Ngô
Thế Vinh
Sông
Mê Kông
Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long
DẪN NHẬP:
Vậy mà đã 62 năm kể từ khi Liên Hiệp Quốc
khai sinh Ủy Ban Sông Mekong [1957] và cũng đã 24 năm từ ngày thành lập Ủy Hội
Sông Mekong [1995]. Tính đến nay 2019, Bắc Kinh đã xây xong 11 con đập thủy điện
khổng lồ / mega-dams (6,7) chắn ngang dòng chính sông Lancang Jiang, tên con sông Mekong chảy trong lãnh thổ Trung Quốc
với lượng điện sản xuất đã lên tới 21,300 MW và TQ vẫn đang tiếp tục xây thêm
19 con đập khác; Thái Lan ngoài các con đập phụ lưu, còn có kế hoạch chuyển
dòng lấy nước từ sông Mekong, và nay hai nước Lào và Cambodia còn có
thêm dự án 12 đập dòng chính hạ lưu. Ngoài ra còn hàng trăm
con đập phụ lưu đã và đang xây trên khắp lưu vực sông Mekong, kể cả trên Cao
nguyên Trung phần Việt Nam.
Khi mà hai con đập lớn nhất Nọa Trác Độ / Nuozhadu
5,850 MW và Tiểu Loan / Xiaowan 4,200 MW đã hoạt động phát điện toàn công suất, có thể nói về tổng thể Trung Quốc đã hoàn tất phần lớn nhất kế hoạch thủy điện bậc thềm Vân Nam với 40 tỉ mét khối nước
dự trữ trong các hồ chứa, tích luỹ trên 50% lưu lượng dòng chảy trung bình hàng
năm và chặn 90% phù sa từ thượng nguồn,
đủ cho TQ nắm quyền sinh sát toàn lưu vực sông
Mekong.
Không hề có dấu hiệu nào cho thấy các dự
án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài sông Lancang-Mekong sẽ chậm lại. Với 11 con đập Vân Nam, nay thêm 4 con đập dòng chính ở Lào: đập
Xayaburi và Don Sahong đã hoàn tất (2019), đập Pak Beng và Pak Lay đang triển
khai, các quốc gia trong lưu vực dưới sông Mekong đang phải hứng chịu những hậu quả nhãn tiền:
1/ Bắc Thái Lan, Tháng 7 vừa qua, do khúc
sông Mekong cạn dòng với cá chết, đồng lúa khô cháy, Thủ Tướng Thái Lan phải
kêu gọi TQ cứu nguy xả nước từ con đập Cảnh Hồng, Thái cũng yêu cầu Lào tạm
ngưng hoạt động phát điện từ con đập Xayaburi; mà cũng Thái Lan là khách hàng
chính mua điện từ cả hai con đập này. (4)
2/ Biển Hồ trái tim của Cambodia mực nước
xuống thấp nhất, có nơi trơ đáy cho dù đã quá giữa mùa mưa; do mất nhịp đập của lũ /
Mekong flood pulse, con sông Tonle Sap
không thể đổi chiều, đưa nước chảy ngược lên Biển Hồ, như vậy có thể sẽ không
còn Lễ hội Nước Bon Om Tuk truyền thống
hàng năm nơi Quatre Bras, Phnom Penh.
3/ Đồng Bằng Sông Cửu Long, năm nay 2019
cho đến tháng 7 qua cuối tháng 8 nước lũ thượng nguồn đổ về vẫn quá ít, mực nước ở Tân Châu và Châu Đốc xuống cực thấp – phá cả kỷ lục thấp nhất của năm hạn hán 2016, không
chỉ ngư dân mất nguồn cá mà nông dân thì thấy trước không có đủ nước cho vụ lúa sắp tới và còn phải hứng chịu
thêm một thảm họa kép: do không có sức đẩy của nguồn nước ngọt thượng nguồn, nạn
nhiễm mặn sẽ trầm trọng hơn và đang lấn sâu hơn nữa vào vùng châu thổ. (5)
Câu hỏi khẩn thiết đặt ra là: 70 triệu cư
dân trong Lưu vực Sông Mekong và ngót 20
triệu dân vùng ĐBSCL sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn, trước khi tình
thế không thể đảo nghịch?
Ủy Hội Sông Mekong / MRC bao gồm Ủy Ban
Sông Mekong Việt Nam trong ngót một phần tư thế kỷ qua đã chứng tỏ vô hiệu, nếu
không muốn nói là gián tiếp đồng lõa cho các dự án đập thủy điện hiện nay. Chính
Việt Nam cũng xây các đập thủy điện trên các phụ lưu sông Mekong, cũng là khách
hàng quan trọng mua thủy điện của Lào và Cambodia và cả đầu tư góp vốn cho các
dự án xây đập của hai quốc gia này…
BS Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn CLCD BĐDS
xuất bản từ năm 2000, cùng với nhóm Bạn Cửu Long, từng theo dõi và lên tiếng
báo động liên tục về một Lưu Vực Sông Mekong và ĐBSCL trước nguy cơ. (1) Và đây là một bài viết cập nhật tháng 8/2019, với một nhận
định khá bi đát là: Việt Nam đã bị thất thủ chiến lược trên địa bàn Sông Mekong
– và ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ bị tan rã. Việt
Ecology Foundation
KHỞI ĐI TỪ MỘT SAI LẦM CHIẾN LƯỢC
Qua ngót một phần tư thế kỷ, kể từ ngày 5
tháng 4 năm 1995 khi ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đại diện cho Việt Nam đặt bút
ký Hiệp Định về Hợp Tác Phát triển Bền vững
Lưu vực Sông Mekong, Việt Nam đã phạm một sai lầm chiến lược là từ bỏ quyền phủ quyết / Veto Power, một
điều khoản hết sức quan trọng đã có trong Hiệp Định Ủy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong
River Committee) vì Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn. Người viết cách đây ngót 2 thập niên đã đưa ra nhận định
là Ủy Hội Sông Mekong 1995 (Mekong River Commission) là một “biến
thể và xuống cấp” so với Ủy Ban Sông Mekong 1957 thời Việt Nam Cộng
Hòa trước đây.
