Nguyễn Trung Dũng
Những chiếc lá
“hãy để cuộc đời tươi
đẹp như hoa
và hãy để cái chết về như lá mùa Thu” [Tagor]
Trên
lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống phố, mắt ông đăm chiêu nhìn những cái lá. Những
cái lá trên ngọn của một cây sồi già. Những cái lá đó, trước khi bắt đầu thành
hình, chúng chỉ là những cái chồi non mới nhú. chồi nom như những cái cựa gà. Những
cái cựa lớn dần rồi dài ra. Chúng hình thoi. Màu trắng. Màu của những đọt măng.
Suốt
nhiều tháng, trên lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống
phố, ông thấy chúng đã mang hình thể của những cái lá hình thoi, cuống
dính vào cành, màu nom xanh hơn, mỗi sớm mai thức dậy, ngồi uống chén
trà, ông nghe chúng mừng vui trò chuyện.
Nhưng
hôm nay, trên lầu cao, từ cửa sổ ngó xuống phố, bầu trời ủng sũng màu chì, mưa
phùn với những hạt mưa nhỏ như bụi, những chiếc lá treo thân trên cành,
chúng đã bắt đầu ngả sang màu vàng. Màu
vàng của bệnh tật. Màu vàng của tuổi già. Màu vàng của chết chóc. Màu vàng đó,
là triệu chứng báo trước cho chúng biết,
sớm muộn gì, những cái lá treo thân trên cành sẽ phải rụng.
Cuối
Thu, những cơn gió heo may, những mảng mây màu xanh lơ, những
cánh đồng hoa cúc trắng, thời
tiết và cảnh vật đã đổi khác. Những trận
cuồng phong, những cơn mưa giông, chúng bất thần kéo đến để báo
hiệu cho mùa Đông. Và mùa Đông năm nay, đổ về miền Bắc, có hai cơn bão.
Suốt nhiều ngày trong tuần, đứng trên lầu cao, từ cửa sổ nhìn xuống phố, ông thấy những cái lá vàng còn
cố bám trên cành, chúng run
rẩy, những cái lá đã lìa khỏi cành, chúng nằm im bất động như xác của những con bướm, cánh dính trên mặt đường nhớp nháp bùn và nước. Nhìn
cảnh vật cây cối chung quanh, cũng là lúc, ông
nghĩ đến ông. Ông nghĩ gì. Ông
nghĩ, những cái lá đang rủ nhau lìa cành, những cái lá nằm dưới mặt đường của
con phố kia, chúng và ông có khác gì nhau đâu.
Rồi
ông suy ra, từ lúc là một đứa bé, là một cái chồi non, là một người trưởng thành, là một cái lá đang tươi
tốt, là một ông già, là một cái lá đã ngả sang màu vàng, là một cái xác vô hồn,
là những cái lá nom như những
con bướm nằm trên
mặt đường, tận cùng của hiện hữu là cái chết. Chết.
Ông
ngồi, vẫn trên lầu cao, từ cửa sổ nhìn xuống phố, mắt đăm đăm ngó những cái
cành khẳng khiu trơ trụi, ngó bầu trời mây bao phủ màu xám chì, ngó những tầu
lá ở ngọn những cây dừa già đang lắc lư chao đảo, ngó những giọt mưa nặng hạt đang xối xả ném xuống mặt đường
của con phố, ngó những cái mái màu xám của những ngôi nhà ở hai bên vỉa hè,
chưa lúc
nào bằng lúc
này, cái chết bắt đầu ám ảnh ông. Sợ. Không. Ông chẳng có gì để phải sợ
cả. Cái chết là một điều tất yếu phải
đến, đến lặng lẽ, đến một cách bất ngờ, đến không cần báo trước, đến
như một người khách lạ, đến với ông hay đến với bất cứ ai,
không ngoại lệ và miễn trừ.
Cái
chết, dù muốn hay không, dù sớm hay muộn, dù lâu hay mau, thì cái chết sẽ về
như lá mùa Thu. Cái chết như một ngọn nến đã đến lúc tàn, lửa phải lụi. Cái
chết ở tuổi một người già sức đã yếu, lực đã kiệt, đi bình yên thanh thản.
Đêm
qua, khó ngủ nên ông thức rất khuya. Vẫn
trên lầu cao, từ
cửa sổ, thay vì
nhìn xuống con phố, ông đã ngồi dưới ngọn đèn có ánh sáng đủ để
nhìn thấy những hàng chữ,sách cầm tay,
ông lặng lẽ đọc. Ông đọc cái gì. Ông
đọc cuốn “The
story of philosophy” của Will Durant.
