối với hàng
trăm ngàn lính Mỹ đang tham gia cuộc chiến ở Miền Nam vào lúc đó. Cái tai hại của
cuốn sách là vô kể khi nó ảnh hưởng đến động thái của lính Mỹ ở VN. NTV xem cuốn
sách này là một sự bịa đặt trắng trợn mang nặng tính thực dân một thời cần phải
vạch trần. Ông mong VĐX phản biện sẽ cho người ta thấy sự thật hơn – ít ra từ
tác giả là người trong cuộc.
Câu
chuyện VĐX đơn giản một cách phức tạp – hay phức tạp một cách đơn giản. Một nhà
báo ở Saigon quyết định lên vùng Thượng Trung Nguyên để tìm hiểu về người Thượng
sống ở vùng tuyến đầu này (Nhà báo này trong thực tế không ngoài ai khác là
NTV!). Cùng mục đích là Davis, một nhà báo Mỹ làm cho một tờ báo lớn (New York
Times, Washington Post, Newsweek hay Time?) muốn nắm tình hình ở một nơi thử
thách nhất cho chính sách “Mỹ hóa chiến tranh” 1965 của Tổng thống Johnson. Hai
nhà báo đã sớm khám phá tính phức tạp khôn lường của chính trị ở môt nơi “nhỏ
như lỗ mũi”, hầu như biệt lập, tách rời với “thế giới chung quanh” (chế độ Miền
Nam của người Việt với thủ đô là Saigon). Người Thượng sống an phận, biệt lập,
không muốn dính líu gì đến người Việt quốc gia và VC, và hoan hỉ với người Mỹ,
viện trợ Mỹ, quân Mỹ chiếm đóng… Thậm chí, một số người chủ tâm ly khai (FULRO)
còn nghĩ rằng Mỹ sẽ giúp họ lập nên một nước Đông Sơn riêng biệt. Việt Cộng
đương nhiên muốn khuấy phá không ngừng để ép người dân Thượng sợ chúng và đi
theo chúng, tránh xa người Mỹ. Bởi thế mới có cuộc thảm sát đến cả 600 người
dân thường ở một nơi lính Mỹ không “bảo hộ”.
Trong
khi đó, chính phủ Saigon cũng lúng túng, trở nên thụ động trước sự lấn áp của
người Mỹ. Sự thiếu lãnh đạo, thiếu chính sách thể hiện ở hai ông tướng thường
được nói đến như tư lệnh vùng: một ông tướng Trị không có tham vọng vì bất lực
trước người Mỹ và tham nhũng; một ông tướng Thuyết tham vọng “vương tướng”
nhưng không có quyết tâm hành động vì thiếu phương hướng. Theo lời tướng Trị:
“… vai trò của vị tướng lãnh trên cao nguyên hiện tại là chánh trị chứ không phải
quân sự mà tôi chỉ là một nhà quân sự thuần túy…”. Ông miệt thị người Thượng:
“Sao tôi lại không biết cái chân lý bọn Thượng chỉ tuân lệnh và tri ân những ai
đem thức ăn vào miệng chúng nhưng bọn Mỹ cũng biết điều đó, tụi nó muốn độc quyền
tranh thủ nhân tâm bằng cách này”. “Tướng Thuyết đã không thành công khi đòi cứu
trợ phải qua tay nhà cầm quyền VN”. Nhà báo cũng nhận định: “Chính phủ VN đã lầm
lẫn khi trao toàn quyền cứu trợ đám người Thượng tỵ nạn vào tay người Mỹ”. Đúng
thôi. Như thế thì người Thượng chỉ biết có người Mỹ, làm sao họ cần nhìn mặt
người Việt ở đây? Đặc biệt, tác giả đã để ít nhất 1/3 số trang để nói đến chính
trị Saigon nhiễu nhương thời đó. Người ta chỉ biết tranh chấp quyền hành, chẳng
hề biết đến những bài toán lớn của đất nước. Mỹ muốn Saigon khoán trắng cuộc
chiến cho Mỹ? Tốt thôi. Càng khỏe! Trong khi đó, người dân Saigon sống trong bất
an, lo sợ: các tướng đảo chánh; học sinh, thanh niên và cả giáo dân nghe lời