Rồi trải qua bao nhiêu Hội nghị Thượng đỉnh
từ cấp Thủ Tướng tới hàng Bộ trưởng, vẫn
không có một nỗ lực cụ thể hay tiếng nói mạnh mẽ nào từ Việt Nam để cùng các quốc
gia trong lưu vực thực hiện những điều tối
thiểu đã giao kết trong Hiệp Định về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông
Mekong 1995. Và không phải là ngẫu nhiên mà ĐBSCL mới mau chóng phải đối đầu
với một thảm họa môi sinh như hôm nay.
Hình 1: Cứ 4 năm một lần, năm 2018 TT Nguyễn Xuân
Phúc lại dẫn một phái đoàn
đi dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Ủy Hội Sông
Mekong [MRC Summit], đem theo một bài
diễn văn viết sẵn với ngôn từ rất hoa mỹ;
[hai cuộc họp Thượng Đỉnh trước (2010, 2014)
nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu phái đoàn
VN]; và như từ bao giờ khi các bài diễn văn được đọc xong, là lúc 4 nguyên thủ
quốc gia Mekong cùng bước lên sân khấu nối
vòng tay trong tay cho báo chí chụp hình
PR, sau đó ai về nhà nấy, để rồi 4 năm sau
là một Hội Nghị Thượng Đỉnh khác, với cùng
một kịch bản, vẫn những khẩu hiệu trống rỗng, trong khi Con Sông Mekong, Biển Hồ, ĐBSCL thì đang chết dần. Hà Nội thì chưa bao giờ có được tiếng nói mạnh
mẽ – nhất là với Trung Quốc và cả Lào,
để bảo
vệ nguồn nước ngọt và phù sa sinh tử của mình, cho dù biết rõ
Việt
Nam là một quốc gia nạn nhân cuối nguồn. [nguồn: ảnh MRC Việt
Nam].
CẢNH ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG
Khi mà trong mỗi kế
hoạch khai thác sông Mekong đã ẩn chứa những mâu thuẫn sâu xa về quyền lợi giữa
các nước thành viên nếu chỉ đứng trên quan điểm quốc gia hạn hẹp. Không dễ gì
vượt qua trở ngại ấy nếu không có được một mẫu số chung – một Tinh Thần Sông Mekong, với không khí đối thoại cởi mở dẫn tới sự
tin cậy để cùng nhau tính toán từng bước thận trọng trên quan điểm phát triển bền vững / sustainable
development cho toàn lưu vực.
Cho dù từ những thập
niên 1950, 1960 Ủy Ban Sông Mekong 1957 đã có những kế hoạch vĩ mô xây dựng các
đập thủy điện lớn trên sông Mekong nhằm thăng tiến kinh tế cho vùng hạ lưu
nhưng đã bị gián đoạn do cuộc Chiến tranh Việt Nam, khiến cho con sông Mekong vẫn
còn giữ được vẻ hoang dã và cả sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.
Và để rồi, bắt đầu từ
thập niên 1970, Trung Quốc như một “kẻ đến
sau” nhưng đã nhanh chóng có cả một kế hoạch vĩ mô khai thác nguồn thủy điện
phong phú của sông Lancang-Mekong với hàng loạt các dự án đập khổng lồ trên
khúc sông chiếm hơn nửa chiều dài sông Mekong 4,800 km nằm trong lãnh thổ Trung
Quốc. Và kết quả Bắc Kinh, tuy là “kẻ đến
sau nhưng đã về trước” và tính đến nay, Trung Quốc hoàn tất 11 con đập khổng
lồ trên khúc sông Lancang-Mekong (6,7) bắt nguồn từ Tây Tạng xuống Vân Nam và
Trung Quốc hiện nay đã nắm trong tay 40 tỉ mét khối nước của con sông
Lancang-Mekong.
TỪ NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGHỊCH
_ Quan điểm từ
Trung Quốc:
Ngay từ đầu Bắc Kinh đã từ chối không muốn tham gia vào Ủy Hội Sông Mekong bao
gồm 4 nước: Lào, Thái, Cambodia và Việt Nam, để hoàn toàn không bị ràng buộc
vào những điều khoản trong Hiệp Định về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực
Sông Mekong 1995, với mục đích Bắc
Kinh có toàn quyền tự do khai thác con sông Lancang-Mekong [Lancang Jiang tên Trung Quốc của con sông Mekong]
chảy trong lãnh thổ Trung Quốc, bất chấp hậu quả tiêu cực xuyên biên giới /
transboundary negative effects ra sao đối với các quốc gia hạ nguồn. Điển hình
là hai trận hạn hán khốc liệt 2016 rồi 2019 nơi vùng hạ lưu trong khi Trung Quốc
vẫn giữ một khối nước rất lớn trong các hồ chứa thủy điện của mình.
Trận hạn hán tháng 4/2016, khi mà Trung Quốc tiếp tục trữ nước
trong các con đập, trực tiếp nhất là trong hồ chứa con đập Cảnh Hồng khiến mực
nước xuống hạ lưu thấp tới mức kỷ lục, không chỉ ở vùng Đông Bắc Thái nằm ngay
dưới chân chuỗi đập Vân Nam chịu tác động trực tiếp, mà ngay ở nơi xa nhất cuối
nguồn với ngót 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL cũng vô cùng khốn đốn vì thiếu nước.