Có đoạn trong sách, Will Durant nhắc lại về cái chết của Socrate được Platon kể:
“Khi
người giữ ngục đi vào với chén thuốc cầm ở tay, người đó đưa cho Socrate vừa
bảo rằng:
“Uống thuốc xong, ông có thể đi dạo.
Chừng nào thấy hai chân bắt đầu nặng,
ông trở lại giường rồi nằm xuống chờ cho chất độc dẫn đến tim”.
Thái
độ thản nhiên bình tĩnh, Socrate đưa tay
cầm lấy chén thuốc. Lúc Socrate uống,
mọi người đứng chứng kiến thẩy đều xúc động. Có kẻ không cầm được nước mắt đã
bật khóc. Thấy thế, Socrate đưa mắt nhìn các môn đệ, chỉ khẽ bảo rằng:
“Hãy
cứ vui. Các con chôn chỉ chôn cái thể xác của thầy”.
Người giữ ngục quan sát chân tay ông, chốc
chốc lại hỏi:
“Ông
cảm thấy gì chưa”.
Socrate
bảo chưa. Nhưng khi hai chân đã cứng, sống lưng đã lạnh, Socrate tự tay kéo bỏ
tấm vải che mặt, trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông nói:
“Thầy
nợ Aslepius một con gà. Con ráng trả giúp thầy món nợ đó”.
Nói
rồi, mắt nhắm, ông lặng lẽ ra đi”.
Không
giống như những cái lá cuối Thu là lúc tận số phải lìa cành, cái chết của
Socrate là cái chết bị bức tử. Rồi đây, ông cũng sẽ ra đi vĩnh viễn, có thể là
ngày mai, có thể là ngày mốt, có thể là tháng sau, cũng có thể không chừng là
tháng sau nữa. Cái mốc thời gian đã ấn định cho mỗi người không có trường hợp
ngoại lệ và miễn trừ, vậy thì, ông cần gì phải lo lắng và bận tâm nghĩ đến. Dù
biết rằng, không lúc nào bằng lúc này, ông biết cái chết đang
rình rập ông ở đâu đó, rất gần, đến
độ ông có thể đưa tay ra chạm được nó, có thể
nhìn thấy hai con mắt của nó như hai mắt của một con chó rừng
trong bóng tối của đêm đen. Nó đã xuất hiện và đến đứng đó đợi chờ, rình rập.
Trên
lầu cao, nhìn xuống đường qua kính cửa sổ, sáng nay khác với mọi sáng, cái ghế
của ông thường ngồi đã không có ông ngồi. Ở cái giường đáng lẽ là cái ghế ông
ngồi mỗi sáng để nhìn xuống dẫy phố, nhìn cái cây chỉ còn những cành nhánh
khẳng khiu, trơ trụi, thì nay, ở
một căn
phòng cũng có cửa sổ gắn kính, căn phòng ở lầu 4 của một bệnh viện, ông
đang nằm.
Nằm
trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Lúc mê, ông hoàn toàn vô thức. Lúc tỉnh, trí
nhớ hồi phục giúp ông còn nhận biết được sự việc đã qua và mọi vật diễn biến ở trong căn phòng. Nằm trên giường, có
lúc nhìn qua kính cửa sổ, ông thấy
có một
con chim. Con chim lông sắc xám.
Nó có hót hay không ông không biết. Với bức
tường cách âm, cho dù nó có hót,
ông cũng chẳng thể nghe được tiếng hót của nó.
Giờ
đây, cái nhớ giúp ông nhớ được phần nào những chuyện đã qua. Nhưng cái nhớ chỉ là những thước phim chiếu lại
trên màn hình thường hay bị gián đoạn
hoặc nhòe nhoẹt vì, óc não ông đã không
còn có đủ khả năng bảo tồn và gợi lại những sự việc trước đó đã xẩy ra. Những
sự việc đó là những sự việc gì. À, hồi
tưởng lại những cái rất gần, rất rõ, rất cụ thể, ông nhớ đêm qua, hình
như lúc đó đã quá nửa đêm, hình như trong
khi ông đọc xong cuốn sách viết về cái chết của Socrate, ừ, phải rồi,
cái đoạn Socrate đã lạnh chân cẳng, Socrate đã
lạnh sống lưng, Socrate đã kéo cái khăn che mặt, Socrate đã trăn trối
với Citron là trả lại cho Aslepius một con gà, thì cũng là lúc, ông thấy máu
dồn lên đầu, ông đột quỵ. Rồi sao nữa nhỉ. Rồi trong một cái xe có hú còi, cái
xe phóng hết tốc độ trên đường phố. Nó chạy nhanh như thế
để làm gì. Nó chạy nhanh như thế
để rồi sẽ đi đến đâu. Ông thắc mắc đặt câu hỏi nhưng câu hỏi đó, chẳng có ai
quan tâm đến ông để trả lời.