các thầy, các cha xuống đường; VC tăng cường khủng bố để trả thù người Mỹ leo
thang… Báo chí thì ngột ngạt vì chế độ kiểm duyệt…
VĐX
đã nói khá rõ về thái độ “thực dân mới” của Mỹ: xem thường nước chủ nhà và tự
tung tự tác, xuất phát từ thái độ đáng xem thường, tắc trách của Saigon. Người
ta xem quân đội Saigon như không có cho nên Green Berets mới trở thành kiêu
binh. Vụ thảm sát mấy trăm người Thượng là một “tai tiếng” ghê gớm: “Còn đối với
những người lính Mũ Xanh thì việc thí sáu trăm sinh mạng là một chứng tỏ đắc thắng
của họ. Hậu thuẫn vững chắc của bọn này là những đơn vị Dân sự Chiến đấu Thượng
và một lũ thông ngôn”. Mấy năm trước đó, cũng có vụ lính Thượng giết chết mấy
chục người lính Saigon trong cùng trại. Người Mỹ tin rằng với chính sách “Mỹ
hóa chiến tranh”, vùng này sẽ an toàn tuyệt đối, ngăn chận lính Bắc Việt theo
đường mòn Hồ Chí Minh mượn ngõ đi vào Miền Nam. Họ cũng nghĩ việc truyền giáo sẽ
làm tăng ảnh hưởng của người Mỹ trong khu vực, cho dù ông mục sư này vẫn quen
ăn trên ngồi trốc và “mọi người vì mình”. “Lối suy nghĩ thực tiễn của ông (mục
sư) vẫn mang nguyên bản chất của người Mỹ… Hình ảnh một vị thừa sai mắt xanh
râu đỏ hùng hồn đứng rao giảng đạo về sự hiện hữu của Chúa cùng với những hy vọng
hạnh phúc ở đời sau trước đông đảo đám con chiên phủ phục nghèo đói như kéo tôi
lùi lại thời gian của hàng mấy thế kỷ văn minh”.
Điều
phải nói ở đây là chẳng những người Mỹ không hề nhắc nhở cho người Thượng hiểu
họ trước hết phải là người VN và phải chiến đấu như người Việt chống kẻ thù ngoại
xâm là Miền Bắc. Trái lại, dường như họ còn khuyến khích người Thượng mơ tưởng
nhiều hơn chuyện “thoát Việt”, xây dựng một đất nước riêng của người Thượng có
Mỹ bảo hộ…
Câu
chuyện VĐX “tạm” kết thúc có hậu một cách u buồn vì thực không có giải pháp.
Phong trào phản chiến bùng phát ở Mỹ, và Tòa Bạch Ốc thời Nixon phải tính đến
chuyện “giải Mỹ hóa”, hay “Việt hóa” chiến tranh. Cho nên cái trại Daksut tiền
đồn này được vất trả cho Việt Nam (tử tế dữ!). Tác giả đã trải qua những ngày
tháng cực kỳ khó khăn vì chế độ kiểm duyệt ở Saigon khiến cho ông muốn bỏ nghề.
Rồi sáu tháng nằm bệnh viện trên cao nguyên vì “tai nạn nghề nghiệp” (VC tấn
công). Người bạn Davis bị tử thương bởi một vết đạn ở đầu và chết “ngay trên đường
di tản”. Tác giả còn đơn độc thêm vì sự biến mất lẳng lặng của cô Nguyện, người
bạn đời trong mộng, được xem là con chim sơn ca trong đời nhưng nay đã bỗng “cất
cánh bay cao và chối từ quá khứ”. Trong sự chuyển giao VN hóa chiến tranh này,
người Thượng thì hoang mang, chẳng biết phải dựa vào ai đây; người Mỹ không vui
vì bỏ cuộc chơi; người Việt thì lúng túng. “Và điều quan trọng hơn nữa là cả
người Thượng và người Kinh sau mấy lần đổ máu đều hiểu thấm thía rằng bởi trong
cái mối tương quan môi hở răng lạnh, họ chỉ còn một cách là xích lại gần nhau để
hợp tác xây dựng một cộng đồng quốc gia VN mới.