Điều khá hài hước, là Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng lúc đó chỉ còn biết
kêu cứu Bắc Kinh xả nước từ hồ chứa đập Cảnh Hồng, điều mà trong thâm tâm Trung
Quốc chẳng hề muốn làm, và rõ ràng Việt
Nam hoàn toàn bị “thất thủ chiến lược” trước trận chiến môi sinh / ecological
warfare vô cùng thâm độc của Trung Quốc.
Trận hạn hán tháng 7/2019, Trung Quốc lại một lần nữa
không hề báo trước, giữa mùa mưa ít vẫn tiếp tục lấy nước vào các hồ chứa khiến
cư dân Bắc Thái bị ngay một trận hạn hán của thế kỷ, đồng ruộng khô cháy, khúc
sông Mekong trơ đáy với cá chết. Lần này thì đến lượt Thủ Tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha phải kêu gọi Bắc Kinh xả nước từ đập Cảnh Hồng để cứu cho nông và ngư
dân vùng Bắc Thái. (4) Không chỉ có vậy, như một chuỗi phản ứng dây chuyền, ba
nước Lào – Cambodia – Việt Nam chịu những hậu quả hạn hán khốc liệt không kém.
Biển Hồ chưa bao giờ cạn nước đến như thế, có nơi trơ đáy khiến ghe thuyền mắc
cạn [Hình 5], không phải chỉ hơn 1,5 triệu cư dân Cambodia sống quanh Biển Hồ
khốn đốn vì hạn hán mà ĐBSCL cũng đang chịu những “cơn đau thắt ngực” do trái
tim Biển Hồ đang bị thiếu nước trầm trọng.
chỉ với 11
con đập trên sông Lancang-Mekong thượng nguồn,
TQ đã
lưu trữ 40 tỉ mét khối nước, sản xuất 21,300 MW điện; riêng Lào
đang hiện
thực giấc mơ trở thành “Bình điện Á Châu
/ Asia’s Battery” hay
“xứ Kuwait Thủy điện Đông Nam Á”, Lào cũng
lưu trữ 30 tỉ mét khối nước hàng năm.
[nguồn:
Michael Buckley, cập nhật 2019]
Và rồi là những ngụy biện của Trung Quốc: Để tự bào chữa cho các
con đập thuỷ điện khổng lồ Vân Nam, các công trình sư Tàu đã lý luận rằng các hồ
chứa đập thuỷ điện ở thượng lưu có chức năng rất hữu ích: điều hoà dòng chảy
con sông Mekong cho các quốc gia hạ nguồn: giữ nước trong Mùa Mưa làm giảm thiệt
hại do lũ lụt nơi hạ nguồn và rồi trong mùa khô cũng vẫn những hồ chứa các con
đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự nhiên… Lý luận giản đơn và
ngụy biện ấy cho đến nay vẫn khiến một số người tin – kể cả giới khoa bảng; nhưng thực tế thì không diễn ra như vậy, và
chuỗi đập Vân Nam đang mang tới thảm họa chứ không hề mang lại những lợi ích mà
Bắc Kinh luôn rêu rao.
KS Phạm Phan Long,
Việt Ecology Foundation trong bài viết mới đây trên VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần trên lưu vực là có thật nhưng hạn hán sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do vận hành các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.” (3)
… Rất sớm, từ hơn 10 năm trước
(05/2009), Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc đã phải lên tiếng cảnh
báo rằng “chuỗi đập Vân Nam là mối
đe dọa duy nhất – lớn nhất / the single greatest threat” đối với tương lai
và sự phồn vinh của con sông Mekong, sẽ giết chết nhịp đập thiên nhiên của dòng
sông / Mekong flood pulse, với con sông Tonle Sap chảy hai chiều vốn như một hiện
tượng thiên nhiên kỳ quan của thế giới.
Aviva Imhoff, nguyên
giám đốc truyền thông Mạng Lưới Sông Quốc Tế IRN, cũng đưa ra nhận định: Trung Quốc
đang hành xử một cách hết sức vô trách nhiệm. Chuỗi đập Vân Nam sẽ gây ra những
tác hại vô lường nơi hạ lưu, gây rối loạn toàn hệ sinh thái con sông Mekong xa
xuống tới Biển Hồ, nó như một chuông báo tử cho ngư nghiệp và nguồn cá vốn là
thực phẩm của ngót 70 triệu cư dân sống ven sông.
_ Quan điểm từ Thái Lan: Ngoài việc xây đập thủy điện trên các phụ lưu như đập Pak Mun 136
MW (1994) trên sông Mun, và cả kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong vào những hồ chứa nhằm cung cấp nước cho các cánh đồng lúa ở
miền Trung và Đông Bắc Thái. Cũng chính công ty Thái Lan Ch. Karnchang đã giúp Lào xây con đập dòng chính đầu tiên
Xayaburi vùng hạ lưu, và quan trọng hơn nữa Thái Lan là khách hàng chính mua 95% lượng thủy điện của Lào qua
Công ty EGAT / Electricity Generating Authority of Thailand, như thêm
động lực tạo thuận cho Vientiane phát triển thêm về thủy điện trên khắp nước
Lào. Và cần nói thêm, chính Thái Lan
cũng là khách hàng chính mua thủy điện của TQ từ con đập Cảnh Hồng 1,750 MW
hoạt động từ 2008. Cảnh Hồng hiện
đang là con đập thủ phạm trực tiếp gây họa khiến cư dân các tỉnh Bắc Thái đang
phải kêu trời.