Bây
giờ, nằm trên cái giường ở trong bệnh
viện, lúc hồi tỉnh và nhớ lại được, ông đã có câu trả lời về cái xe đó vì sao
nó đã hú còi, và đã phóng với tốc độ quá nhanh trong đêm tối. Và bây giờ, cũng
là lúc qua kính cửa sổ, buổi
sáng ông nhìn
thấy con “hummingbird” đậu trên
một cành cây. Bầu trời vẫn màu xám chì. Mưa vẫn chỉ là cơn mưa bụi. Và chỗ
ông đang ở, chưa lúc nào bằng lúc này, ông
nhận thức một
cách rõ ràng và chính xác, chính
đây là lằn ranh phân biệt một bên là cõi
sinh và bên kia là cõi tử.
Nửa
khuya, như một người chết đuối, chìm ở dưới nước, chân tay quờ quạng, hơi thở
bị ngộp, thì chính là lúc, ông không còn chủ động để tự cứu mình được nữa. Khi
cây kim ngắn và cây kim dài cùng chặp lại ở con số 12, cái giờ khắc định mệnh
đã tới, ông như cái lá cuối mùa Thu, cái ngọn nến đã tới lúc tàn, thì có cỗ xe
song mã do một tên xà ích chạy đến, kẻ trùm mặt mặc áo đen cúi gặp người xuống
chào ông, rồi lễ phép mời ông lên xe. Rồi xe chạy.
Hồn
đã rời khỏi xác. Hồn như một sợi khói
bay lơ lửng trên không. Hồn quẩn quanh cố tìm cách nhập vào cái xác.
Nhưng cái xác chỉ là một căn nhà cửa đã
đóng. Người chủ của ngôi nhà không có chìa khóa để vào nên cứ đi loanh quanh ở
bên ngoài. Khi xác người chết đã đưa xuống nhà quàn, ông thấy ông nằm trong một
cái quan tài bằng gỗ. Nắp quan tài được mở. Ông thấy có vợ con
ông, có thân bằng quyến thuộc và bạn bè của ông. Vô số những vòng hoa
tang. Cái đặt trên giá có chân đứng. Cái treo trên tường.
Cái chỉ là những bó hoa được cắm trong bình thủy tinh đựng chúng. Tất cả những
hoa tang đó là những lễ vật mang đến để phúng
điếu nhằm mục đích phân ưu đến gia đình ông, để tỏ lòng thành kính
tưởng nhớ tới người đã khuất.
Ngày
chuyển cữu, ông nhớ quan tài được bốn
người bưng. Từ nhà quàn đi ra, một hàng dài những người gồm tang gia, bạn bè,
và thân quyến, tất cả đều bước chậm chạp dưới cơn mưa phùn bay như bụi.
Đã
đến nhà thiêu xác, cỗ áo được những người phụ
trách ở nghĩa trang chuyển đưa vào lò. Lò là một cái thùng hình vuông,
có máy điện cao thế, khi xác đã được đẩy
vào, cửa lò đã được đóng, thì hơi nóng bắt đầu tỏa ra. Những gì dễ cháy thì
cháy trước. Những gì khó cháy thì cháy sau. Nhưng chỉ trong một thời gian ấn
định nào đó, ở trong lò thiêu, tất cả chẳng còn gì ngoài lớp tro đen.
Hồn
ông vẫn vật vờ lơ lửng nhưng cái xác như một ngôi nhà đã không còn nữa. Chính
vì thế, giờ này, ông không khác gì một con chim
lẻ bạn, con chim đậu trên một
cành cây ngước mắt nhìn trời, há mỏ nhả ra một tiếng kêu như tiếng nấc.