Kết
luận đó là khoảnh khắc lạc quan hầu như duy nhất trong VĐX, có lý do “chính trị”
của tác giả. “Cái viễn ảnh tốt đẹp của vùng Đất Hứa Cao Nguyên còn phải trải
qua nhiều máu, mồ hôi và nưóc mắt”, tác giả cảnh báo. Nhưng, đau buồn thay, để
“trải qua nhiều máu, mồ hôi và nước mắt”, chúng ta cần nhiều thì giờ, rất nhiều
thì giờ, mà chúng ta trước đã hoang phí, và đến lúc đó vẫn chưa đủ ý thức về
nhu cầu sống còn chúng ta phải chạy đua “mệt nghỉ” với thời gian.
Theo
“Biên Niên Sử Cuộc Chiến Vô Đạo”, “Vào đầu tháng ba, lính BV đã bao vây Ban Mê
Thuột ở Cao nguyên Trung phần. Sự tập trung đông đảo lính chính quy MB, cùng với
những tin tức từ tù binh, liên lạc truyền tin của địch bị bắt được, cùng với những
tài liệu tịch thu, cho thấy BV đang chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô vào vùng
này. Các đơn vị CS cắt các trục giao thông chính ở vùng II. Ngày 10-3, quân BV
mở tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ chính của Trung Nguyên, đến giữa
ngày đã tràn ngập khắp tỉnh lỵ. Sư đoàn 23 bị tan rã, và BMT, thành phố chính của
tỉnh Darlac, bị chiếm hoàn toàn ngày 13-3. Nhiều lính của Sư đoàn 23 Bộ binh rã
ngũ để lo đưa gia đình đi chạy giặc. Theo một nhận định, phản ứng lo sợ chuyện
nhà đến mức bỏ ngũ này của nhiều binh sĩ của Saigon là một “hiện tượng” đóng
góp “nặng nề” cho sự sụp đổ của quân Miền Nam trong mấy tháng sau đó”.
Đúng
là “cái chết được báo trước!”
Giả
sử những người giám khảo của Giải Văn Chương Toàn Quốc 1971 gởi riêng cho Tổng
thống Thiệu một memo nói lên những quan tâm của họ về những cảnh báo họ cảm nhận
từ VĐX về an ninh quốc gia?
Hay
giả sử thay vì đưa tác giả VĐX ra tòa về tội nói xấu quân đội VNCH làm hoang
mang chiến sĩ, những người có trách nhiệm cùng ngồi lại để xem nếu VĐX đã bị
tháo gỡ vì Mỹ rút, an ninh của tiền đồn này sẽ thế nào và ảnh hưởng đến an toàn
của đất nước ra sao?
Chúng
ta có đầy những sai lầm, thiếu sót, khiếm khuyết trong chính sách Trung Nguyên.
Thế
nên!
HOÀNG
NGỌC NGUYÊN
Utah, Giữa Mùa Đại Dịch
26.02.2021
Hoàng Ngọc Nguyên, tốt
nghiệp Cao học Hành chánh (Sài Gòn), đã qua các trường Hertford College
(Oxford) và David Eccles School (University of Utah). Theo đuổi “nghiệp báo” sớm,
chính thức vào nghề với tờ The Saigon Post từ 1968 tới 1975. Tham gia nhóm nghiên
cứu đổi mới kinh tế của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh trong những năm 1980. Sang Mỹ,
anh tiếp tục viết báo, cộng tác với Việt Tribune, Saigon Weekly, Bút Tre và hiện
định cư tại tiểu bang Utah.