_ Quan điểm từ Lào: là một
quốc gia tương đối nghèo nhất trong vùng, với những người Lào thấy được tiềm
năng thủy điện phong phú của con sông Mae Nam Khong [tên Lào-Thái của sông Mekong],
Lào nuôi giấc mơ canh tân, họ muốn biến đất nước Lào trở thành một xứ “Kuwait về thủy điện Đông Nam Á” hay “Bình điện Á Châu / Asia’s Battery”. Nam
Ngum 150 MW là con đập thuỷ điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất
sớm từ 1971 giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam [Hình 3]. Sau đó, trong
suốt hơn bốn thập niên, Lào đã và đang liên tục xây vô số các đập thủy điện
trên những phụ lưu sông Mekong, trong đó phải kể các con đập phụ lưu rất lớn
như Nam Theun-2 900 MW, Theun Hinboun… và
nay tới kế hoạch triển khai xây 9 con đập dòng chính trên sông Mae Nam Khong mà
con Domino đầu tiên là đập Xayaburi,
tới con đập thứ hai Don Sahong và
còn tiếp tục xây tiếp các con đập khác: Pak
Beng con đập thứ ba đang xây, và
Pak Lay dự án thủy điện dòng chính thứ tư, đã qua giai đoạn tham vấn rất tượng
trưng và chắc chắn Lào sẽ tiến hành xây những con đập dòng chính bất chấp những
tác hại tiêu cực xuyên biên giới đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu Long ra sao.
Không chỉ Trung Quốc
lưu giữ 40 tỉ mét khối nước hay 53% vũ lượng hàng năm của lưu vực Lancang-Mekong;
Lào cũng cất giữ 30 tỉ mét khối nước hay 18% vũ lượng hàng năm của lưu vực dưới
sông Mae Nam Khong, tên khúc Sông Mekong trên đất Lào. Cũng phải kể ảnh hưởng
tác hại của hệ thống đập thủy điện phụ lưu của Lào đối với hai quốc gia dưới nguồn
là Cambodia và Việt Nam rất đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa
và nguồn cá trong lưu vực sông Mekong.
biểu ngữ
giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào
[photo
by Ngô Thế Vinh 2000]
_ Quan điểm từ Cambodia: Hun
Sen, Thủ tướng lâu năm nhất của Cambodia và của cả thế giới, đã luôn luôn phủ
nhận ảnh hưởng tác hại của các con đập thủy điện thượng nguồn đối với dòng chảy
Sông Tonle Thom (tên Cambodia của con sông Mekong) và chấp nhận vô điều kiện kế
hoạch xây đập của Trung Quốc trên thượng nguồn, cho dù chính sách ấy đi ngược với
tất cả tiếng nói của các nhà bảo vệ môi sinh và ngót 70 triệu cư dân ven sông.
Mùa Khô
(trái) là hồ cạn chỉ với diện tích 2,500 km2; Mùa
Mưa (phải),
khi bước vào tháng 5 đến tháng 9, do nước
con sông Mekong dũng mãnh đổ về,
khiến con Sông Tonle Sap đổi chiều, chảy
ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao
hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ và làm ngập
các khu Rừng Lũ / Flood forest, diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần hơn, khoảng 12,000 km2. [nguồn:
Tom Fawthrop]
Rất
sớm, từ tháng 7 năm 2005, Thủ tướng Hun Sen, khi
sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai
thác con sông Mekong, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông công khai
lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, ông còn cho
rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi sinh, và họ dùng đó
như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia. (Hun
Sen backed China's often-criticized development plans for the Mekong
River, AFP Phnom Penh, June 29, 2005)
Năm năm sau, tháng 11 năm 2010, TT Hun Sen, sau Hội Nghị
Thượng Đỉnh ACMECS* ở Phnom Penh, đã lên tiếng bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh
hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong.
Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán là hậu quả của thay đổi khí hậu
/ climate change chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của
Trung Quốc. (The
Phnom Penh Post, Nov 17, 2010)
Trái hẳn với nhận định
của TT Hun Sen, cần nên ghi lại nơi
đây những sự kiện phải nói là bi quan, liên quan tới Biển Hồ, sông Tonle Sap và
con sông Mekong ngay trong thập niên đầu của thế kỷ 21:
Trên trang web World
Wide Fund for Nature, đã ghi nhận:
mực nước con sông Mekong tụt thấp xuống tới mức báo động kể từ 2004 và trở
thành những hàng tin trang nhất trên báo chí. “Trung Quốc làm kiệt mạch sống
sông Mekong_ New Scientist”; “Sông Mekong cạn dòng vì các con đập Trung
Quốc_ Reuters AlertNet”; “Xây đập và con sông chết dần_ The Guardian”;
“Sông cạn do các con đập Trung Quốc_ Bangkok Post”. Hầu hết đều mạnh mẽ
quy trách cho việc xây các con đập thủy điện của Trung Quốc trên khúc sông thượng
nguồn.
Theo Fred Pearce,
tác giả cuốn sách “Khi Những Con Sông Cạn Dòng, Nước – Khủng Hoảng của Thế Kỷ
21” xuất bản 2006, trong chương viết về con sông Mekong, đã có ghi nhận:
... “Cuối năm 2003 và đầu năm 2004 là thời gian tuyệt vọng trên
Biển Hồ. Cơn lũ về thấp hơn. Thời điểm con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ
đến trễ hơn và cũng chấm dứt sớm hơn. Thay vì 5 tháng con sông đổi dòng nay chỉ
còn có 3 tháng. Rừng lũ thiếu ngập lũ và cá thì không đủ thời gian để tăng trưởng...
Và mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp như vậy. Tại sao? Đa số ngư dân đổ tại
con sông cạn dòng. Khi con nước cạn trước Hoàng cung, thì sẽ không có cá dưới
sông.”