Vào
lúc bóng tối của buổi hoàng hôn đã kéo về, thì trên những con đường, trên những khu phố có nhà cửa dân ở, trên
vườn tược cây cối của những tư gia, trên những khu công viên có những cây cổ
thụ già, mưa phùn vẫn rắc bụi. Chính lúc đó, hồn ông tìm về ngôi nhà ông đã ở.
Ngôi nhà có phòng cho thuê của khu nhà
già. Có một cái cửa chính để ra và vào chung
cư. Cửa thì đóng. Lục túi quần để tìm cái bấm cửa thì trong túi quần không có.
Ông không còn
cách nào khác là phải
đứng chờ. Vào đúng lúc đó, có ba người đàn bà vừa ở phố đi về. Họ
nói chuyện vui vẻ vừa bước tới gần chỗ
ông đứng. Ông cúi đầu chào họ nhưng chẳng ai
trong ba người đó đáp
lễ chào lại ông. Với cái “remote”, họ bấm và cánh cửa tự động mở. Ông biết ơn lại một lần nữa lịch sự lên tiếng cám ơn họ.
Nhưng rồi, cũng chẳng có một ai thèm
trả lời
ông, ông cảm thấy vừa buồn vừa bị xúc phạm. Chuyện đó chỉ trong chốc
lát, khi đã bước vào bên trong, đi dọc
theo dẫy hành lang để trở về phòng mình, thì ông nhanh chóng quên ngay. Đứng, một lần nữa bàn tay ông lại
lục tìm chìa khóa, nhưng cả hai túi áo
lẫn túi quần, bàn tay ông không đụng tới cái chìa khóa. Như vậy, ông đã quên không mang theo cái chìa khóa khi đi ra ngoài. Chỉ
còn cách dùng tay gõ lên tấm ván của cánh cửa để gọi vợ ông, nên miệng thì nói,
tay thì gõ, nhưng rất lâu, cánh cửa thay vì được mở nó lại vẫn không mở.
Chẳng
còn cách nào khác, nhìn thấy ở góc hành lang có 4 cái ghế và một cái bàn gỗ để
người trong chung cư ngồi chơi, ông thấy cách tốt nhất trong lúc đợi là đến đó
ngồi chờ. Thời gian ngồi chờ như thế, đấy là lúc ông nhìn
dọc theo đường hành lang dài.
Những ngọn đèn gắn ở trên trần, những ngọn đèn ở cửa mỗi căn phòng, ánh sáng
vẫn tỏa sáng. Cho nên, dù bây giờ ở bên ngoài là bóng tối, nhưng trong khu
chung cư của nơi
ông ở, vẫn sáng như ban ngày. Cái hành lang đó, mỗi sáng thức dậy, mỗi chiều khi bên ngoài bóng tối của buổi hoàng hôn chưa phủ, vào mùa Đông,
khi thời tiết quá lạnh, có mưa giông và gió lớn thổi, vào những lúc đó ông
không thể ra ngoài được, ông thường đi tản bộ dọc theo dẫy hành lang, mục
đích chỉ là để thư giãn
xương cốt, để máu huyết lưu thông, để đầu óc suy nghĩ
về một đề tài nào đó
cho một bức tranh ông
muốn hình thành. Một việc làm đi làm lại như thế lâu ngày trở nên một
thói quen. Và khi nó đã trở thành thói quen rồi, nó cứ thế mà lập đi lập lại
một cách vô thức.
Mùa
Đông thì vậy. Nhưng tới mùa hè, khi
những con đường chung quanh khu nhà ông
ở, sáng chưa có nắng gắt, chiều chưa có bóng tối về, ông và vợ ông thường rời
căn phòng để đi dạo, cũng là để hít thở khí
trời, để thư thái đầu óc, để thư giãn gân cốt, và để khai thông máu huyết trong
người.
Vào
lúc ông ngồi và đang nghĩ vẩn vơ như thế, thì, cánh cửa căn phòng ông ở bật mở.
Ông thấy vợ ông bước ra. Ông thấy tay bà cầm một bịch ny lông. Đi về phía nơi
để bỏ rác, ông biết bà đi bỏ rác. Ông
bước theo sau bà vừa nói:
“Tôi
ngồi đợi bà đã khá lâu ở cái ghế ngoài hành lang. Chắc bà đang ngủ nên tôi gõ
cửa và gọi vẫn không thấy bà thức để ra mở cửa cho tôi”.
