Huỳnh
Kim Quang
Vài Suy Nghĩ Nhân Đọc Tập Thơ “Âm Tuyết Đỏ
Thời Gian” Của Nhà Thơ Nguyễn Lương Vỵ
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Trong buổi ký tặng sách
Photo by Tô Đăng Khoa
“People find out who
they are by writing.”
Grace
Cavalieri
Tôi
đến thăm nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, người vừa ra mắt tập thơ thứ 13, “Âm Tuyết Đỏ
Thời Gian,” hôm 24 tháng 8 năm 2019, tại một quán cà phê trong vùng Little
Saigon.
Trông
anh gầy đi sau nhiều lần giải phẫu tim và phải nằm tại viện điều dưỡng để được
chăm sóc sức khỏe chu đáo hơn. Nhưng nụ cười trên môi anh vẫn không hề suy suyển
dù đôi mắt ngày càng ẩn kín sâu hơn trong cặp kính dày cộm.
Cầm
tập thơ mới tinh còn nóng hổi mà anh tặng, đang nhìn chầm chập vào hình bìa có
ngụm máu đỏ tươi phun vọt ra, tôi chưa kịp cảm ơn thì người bạn trẻ Tô Đăng
Khoa đứng cạnh bên đã lên tiếng:
-
Máu của Huệ Khả đó!
Nhà
thơ Nguyễn Lương Vỵ tiếp lời:
-
Giọt máu ngộ đạo của Huệ Khả.
Tôi
phụ họa theo:
-
Nhờ máu từ cánh tay mới chặt đó mà Tổ Huệ Khả đã “tìm không thấy tâm ở đâu.”
Huệ
Khả là tổ thứ hai nối nghiệp Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma. Truyền thuyết cho rằng khi Thần
Quang (thế danh của Tổ Huệ Khả) đến Động Thiếu Thất cầu đạo, nhưng Tổ Đạt Ma cứ
ngồi diện bích hoài mà không đoái hoài gì tới. Bấy giờ Thần Quang mới lấy thanh
gươm chặt đứt một cánh tay và quăng trước mặt Bồ Đề Đạt Ma. Lúc đó Tổ Đạt Ma mới
quay lại và hỏi Thần Quang đến đó cầu gì. Thần Quang nói đến để cầu pháp an
tâm. Tổ Đạt Ma kêu Thần Quang đưa tâm cho ngài an. Thần Quang nói tìm tâm không
thấy. Đạt Ma nói ta đã an tâm cho ngươi rồi, đặt Pháp Hiệu Huệ Khả, và truyền
Kinh Lăng Già đề kế nghiệp Tổ Sư Thiền tại Đông Độ [tức Trung Hoa].
Hai
câu nói của anh Nguyễn Lương Vỵ và Tô Đăng Khoa làm cho tôi ngộ ra một điều rất
thực rằng là thơ của Nguyễn Lương Vỵ chính là máu huyết của anh tuôn ra thành lời.
Buổi
chiều cuối hạ hôm đó, ngồi một mình ở quán cà phê vắng đọc “Âm Tuyết Đỏ Thời
Gian” tôi mới thấy điều mình vừa ngộ ra quả thật không sai.
“Âm
Tuyết Đỏ Thời Gian” là bước lịch nghiệm tận cùng ý nghĩa sâu thẳm nhất về cuộc
đời của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.
Khuya
tháng tư thinh lặng uy nghi
cuối
đời ta chẳng tiếc điều gì
phím
gõ lăng nhăng như giẻ rách
thân
già lãng đãng tợ âm ti
người
đi hắt bóng trong tâm cảnh
kẻ
ở in hình giữa loạn ly
lệ
khô đêm tận ngồi như núi
một
đống chiêm bao đến rủ đi…
Tôi
giật mình khi đọc đoạn thơ thứ 3 này của bài thơ Không Đề Tháng Tư trong Âm Tuyết
Đỏ Thời Gian! Sau giật mình là cảm giác “thích thú” khi bắt gặp một bài thơ có
nội hàm Phật Pháp cao thâm như thế. Phải cả đời hít thở và sống với không khí của
Phật Pháp thì mới có thể “ngộ” được những sự thật vi diệu như vậy.