Không ai tin rằng,
ông Thủ tướng Hun Sen lại có thể không biết tới “Hồi Chuông Báo Tử” ấy, nhưng
ông Hun Sen đã cố tình phủ nhận điều này do nhu cầu chính trị ngắn hạn “lấy
lòng Trung Quốc” trong thời gian cầm quyền. Nhưng rồi ra, cái giá rất cao
phải trả sẽ là tương lai của dân tộc Cam Bốt và cả nền văn minh xứ Chùa Tháp.
Anh Tư Tiến phải nhảy xuống lội nước cho
ghe nhẹ bớt không bị đụng đáy…
Do ảnh hưởng chuỗi đập thủy điện thượng nguồn,
Biển Hồ đang bị co cụm
và ngày một cạn dần [nguồn: hình của Tưởng
Năng Tiến]
Mới đây, tháng
10/2017 TT Hun Sen khi chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện Hạ-Sesan-2 ở Stung Treng, với công suất 400 MW và diện
tích hồ chứa 340 km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore trở
thành con đập lớn nhất trong số 7 đập thủy điện của Cambodia do Công ty HydroLancang của Trung Quốc nắm
51% cổ phần, Tập đoàn Hoàng gia Cambodia nắm 39% cổ phần và Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN) nắm 10% cổ phần, và đáng nói là
nguồn điện của đập Hạ-Sesan-2 sẽ được xuất cảng sang
Việt Nam.
_ Quan điểm từ Việt Nam: Một Việt Nam vừa thỏa hiệp vừa bị động từ
1975, 1995 và cho tới nay. Việt Nam cũng đã xây các hồ chứa đập thủy
điện trên các phụ lưu sông Mekong trên cao nguyên Trung phần, như con đập Yali
720 MW (1996) trên sông Krông B’Lah
ranh giới 2 tỉnh Kontum và Gia Lai; các con đập khác trên sông
Sesan và Seprok là phụ lưu sông Mekong. Con đập Yali đã bị các cộng đồng cư dân các tỉnh đông bắc Cambodia lên án do làm cạn kiệt nguồn cá và cả
những lần xả nước từ hồ chứa mà không thông báo trước đã bất ngờ gây lũ lụt, làm
tổn thất tài sản và cả nhân mạng cho cư dân Cambodia phía dưới con đập. Hồ chứa
những con đập phụ lưu của Việt Nam chẳng phải là vô can trong tình trạng thiếu
nước khô hạn nơi ĐBSCL.
Một “chiến lược không chiến lược” lại có chính sách “nước đôi / double standard”,
một mặt Việt Nam cần nước, mặt khác lại có chính sách đi mua thủy điện của Lào,
của Cambodia và đi xa hơn nữa là đầu tư vào các công trình thủy điện của Lào
như dự án đập dòng chính Luang Prabang của PetroVietnam, đập thủy điện Hạ Sesan-2 của
Cambodia.
Trước những tác hại hiển nhiên của các con
đập trên ĐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá... Nhà nước Việt Nam luôn luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, không những
đã không có tiếng nói quyết liệt ngăn chặn mà còn góp vốn đầu tư thực hiện dự
án tai hại ấy, có thể ví như một hành động
cầm súng tự bắn vào chân mình/ shoot
oneself in the foot.
_ Quan điểm từ MRC: Trải qua 24 năm từ
ngày thành lập, Ủy Hội Sông Mekong trải qua nhiều giám đốc điều hành, đã chứng
minh MRC là một tổ chức không hiệu lực, tới mức đi tới nhận định: Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông
Mekong 1995 hầu như đã tan vỡ.
Trong quá khứ và cả đến hiện nay, Ủy Hội Sông Mekong đã khá thụ động trước sự bộc phát của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư”, Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.
Trong quá khứ và cả đến hiện nay, Ủy Hội Sông Mekong đã khá thụ động trước sự bộc phát của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư”, Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.
Một kháng thư gửi Ủy
Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày
15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan
tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong,
cùng với sự bất lực của Ủy Hội thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình
nghiêm trọng hiện nay. Lẽ ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn
các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một
cách đáng ngạc nhiên.
Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC
Secretariat) hiện nay là TS Phạm
Tuấn Phan,
sinh quán Hà Nội, (là anh của Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh kiêm
Uỷ viên Bộ Chính Trị Việt Nam) có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán từ Đại học
Belarus thuộc Liên Xô cũ, một học vị ít liên quan tới lãnh vực môi sinh, thuỷ học
và các hệ sinh thái sông ngòi. Ông Phan mang hai căn cước: căn cước của một
công dân Việt Nam và căn cước của một công dân Mekong. Tại một Diễn đàn Khu vực
liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng, con đập thủy điện dòng chính thứ ba của
Lào họp tại Luang Prabang ngày 22.2.2017, TS
Phạm Tuấn Phan, khi trao đổi với phóng viên Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị đã phát
biểu: "Thuỷ điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi
nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã". [Hình
6]
Phát biểu của ông không những rất thiếu cơ sở khoa học, đi ngược
lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực
sông Mekong từ bao năm nay. TS Phạm Tuấn Phan đã và đang gây tác
hại cho nỗ lực bảo vệ sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng
đồng cư dân ven sông Mekong, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất
mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân
ĐBSCL đang khốn đốn muốn chết", một số không ít đã bỏ đi tha phương cầu
thực là điều rất dễ thấy.