Ông
nói. Nhưng ông không thấy vợ ông trả lời. Ông lại lên tiếng bảo:
“Này
bà, bữa nay sao tôi thấy cái gì cũng lạ. Lạ nhất là mấy bà xưa nay tôi quen
biết lại bất lịch sự đến độ tôi chào nhưng họ cứ làm như không có tôi. Tôi có điều gì làm cho họ phật
ý đâu. Vậy mà họ đối sử với tôi như thế
được hay sao”.
Ông
ngưng nói và chờ bà vợ lên tiếng, nhưng vợ ông vẫn lẳng lặng đi đến cái phòng
bỏ rác. Rồi lại từ căn phòng bỏ rác sau khi đã bỏ rác xong, vợ ông đi trở lại
căn phòng của vợ chồng ông thuê ở. Cánh cửa mở, ông theo vợ ông vào. Bây giờ đã
ngồi ở cái “sofa”, nơi mà ông hàng ngày ngồi, ông thấy vợ ông rất buồn, đầu bà ngả trên tựa ghế, đôi mắt ướt.
Ông không hiểu có chuyện gì đã xẩy ra. Để hỏi cho ra nhẽ, ông buộc lòng phải
lên tiếng. Nhưng thay vì trả lời, vợ ông vẫn chỉ ngồi lặng thinh, chẳng nói dù
chỉ là một lời.
Nhà
đầy tranh. Có những bức ông đã vẽ từ nhiều năm trước. Có những bức ông vẽ những
ngày gần đây. Cũng còn một hai bức ông vẽ chưa hoàn thành. Không có điều gì cần
để hỏi vợ ông nữa, bây giờ là lúc ông ngồi lặng lẽ nhìn ngắm những họa phẩm của ông đã vẽ. Bốn bức tường, những bức tranh sơn dầu được treo.
Đó là thành quả của những năm tháng miệt
mài làm việc. Mỗi bức là một đề
tài, một kỷ niệm, khi ông gày dựng nó. Đây là bức chân dung ông vẽ vợ ông lúc
còn trẻ. Đây là bức ông vẽ một bà cụ già. Bà cụ mồm móm mém nhai trầu. Mặt bà
cụ hằn những đường nhăn. Hai má teo tóp như một trái quả khô. Đây là bức ông vẽ
một người đàn ông đầu đội mũ “bê rê”, khăn quàng cổ, miệng ngậm ống “pipe”. Đôi
mắt của người đàn ông đó nom hơi xếch. Đây là bức ông vẽ một nhà ga có một đoàn
tầu nằm dài trên đường ray. Từ miệng ống khói, khói bay lên với lửa và bụi than
đen. Đây là bức ông vẽ một bầy ngựa trắng đang gặm cỏ trên sườn một ngọn đồi.
Cỏ màu xanh. Có một gốc thụ già cành nhánh khẳng khiu, đứng lẻ loi in lên nền
trời màu xanh biêng biếc. Đây là bức ông vẽ hai đứa bé đùa rỡn trên một cánh
đồng cỏ. Cỏ vàng màu lông chó vện. Có một cánh
diều bay lơ lửng trên không. Và
đây là bức ông vẽ những con chim hải âu đang dang rộng đôi cánh đảo vòng trên
mặt biển. Nước biển thì xanh.
Khi
thấy vợ đã tắt đèn vào phòng để ngủ, ông vẫn còn ngồi im lặng trong
bóng tối. Bóng tối đã làm mắt ông không còn nhìn thấy những bức tranh treo trên
tường. Nhưng thay vào đó, ở cái bàn thờ vẫn có ánh sáng của những cây đèn thắp
sáng, ánh sáng đủ để mắt ông thấy những bức chân dung lộng kính của các bậc
sinh thành đã quá vãng,và còn cả bức chân dung của ông để ở đó nữa.
Đèn
đã tắt, trong căn phòng bây giờ chỉ còn là bóng
tối, nếu có ánh sáng, ánh sáng lờ mờ của những cây nến đăt trên bàn thờ
không thể nhìn rõ những bức tranh, thì ông biết đã đến lúc ông nên vào trong
phòng với vợ. Ông đinh ninh nghĩ là vợ ông đã ngủ, nhưng không phải vậy, vợ ông
chẳng những vẫn chưa ngủ mà bà nằm đó, khóc thút thít.
“Có
chuyện gì làm em buồn. Sao lại cứ khóc vậy “.
Ông nói và đợi vợ lên tiếng. Vẫn chỉ là cái im
lặng trong bóng tối của căn phòng, thay cho câu trả lời của vợ.