Quả
thật không sai. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ trong bài thơ này đã cho chúng ta thấy
rằng ông ngồi thiền cả đêm, “đêm tận ngồi như núi.” Ngồi như núi là thế ngồi
thiền vững chãi trong pháp tu thiền xưa nay, đặc biệt Phái Thiền Tào Động. Khi
ngồi vững chãi như núi thì thân mới an và tâm mới tịnh.
Nhờ
thiền quán, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ đã ngộ ra rằng “người đi hắt bóng trong tâm
cảnh,” tức là sự hiện hữu của con người chỉ là cái bóng hay cái cảnh của tâm.
Điều này giống như trong Duy Thức của nhà Phật nói rằng tất cả các pháp, gồm
con người, chỉ là cái ảnh của thức biến, cũng có nghĩa là không có tự ngã,
không có thật. Cho nên, ở tuổi 65 -- lúc ông làm bài thơ này, tháng 4 năm 2017,
ông sinh năm Nhâm Thìn, 1952 – nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ có thể buông xả mọi thứ
“chẳng tiếc điều gì,” và ngay cả những gì ông sáng tác trong đó chủ yếu là thơ
cũng chỉ là “lăng nhăng như giẻ rách.”
“Âm
Tuyết Đỏ Thời Gian” cũng là tựa đề của bản trường ca gồm khoảng 360 câu. Bản
trường ca “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” là những lời độc thoại sâu sắc, đầy cảm thán
nhưng không tuyệt vọng về cuộc đời. Đó là những bước đi lịch nghiệm cuộc đời của
nhà thơ, từ lúc còn thơ ấu đến khi về già. Bàng bạc trong bài trường ca là những
trầm tư về ý nghĩa cuộc đời, những trải nghiệm của cuộc sống, và tình mẹ “như đất
trời bất tuyệt.”
Nhà
thơ họ Nguyễn chiêm nghiệm cuộc đời có rất nhiều đau khổ, giống như đức Phật đã
dạy về sự thật thứ nhất [khổ đế] trong bốn sự thật (Tứ Diệu Đế) rằng cuộc đời
là khổ. Cuộc đời vốn đã khổ mà còn khổ hơn khi ở vào “thời mạt pháp.” Theo nhà
Phật, “thời mạt pháp” là thời kỳ sau Phật ra đời khoảng một ngàn năm, phước đức
con người suy vi, nhân tâm điên đảo, pháp nhược ma cường [pháp chân chánh thì
suy yếu mà pháp tà ngụy thì mạnh]. Cho nên mới có cảnh “chân dung người chân
dung ma sóng đôi,” hoặc là “chật ních chỗ ngồi ma về đông đủ, phủi chân vỗ tay
và hát rân trời.”
kiếp người đó ư?!giữa
thời mạt pháp
rất nhiều khi sầu ngất
những hiên đời
hiên xám máu xô ngang
triều gió giật
chân dung người chân
dung ma sóng đôi
…
kiếp người đó ư?!
đành thôi thế thôi
trùng vây oan khiên
ta nuốt hết rồi
chật ních chỗ ngồi ma
về đông đủ
phủi chân vỗ tay và
hát rân trời
Ma
loạn lên như thế thì làm sao cuộc đời yên ổn được! May mà nhà thơ đã học được
pháp Phật có đủ bản lãnh để “trùng vây oan khiên ta nuốt hết rồi.”