Trước nguy cơ: mất
nguồn nước ngọt, mất nguồn phù sa, và cả vùng châu thổ phì nhiêu đang chìm dần
trong biển mặn. Hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc
Nam Tiến cách đây mới ba trăm năm, thì nay đang bị bất động, không được quyền cất
tiếng nói và đang phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ bị xoá đi cả
một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, rồi ra trên tầm vóc
quốc gia, sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees vào
giữa thế kỷ 21 này.
con đập
dòng chính thứ ba của Lào, họp tại
Luang Prabang ngày 22.2.2017,
các nhà báo đang phỏng vấn TS Phạm Tuấn Phan, Giám đốc
Điều hành Ban Thư ký
Uỷ hội
Sông Mekong. Khi trao đổi với phóng viên
Lê Quỳnh,báo Người Đô Thị (người đang cầm máy ghi âm), ông Phạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: "Thuỷ
điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều
này trước đã." Chắc chắn
ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Môi
trường / Environmental Flow” để giữ cho con sông Mekong không chết. [Photo
by Thiện Ý]
Mới đây, tạp chí Khoa học
Nature 2018 có bài nghiên cứu nhan đề: Potential Disruption of Flood
Dynamics in the Lower Mekong River Basin Due to Upstream Flow Regulation / Tiềm năng Phá vỡ Động lực Lũ lụt
Vùng Hạ lưu Sông Mekong là do điều tiết Dòng chảy từ Thượng nguồn.
“Lưu vực Sông Mekong / Mekong River Basin
đang trải qua những biến đổi vô lường do gia tốc xây thêm những hồ chứa thủy
điện lớn mới đây. Khi mà tình trạng thủy học Lưu vực Sông Mekong được hiểu rõ
và ảnh hưởng của một số những con đập hiện nay đã được khảo sát. Chúng tôi dùng
mô hình thủy-động-lực-học / hydrodynamic model simulations, chứng minh được
rằng những hậu quả điều tiết dòng chảy từ thượng nguồn là có thể tiên lượng
được dọc theo dòng chính sông Mekong, và cơ chế điều tiết dòng chảy con sông Tone Sap và các phân lưu / distributaries
nơi ĐBSCL có khả năng bị gián đoạn. Nghiên cứu cho thấy
dòng chảy ngược / reversal của con sông Tonle Sap có thể bị mất nếu nhịp đập của lũ / Mekong flood pulse trên
sông Mekong giảm khoảng 50% và trễ đi một tháng.” (2)
Với Bắc Kinh, con chủ
bài đang khống chế toàn lưu vực Sông Mekong và cả các Công ty xây đập đa phần
là từ Trung Quốc, chắc chắn cả hai chánh phủ Trung Quốc và Lào phải cám ơn phát
biểu cổ võ thủy điện / pro-dams của ông
Phạm Tuấn Phan, như một tiếng nói có quyền lực từ Uỷ Hội Sông Mekong đang
gián tiếp bênh vực họ – không khác quan điểm bấy lâu của TT Hun Sen.
Lẽ ra, ở vị trí lãnh
đạo một tổ chức đa quốc gia như MRC, TS Phạm Tuấn Phan nên ở vị trí trung lập
chứ không phải là xếp hàng và chọn phe bênh vực thủy điện như ông đã làm,
chức năng của ông cao hơn thế, lãnh đạo MRC như một tổ chức điều hợp giúp cho
các quốc gia trong toàn lưu vực từng bước thực hiện được những bước “phát
triển bền vững” như tinh thần cốt lõi của Hiệp Định về Hợp Tác
Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong 1995.
NĂM NAY 2019 KHÔNG CÒN MÙA NƯỚC NỔI
Nhịp điệu ngàn
năm của con sông Mekong. Hệ sinh thái
vùng châu thổ Sông Cửu Long được cân bằng một cách tự nhiên với "mùa nước
nổi" và "mùa nước giựt". Mùa Nước Nổi thường hiền hoà khác hẳn với
lũ lụt tàn phá dữ dội như ở miền Bắc hoặc miền Trung Việt Nam.
Vào mùa nước nổi, mực
nước hai con sông Tiền và sông Hậu có đặc tính dâng cao lên từ từ, tràn qua các
bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có nhiều công dụng hữu ích không
những chỉ rửa phèn, rửa tạp chất cho đất mà còn để lắng xuống một lượng phù sa
như một thứ phân bón thiên nhiên tuyệt hảo "trời cho" khiến đất đai
thêm phần màu mỡ, biến ĐBSCL thành vựa lúa, vựa cây trái trù phú của cả nước và
Việt Nam đã từng đứng thứ hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo chỉ đứng sau
Thái Lan.
Cùng với con nước đỏ
ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo con nước vào ruộng đồng đẻ trứng,
cho đến thời kỳ nước thấp thì nước từ trong đồng ruộng chảy ra, cùng với vô số
cá từng đàn, ùa theo nhau tràn vào các kinh rạch để ra sông lớn. Do chưa bận
mùa cấy trồng, người nông dân đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này,
và trong mấy thập niên trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi phải giở
lên thả cá cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. (1)
Đó là
chuyện quá khứ, nay mọi sự đã đổi thay. Từ hai thập niên qua, hiện tượng
cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như đang dần dần biến mất. Và "mùa nước
nổi" càng ngày càng giảm cả về cường độ lẫn tần suất. Hiện tượng đó không
thể đổ cho thiên tai mà là "nhân tai" một thứ thảm hoạ môi sinh / ecological
disaster do chính con người gây ra – mà thủ phạm chính là chuỗi đập thủy điện
dòng chính khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc trên sông Lancang-Mekong và sẽ trầm
trọng thêm với những con đập của Lào.
nông dân rộn rã đóng đáy bắt cá suốt dọc
theo các kinh rạch,
nước lũ rửa sạch ruộng đồng, đem về phù sa,
hứa hẹn cho một vụ được mùa gieo trồng.