Đêm
rồi cũng qua. Ngoài vườn cây, trời vừa tang tảng sáng. Đã nghe thấy tiếng hót
của những con chim. Đúng vậy. Trời tang tảng sáng và tiếng hót của những con
chim báo hiệu buổi mai của một ngày đã đến. Nhìn qua kính cửa sổ, rõ ràng ông
thấy những vụn nắng le lói như những ánh lửa leo lét trên lá của cây cối phía bên kia con đường. Ánh sáng đến chính là
lúc ông cảm thấy bồn chồn sợ hãi. Cùng lúc với những tiếng động của xe cộ chạy
qua lại trên con lộ ở bên ngoài, đã làm hồn ông chấn động. Tan như băng, loãng
như khói, mờ nhạt như sương mù, ông là vậy khi
hồn không còn trụ vững, rồi như một quả bóng lặt lờ bay lên cao, như cây
cải bay về trời, như sợi bông gạo giạt về núi, như âm thanh của tiếng chuông đã
tắt, hồn ông quay về cõi hư vô.
Đúng
một trăm ngày, ngày đó, ông thấy cái hũ đựng tro của ông được vợ con ông mang
lên một cái xe. Xe chạy trên xa lộ rồi xe đến một vùng có núi. Đứng ở núi, ngó
xuống thấy biển. Địa danh thành phố là San Francisco. Nơi một vài lần ông đã cùng
vợ con ông đến.
Ở
San Francisco, ngoài cây cầu Golden Gate hùng tráng và vĩ đại nối bờ đất ở bên này với bờ đất ở bên kia
của con sông lớn chảy ra biển, ngoài
những con đường núi dốc đứng đầy nguy hiểm và lảng vảng
có bóng tử thần, ngoài những khu
thương mại xầm uất và đông người nờm nợp
đi lại trên hè phố, nơi được coi là đất của những người Tầu, thì phần lớn cũng
giống như các đô thị khác, chỗ này là những tòa nhà chọc trời, chỗ kia là những
khu tư gia của những người dân ở, chỗ khác có những ngôi nhà biệt lập và đây đó
xa gần, những cây cầu đúc treo lơ lửng vắt vẻo trên không.
Nếu
không phải là những khu trung tâm của
thành phố, thì ở nhiều nơi nhà cửa thấp thấy có những quán ăn, những
tiệm sách báo, những cửa hàng bán rượu, những văn phòng dịch vụ, những cột bán
xăng, những bãi có xe đậu để bán.
Bây
giờ đã đến lúc ông nhận thấy ông cùng vợ con ông ra tới bờ biển. Vợ ông tay ôm
cái hũ khi bước xuống tầu.Tầu rời bến rồi từ từ hướng mũi ra khơi. Ngoài khơi,
mặt nước phẳng lì và bóng như một tấm gương. Những cơn gió từ ngoài biển thổi
về mang theo cái lạnh đưa vào thành phố. Đảo cánh bay qua bay lại, in lên bầu
trời ở phía xa xa, là những con chim hải âu. Tiếng kêu của chúng nghe khô khan
như tiếng người gọi nhau ở dưới bờ bãi nước vọng về.
Hồn
ông chỉ là sợi nắng, là làn khói, là hơi nước, là ánh sáng trong suốt, vì thế,
hồn cứ nương theo gió, gió đưa ông lên cao, gió hạ ông xuống thấp, nhưng bao
giờ hồn cũng cố gắng bám sát con tầu ở một khoảng cách nào đó, có khi ở ngay
chính boong tầu, nơi có cái hũ đựng tro của ông. Đã đến lúc nắp của cái hũ được
mở. Đã đến lúc tro trong cái hũ được bàn tay vợ ông bốc ra. Xuôi theo chiều gió
và thuận với hướng chạy của con tầu, lớp tro vừa được rải xuống đã vội vã bay
về phía sau, rồi lớp tro đó biến mất.
Từ
những ngày đó, hồn thanh thản mát mẻ, ông hòa nhập với biển khơi. Ngày với tiếng
kêu của chim hải âu. Đêm với tiếng sóng
gọi nhau chạy vào bờ. Chẳng còn gì phải vương vấn cõi trần thế, hồn tự tại bình
yên an nghỉ ở một cõi vô thường sau khi giã từ kiếp làm người.
NGUYỄN
TRUNG DŨNG
No comments:
Post a Comment