[i] Biến cố này xảy ra vào khoảng cuối tháng
chín năm 1964. Trong The Vietnam War, An
Almanac, xuất bản năm 1985, tổng biên tập là John S. Bowman, ở trang 92, tác giả
ghi lại biến cố này như sau: “21-28 tháng chín 1964: Nam Việt Nam. Người dân bộ
lạc Rhadé (hay Edé) ở cao nguyên trung phần, một trong nhiều nhóm được gọi là
dân Thượng, chẳng có mấy cảm tình với cả chính phủ Saigon hay Việt Cộng, nổi loạn
và đòi quyền tự trị cho những bộ lạc trong vùng rừng núi của họ. Cuộc nổi dậy bắt
đầu từ ngày 20-9 khi khoảng 500 người Thượng bộ lạc giết chừng 50 binh sĩ Quân
đội VN tại một trại Lực lượng Đặc biệt (LLĐB) gần Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ của
Darlac. Cuối cùng, Tướng Nguyễn Khánh đứng ra thương thảo kết thúc, nhưng phía
quân sự Hoa Kỳ có một vai trò chính yếu trong việc giữ cho quân đội Miền Nam
không tấn công đám nổi dậy. Những người Thượng nổi loạn này còn chiếm cứ một trại
LLĐB ở Bonsarpa, gần biên giới Campuchia; một lần nữa, những cố vấn quân sự Hoa
Kỳ thương lượng. Và đến ngày 27-9, máy bay trực thăng của Mỹ được phép di tản
60 người Miền Nam bị bắt làm con tin ở Bonsarpa. (Một nhóm dân Thượng khác đã đầu
hàng ngày 26-9 sau khi cố vấn Hoa Kỳ thương thảo). Đến ngày 28, tất cả những
người Thượng này đầu hàng. Khánh quy trách cuộc nổi dậy này cho “Cộng Sản và
ngoại quốc” và xem chừng Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã bắt đầu tìm cách gây ảnh
hưởng đối với một số người Thượng bằng cách khai thác sự chống đối lâu đời của
người Thượng đối với chính phủ Saigon. LLĐB của Mỹ làm việc với người Thượng để
huấn luyện họ chiến đấu chống lại VC nhưng Mỹ chẳng thực sự thành công trong việc
giành sự ủng hộ của những sắc dân độc lập này bởi vì họ chỉ muốn để họ yên”.
[ii] The Encyclopedia of the Vietnam War, xuất bản
năm 1998, tác giả là Spencer C. Tucker, trang 143-144, viết như sau về FULRO:
“Mặt trận Đấu tranh Thống nhất cho Sắc tộc bị Áp bức: một phong trào dân tộc
thiểu số của người Thượng (Le front pour la libération des Montagnards (FM),
Khmer Krom (FLKK), và Chàm (FLC). FULRO chuyển biến từ phong trào Bajaraka
(phong trào hợp nhất các sắc dân Bahnar, Jarai, Rhadé, và Koho) được hình thành
để chống lại Chương trình Phát triển Điền địa của Tổng thống NĐD, tịch thu đất
của người Thượng và ép buộc họ vào những khu tái định cư người dân tộc thiểu số.
“Người
ta biết tiếng FULRO vào năm 1964 qua một cuộc binh biến tại những trại Civilian
Irregular Defense Group chung quanh Ban Mê Thuột. Tại đây, Y Bham Enuol, người
Rhadé, đưa ra một bản “Hiến chương FULRO” kêu gọi tranh đấu để lấy lại đất đai
của người Thượng. Mặc dù Bộ Phát triển Dân tộc Thiểu số được chính quyền Saigon
thành lập đáp ứng với cuộc nổi dậy này, trong nỗ lực giành lại sự ủng hộ của
dân Thượng, Y Bham Enuol và người của ông ta bỏ chạy qua Campuchia do lo ngại
vì chính phủ Saigon đe dọa sẽ bắt giam họ. Đến năm 1965, FULRO có một lực lượng
khoảng 5.000-6.000 quân, cùng với khoảng 15.000 người lệ thuộc vào họ. Là chủ tịch
của FULRO, Y Bham đại diện người Thượng trong thương lượng với hai chính phủ
Campuchia và Saigon, Bắc Việt cũng như VC.
Sau
vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Y Bham Enuol tìm cách trở lại vùng Cao
nguyên Trung phần để bảo vệ các làng người Thượng chống lại tấn công của VC.