[photo
by Ngô Thế Vinh]
Từ đầu tháng 6 hàng
năm, vào mùa Mưa nước lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về, bắt đầu từ các tỉnh
đầu nguồn ĐBSCL báo hiệu cho mùa nước nổi cao điểm vào khoảng cuối tháng 9 đầu
tháng 10. Nhưng năm nay 2019, mọi chuyện không diễn ra theo chu kỳ như thế và có nguy cơ sắp tới sẽ không còn mùa Nước Nổi.
Khi mà vùng Đông Bắc Thái Lan đang phải chịu một trận hạn hán thế kỷ, ảnh vệ
tinh chỉ rõ mực nước Sông Mekong Vùng Tam Giác Vàng chưa bao giờ xuống thấp đến
như thế.
Theo phóng viên Bình Nguyên,
báo điện tử Cần Thơ 04/8/2019: “Những
ngày cuối tháng 7/2019 chúng tôi đi dọc tuyến biên giới An Giang, Đồng Tháp.
Thông thường, những năm trước, đây là lúc nước lũ đã tràn đồng, trên đó là cảnh
đánh bắt cá đồng của người dân. Giờ đây, cũng dọc theo những cánh đồng đó là ruộng
nứt nẻ, những chiếc ghe nằm chỏng trơ trên bãi bồi…” (5)
Theo Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập lâu năm về sinh
thái ĐBSCL, cho biết: “Một năm trung bình sông Mekong có tổng lượng nước là 475
tỉ m3, trong đó lượng mưa tại chỗ ở ĐBSCL chỉ chiếm 11% số đó. Vì vậy, mực nước
ở ĐBSCL phụ thuộc lớn vào lượng nước từ phía trên chảy về. Nước ở lưu vực
Mekong ít thì nước ở ĐBSCL giảm, kéo theo đỉnh lũ thấp vào khoảng giữa tháng 10
ở ĐBSCL và xâm nhập mặn sẽ lấn sâu vào khoảng tháng 3 dương lịch, sau Tết
Nguyên đán.”
“Kinh
nghiệm cho thấy như năm 2016 là năm khô hạn cực đoan thì ít có biện pháp nào để
đối phó. Dù có công trình cống đập ngăn mặn thì cũng không có tác dụng ngăn mặn,
vì bên trong không đủ nước thì ngăn mặn vô ích… Năm nay mùa lũ không về thì nguồn
thủy sản tự nhiên sẽ giảm, cuộc mưu sinh của những người dân đánh bắt thủy sản
tự nhiên sẽ gặp khó khăn. Sau một năm khô hạn như thế thì năm sau dù có lũ trở
lại cá vẫn sẽ ít vì chưa kịp phục hồi”- Vẫn ông Thiện nói. (5)
Theo Tiến Sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về biến đổi
khí hậu, Đại học Cần Thơ, mực nước trên sông Mekong qua ĐBSCL thấp so với cùng
kỳ. Đó là chỉ dấu cho thấy mùa lũ sắp tới nếu có cũng sẽ rất thấp và dẫn tới
các hệ quả là phù sa ngày càng ít dần, lượng thủy sản ít, không có đủ nước ngọt
để đẩy mặn ra xa và không rửa được phèn và
tạp chất khác trong đất. Qua đó làm ảnh hưởng đến năng suất lúa và cây
trồng. Về giải pháp là cần khuyến cáo ngay việc giảm tối đa diện tích sản xuất
lúa, trữ nước mưa nhiều nhất có thể… Ngoài ra là chọn những giống cây trồng ít
sử dụng nước để gieo trồng.” (5) [Hết lược dẫn]
Không có đủ nguồn nước ngọt, trong một
tương lai gần, Đồng Bằng Sông Cửu Long không còn là vựa lúa và cả nước mất đi
nguồn lương thực rất quan trọng, nói chi tới một Việt Nam chỉ mới hai thập niên
trước đây thôi, đã từng là quốc gia xuất cảng lúa gạo lớn thứ hai của thế giới,
chỉ đứng sau có Thái Lan.
MỘT
HIỆP ƯỚC 1995 MỘT TINH THẦN SÔNG MEKONG
Người ta hy vọng với
những kinh nghiệm đã có từ Ủy hội Sông Mekong tích lũy từ nhiều năm, sẽ giúp
cho TS Phạm Tuấn Phan – một công dân đầu tiên từ lưu vực sông Mekong đảm nhiệm
chức Giám đốc MRC, có được sự hiểu
biết về những vấn đề mang tính quyết định đối với tổ chức này, sẽ
giúp ông lãnh đạo một cách hiệu quả vào thời điểm cam go trên một vùng
chính trị địa dư / geopolitics đang có rất nhiều biến động và cả phân hóa như hiện
nay.
Hai thử thách trước mắt và bước thứ ba lâu dài của TS Phạm Tuấn Phan, cũng là của toàn cơ chế Ủy Hội Sông Mekong sau quá trình hoạt động hơn 24 năm [1995-2019] là:
Hai thử thách trước mắt và bước thứ ba lâu dài của TS Phạm Tuấn Phan, cũng là của toàn cơ chế Ủy Hội Sông Mekong sau quá trình hoạt động hơn 24 năm [1995-2019] là:
(1) Thuyết phục các
quốc gia thành viên Ủy Hội Sông Mekong tôn trọng tinh thần "Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995”:
“Các quốc gia thành viên ký kết đồng ý
là “bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại
trên môi trường… do phát triển và sử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Theo Điều 6, 7 Mekong 1995.
(2) Thuyết phục được
chánh phủ Lào và cả Cambodia tôn trọng một trật tự vùng, bằng cách không vội vã
thực hiện tất cả các dự án đập dòng chính trên lãnh thổ Lào và Cambodia để có
thêm thời gian nghiên cứu thêm và bổ sung những khiếm khuyết.