Cảm
nhận thân phận mình, có lúc nhà thơ đã thốt lên những lời cảm thán làm động
lòng người, tưởng chừng như lời bộc bạch của kẻ sắp lên đường đi xa:
ta đã gửi suốt một đời
lầm lũi
đời mồ côi thương hạt
bụi điêu linh
bụi ca hát cùng ta mơ
chin suối
mộng mười sông đông đủ
gió thâm tình!!!
khuya nức nở hồn sơ
sinh rướm huyết
tuyết băng ơi và ngấn
lệ kia ơi
lời tri ngộ cũng là lời
vĩnh quyết
mở lòng tay nghe tỉếng
nấc xa xôi
nghe thời khắc nhắn
người đi kẻ ở
lá đầu cây rung máu
lá trong cây
ta vẫn đợi người về
trong hơi thở
tự nhủ thầm: Âm-tuyết-đỏ-trong-tay!!!...
Mấy
chữ “âm tuyết đỏ trong tay” làm người đọc không khỏi liên tưởng đến một ngụm
máu đỏ vừa phun ra trong lòng bàn tay. Đó phải chăng là lời tự tình phụt ra từ máu huyết xương tủy trinh nguyên như
băng tuyết! Có lẽ lúc đó nhà thơ đang trải qua thời khắc bi cảm nhất của một “hạt
bụi điêu linh.”
Đứng
trước giây phút sanh tử biệt ly của kiếp ngưởi khổ nhiều hơn vui, nhà thơ Nguyễn
Lương Vỵ vẫn không bi quan quay mặt với cuộc đời, vẫn không chạy trốn khỏi trần
gian:
chào ta nhé một kiếp
người lầm lũi
ấy tuy nhiên xin kiếp
nữa làm người
người với ngợm với ma
ngồi đắm đuối
niệm vô thường niệm
mãi vẫn khôn nguôi
chào ta nhé khẽ thôi
rồi bặt tiếng
ấy tuy nhiên mộng huyễn
đã vang lừng
âm đã vút trên tầng
không én liệng
lá đầu cây sông cuối
bến sương rung
chào ta nhé điệp trùng
ta kẻ lạ
ấy tuy nhiên ta đã gặp
ta rồi
thì cũng chẳng đặng đừng
chi nữa cả
lá hừng đông sông
chuyển dạ thế thôi
Thì
ra là vậy. Thảo nào nhà thơ họ Nguyễn chẳng sợ kiếp người lầm lũi và điêu linh
này! Ông đã tóm được bửu bối để đối trị với cuộc đời khổ đau, hay nói theo từ
ngữ kiếm hiệp Kim Dung, là ông đã luyện xong bí kíp độc môn võ lâm của nhà Phật.
Mỗi niệm đều quán các pháp vô thường. Đã vô thường thì sinh diệt không ngừng
nghỉ. Đã sinh diệt liên tục thì không tồn tại ở một vị thế nào vĩnh viễn, không
cố định. Điều đó cho thấy các pháp vốn không có tự ngã, không có tự thể. Chúng
là không. Chúng chỉ là sương rụng khi cây rung. Chúng chỉ là mộng huyễn. Thế
thì tại sao phải sợ mà lẫn tránh cuộc đời!
Ngộ
được điều đó, cũng có nghĩa là “đã gặp lại ta rồi.” Ta ở đây là “bản lai diện mục”
[mặt mũi đích thực của mình xưa nay], như nhà Thiền đã nói.
Tập
thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” ngoài phần chính là thơ của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ,
còn có phần phụ lục các bài viết về Nguyễn Lương Vỵ của Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn
Thị Khánh Minh, Tô Đăng Khoa, và Lê Lạc Giao.
Tập
thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” dày 190 trang, bìa màu, giấy hẩm rất đẹp, do Nhà Xuất
Bản Văn Học ấn hành tháng 8 năm 2019.
Độc
giả có thể liên lạc với NXB Văn Học qua địa chỉ, điện thoại và email:
Văn
Học Press
22
Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978
email:
vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van
Hoc Press
Tập
thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian đề giá USD 15.00. Đặc biệt, thi tập đang để bán toàn
cầu trên Barns & Noble, với Search Keywords: am tuyet do thoi gian. Hoặc bấm
vào đường dẫn đã rút ngắn sau: https://pgvn.org/d_y6qsg5
Cảm
ơn nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.
No comments:
Post a Comment