Chính phủ Saigon hứa rằng các đơn vị quân của FULRO sẽ được kết hợp vào các Lực
lượng Vùng để bảo vệ các làng người Thượng và những người lãnh đạo FULRO sẽ được
tham gia chính quyền. Không đồng ý với sắp xếp này, những phần tử FULRO quá
khích lật đổ Y Bham Enuol vào tháng 12 năm 1968 và đưa ông cùng những người
theo ông đến Phnom Penh. Thỏa thuận hội nhập các lực lượng FULRO vào những đơn
vị trong vùng vẫn tồn tại. Với sự trở lại VN của các binh sĩ FULRO và sự lưu
vong của Y Bham Enuol, FULRO đến đầu năm 1969 đã không còn được coi là một
phong trào sắc tộc thiểu số.
FULRO
lại nổi lên chống Việt Cộng vào khoảng những năm 1974-1975; Chính phủ Cao
nguyên Lâm thời Dega với cánh tay quân sự là Mặt trận Giải phóng Cao nguyên
Dega. Điều 2.000 binh sĩ của FULRO chiến đấu đến cùng trước một lực lượng CS có
ưu thế toán diện, đến năm 1984 mới chịu bỏ cuộc. Nhiều người trở lại làng mạc,
nhưng cũng có đến 200 thành viên trụ cột của FULRO không chịu quy hàng, họ chạy
qua những trại tỵ nạn được thành lập sát biên giới Campuchia và Thái Lan. Sau
đó, họ được đưa qua Mỹ, định cư tại hai tiểu bang North và South Carolina.
[iii] Trong Dictionary of the Vietnam War, xuất bản
năm 1988, tác giả James S. Olson đã viết như sau về “Montagnards”: Người Thượng,
hay người sơn cước (mountain people) là những bộ lạc sơ khai (primitive) sống
riêng rẽ ở vùng Cao nguyên Trung phần của Việt Nam. Trước Đệ nhị Thế chiến, người
Thượng tách biệt khỏi cuộc xung đột Đông Dương, ngoài những khoản triều cống định
kỳ cho các vua nhà Nguyễn. Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp tiếp
tục đường lối “để mặc” này (general neglect). Nhưng khi Việt Minh bắt đầu tấn
công trở lại nhằm vào thực dân Pháp năm 1946, Võ Nguyên Giáp tuyên bố cao
nguyên Trung phần là quan yếu đối với sách lược đánh đuổi giặc Pháp và chiếm lấy
Miền Nam. Trong những thập niên 40, 50, và 60, những thế lực quân sự đối nghịch
đã tranh nhau lôi cuốn người Thượng – Miền Bắc cho thấy thành công hơn Miền Nam
và Hoa Kỳ. Sau năm 1954, Hồ Chí Minh đưa hơn 10.000 người Thượng đến Hà Nội để
huấn luyện trong ngành giáo dục, y tế, quân đội và tuyên truyền chính trị; thiết
lập những khu vực tự trị, mở ngỏ cư trú ở miền bắc cho dân Thượng, và cho những
bộ lạc sơn cước có đại diện tại Quốc Hội.
Miền Nam lại có một khảo hướng khác, tìm cách hội nhập người Thượng vào
xã hội VN qua tái định cư, lập khu bộ lạc mới, và áp lực văn hóa. Sự kiện chính
phủ Saigon đưa dân tỵ nạn Thiên Chúa giáo định cư ở vùng đất của người Thượng
chỉ làm cho người dân miền núi cảm thấy bị chèn ép. Một số bộ lạc người Thượng,
như Hre hay Rhadé, vẫn trung thành với người Mỹ và chính phủ Saigon, nhưng đây
là những trường hợp ngoại lệ hơn là phổ biến. Đến năm 1975, người Thượng vừa mất
đất vừa bị cô lập văn hóa, đối diện với sự tan rã trong lối sống làng mạc của họ.
Hơn 200.000 người Thượng đã chết trong cuộc xung đột này, và 85% người Thượng
phải rời bỏ đất đai, làng mạc của mình.
No comments:
Post a Comment