(3) Thực hiện “Kế hoạch
Chiến lược / MRC Strategic Plan”, tăng cường và mở rộng hợp tác với các quốc
gia thượng nguồn Lancang-Mekong trên quy mô “Toàn Lưu Vực”, chủ yếu bao gồm cả
Trung Quốc, quốc gia sở hữu hơn nửa chiều dài con sông Mekong nhưng đã lại từ
chối làm thành viên của Ủy Hội Sông Mekong mở rộng.
Thực hiện và vượt
qua được các bước thử thách trên sẽ là một thành quả không phải chỉ của cá nhân
ông Phạm Tuấn Phan, mà cũng là “lý do
hiện hữu / raison d’être” của chính ông và tổ chức có danh xưng là Ủy Hội
Sông Mekong.
Nhiệm vụ của TS Phạm
Tuấn Phan cũng sẽ dễ dàng hơn nếu ông có một trái tim và cả biết lắng nghe lời
kêu than thống thiết của những cư dân sống ven sông và cả rất nhiều tiếng nói của
các nhóm xã hội dân sự khác.
Ngoại trừ các cộng đồng
cư dân Thái Lan, tiếng nói các nhóm xã hội dân sự của 3 quốc gia Mekong còn lại
phải nói là rất yếu ớt. Với Việt Nam, tuy phải gánh chịu tất cả hậu quả suy
thoái của con sông Mekong vì là quốc gia cuối nguồn; nhưng đến bao giờ thì những
người dân Miền Tây quanh năm cực nhọc, sống dưới mức nghèo khó ấy mới cất lên
được tiếng nói và đến bao giờ thì tiếng nói của họ mới được lắng nghe.
Sinh kế của
ngót 20 triệu dân cư ĐBSCL, an ninh
lương thực của cả nước, nền văn hoá sông nước và tài nguyên môi sinh miền Nam bị
huỷ hoại và rơi vào thảm trạng này là vì sao? Quy trách chuỗi đập nơi các quốc
gia thượng nguồn là đúng. Nhưng làm sao ngăn
họ lại khi Việt Nam cũng xây đập trên các phụ lưu Mekong ở VN? Khi VN nhận phần
chia đầu tư vào dự án
lớn nhất dòng chính Luang Prabang của Lào? Khi VN ký nhận
làm đối tác mua thuỷ điện từ chính những dự án Mekong với phản đối chiếu lệ? Khi
CEO của MRC là cho một người Việt, có ảnh hưởng ở cấp chính phủ và chủ trương ủng
hộ thuỷ điện? Khi VN không khiếu kiện
Lào theo luật quốc tế? Xét một chuỗi sự kiện nói trên, VN đã thất thủ chiến lược,
đã bỏ ĐBSCL để đổi lấy những món lợi rất ngắn hạn nói trên.
Năm nay 2019, trước cơn Đại hạn của Thế kỷ
đang là một hồi chuông cảnh giác cho toàn lưu vực với ước vọng đã tới lúc phải
hàn gắn những đổ vỡ, phục hồi niềm tin. Một Hiệp ước Vùng thì đã có rồi, nhưng
làm sao chính phủ các nước đặt bút ký vào Hiệp ước 1995 ấy phải biết tôn trọng
các điều khoản, không chỉ để bảo vệ quyền lợi dân tộc mình mà cao hơn thế nữa
là tiến tới triển vọng hợp tác trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu
số chung để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh vượng
chung và hòa bình cho toàn vùng.
NGÔ
THẾ VINH
California, 25.08.2019
Tham Khảo:
1/ Đọc tác phẩm Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Đỗ Hải Minh, Tập san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/
2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2007.
2/ Potential Disruption of Flood Dynamics in the Lower Mekong River Basin
Due to Upstream Flow Regulation. Yadu Pokhrel, Sanghoon Shin, Zihan Lin, Dai Yamazaki & Jiaguo Qi , NATURE 2018 https://www.nature.com/articles/s41598-018-35823-4
3/ Mekong: Trận
“hạn hán thế kỷ” nhìn từ quan điểm hạ lưu. Phạm Phan Long, VOA 25.07.2019 https://www.voatiengviet.com/a/mekong-tran-han-han-lich-su-ha-luu/5013842.html
4/ Prayut: China, Laos, Myanmar asked to release water.
Mongkol Bangprapa, Bangkok Post 24.07.2019 https://www.bangkokpost.com/thailand/general/1718087/prayut-china-laos-myanmar-asked-to-release-water
5/ Đầu nguồn “khát nước”
và những nỗi lo. Bình Nguyên, Báo Cần Thơ Online: 04.08.2019 https://baocantho.com.vn/dau-nguon-khat-nuoc-va-nhung-noi-lo-a111866.html
6/ Việt Nam phải
mạnh mẽ đối với các nước thượng nguồn Mekong dù đó là nước nào?! Thanh Trúc phỏng vấn Brian Eyler, tác giả cuốn những ngày
cuối của dòng sông Mekong Vĩ Đại, 2019-08-01 https://www.rfa.org/vietnamese/video?v=0_gx0108ik
7/ Damming the Mekong Basin to Environmental Hell. Project-Syndicate, Aug 2, 2019 https://www.project-syndicate.org/commentary/china-dams-mekong-basin-exacerbate-drought-by-brahma-chellaney-2019-08
ACMECS: Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong Economic Cooperation Strategy / Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (tên 3 dòng sông Ayeyawady, Chao Phraya, Mekong) bao gồm 5 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á: Thái Lan, Lào, Cambodia,Việt Nam và Myanmar.
No comments:
Post a Comment