Bài
viết của Trương Vũ
Võ Đình
(1933 –
2009)
*KỶ NIỆM 7 NĂM NGÀY MẤT CỦA HỌA SĨ VÕ ĐÌNH
Chiều Thứ Sáu 29 tháng 5, Hoàng Ngọc Hòa đón tôi với chị Hoàng Bắc từ phi trường West Palm Beach, Florida về nhà anh Võ Đình. Một căn nhà nhỏ xinh xắn xung quanh là vườn cây um tùm khá rộng. Khi theo chị Lai Hồng vào phòng, thấy anh nằm yên, thở mạnh, mắt nhắm. Gọi, không trả lời. Mắt không mở. Một chút cử động nơi môi. Khi nắm tay, anh bóp nhẹ. Chúng tôi nói vài lời với anh, coi như anh vẫn nghe, vẫn biết. Và, im lặng.
Chiều Thứ Sáu 29 tháng 5, Hoàng Ngọc Hòa đón tôi với chị Hoàng Bắc từ phi trường West Palm Beach, Florida về nhà anh Võ Đình. Một căn nhà nhỏ xinh xắn xung quanh là vườn cây um tùm khá rộng. Khi theo chị Lai Hồng vào phòng, thấy anh nằm yên, thở mạnh, mắt nhắm. Gọi, không trả lời. Mắt không mở. Một chút cử động nơi môi. Khi nắm tay, anh bóp nhẹ. Chúng tôi nói vài lời với anh, coi như anh vẫn nghe, vẫn biết. Và, im lặng.
Anh
được đưa về nhà hôm trước, Thứ Năm ngày 28, sau thời gian nằm trong Trung tâm
Phục hồi và Dưỡng lão ManorCare, từ tháng 10 năm ngoái. Mỗi ngày, chị Lai Hồng
vào từ chiều, ngủ lại đêm trong đó. Chị chuyện trò, chăm sóc, kể chuyện, đọc
emails, đọc sách cho anh nghe, giúp bón anh ăn. Ban ngày, chị về nhà mấy tiếng
đồng hồ rồi trở lại.
Tuần
trước đây, anh viết xuống vài chữ ngỏ ý muốn về nhà. Anh muốn hưởng những ngày
cuối cùng trong nhà mình. Anh muốn nghe Kinh Cầu An, và Bát Nhã Tâm Kinh. Về
thăm anh, ngoài chúng tôi, có cháu Quang Minh (con trai chị Lai Hồng), anh Đinh
Cường và Eddie Ramsburg. Hai người con
gái của anh là Phượng Nam và Linh Giang, ngày mai Thứ Bảy đến. Một vài bạn bè
thân, như anh chị Trần Đình Hoành/Túy Phượng, trên đường lái xe từ Virginia.
Những người bà con, như anh Phan Nhật Nam, đến vào tuần tới.
Eddie
học vẽ với anh Võ Đình từ những ngày anh còn ở trên vùng núi Maryland, và hơn
mười năm trước đã lái U-Haul chở đồ đạc của anh chị từ Maryland về Florida.
Hiện thời Eddie dạy vẽ ở Frederick, Maryland, và cũng là một họa sĩ có nhiều
triển lãm cá nhân, với nhiều đam mê. Khi trở ra ngồi ở phòng khách, nói chuyện
và xem những hình chụp tranh của Eddie, tôi thấy có chút bóng dáng Võ Đình
trong đó. Dễ hiểu, vì Eddie được xem là một đệ tử ruột của anh và rất kính
trọng anh.
Tôi
không nhớ chính xác lần đầu tiên tôi gặp anh Võ Đình là vào lúc nào, ở nơi nào.
Nhưng tôi nhớ lúc đó anh đang nói về những bức tranh anh vẽ trong thời gian anh
ở với cháu Phượng Nam khi cháu chỉ mới hai, ba tuổi. Buổi tối đó, anh ngâm Ngậm
Ngùi của Huy Cận. Giọng anh mạnh, ấm. Rất đặc biệt. Không giống một giọng ngâm
nào tôi đã từng nghe. Tôi cũng không nhớ là từ lúc nào anh trở thành một bạn
vong niên của tôi, chắc cũng gần 30 năm. Rồi, năm sáu năm sau, anh trở thành
một người thân trong gia đình. Mỗi lần anh đến, má tôi kho cho anh món cá rất
đặc biệt của bà. Trong nhà tôi, anh đã ngâm rất nhiều thơ. Tôi thích nhất khi
anh ngâm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm.
Bao
nhiêu biến đổi trong đời anh, đời tôi, kể từ những ngày mới quen nhau. Bao
nhiêu chuyện, truyện anh đã viết. Bao nhiêu tranh anh đã vẽ. Bao nhiêu sách anh
đã dịch, đã minh họa, đã xuất bản. Bao cuộc tình đến, rồi đi. Bao sóng, gió.
Bao thăng, trầm! Bao lặng lẽ… Có những lúc, anh ngồi thuyết trình, nói mê man,
sang sảng, vài trăm người chăm chú lắng nghe. Rồi có lúc, nhìn quanh, ngoài
những bạn trẻ của anh vốn hài hòa với cuộc đời, như Đinh Cường, như Văn Hưng,
như Đặng Đình Khiết, như Ngô Vương Toại, như Giang Hữu Tuyên, như Hoàng Ngọc
Hòa, hay tôi, không biết có mấy ai gật đầu với anh.
Anh
là một người khó tánh (có người gọi đùa là “khó tiền sử”), hầu như ai cũng
biết. Nhưng anh cũng là một người rất dễ tính. Điều đó hầu như ai cũng biết.
Chỉ khác là cái anh khó với cái anh dễ, thường không giống với cái nên dễ, nên
khó trong thường tình. Với tôi, những cái khó tánh của anh đã gây nên không biết
bao tranh cãi giữa anh với tôi, nhưng cũng chính từ đó mà tôi gần anh hơn,
thương và kính trọng hơn. Ít nhiều, chính cái khó tánh đó đã tạo cho anh một
thế giới riêng mà từ đó anh mang đến những cống hiến lớn cho văn học, nghệ
thuật và cho cuộc đời.
Anh
là một tác giả thành tựu, trong cả hai lãnh vực văn học và hội họa. Công trình
của anh và giá trị văn học hay nghệ thuật trong tác phẩm của anh được ghi nhận
và phân tích nhiều trong giới phê bình.
Võ
Đình sinh năm 1933, tại Huế, rời quê hương rất sớm, vào lúc 17 tuổi, và sống
luôn ở Pháp, rồi ở Mỹ. Anh chỉ về thăm Việt Nam vài lần, mỗi lần trong thời hạn
rất ngắn. Rất giống hoàn cảnh của lớp trẻ Việt Nam thuộc thế hệ một rưỡi hay
thứ hai của cộng đồng Việt hiện nay.
Văn
của Võ Đình không dễ đọc, tranh của Võ Đình không dễ xem. Bởi luôn hàm chứa
những phức tạp của đời sống, những độ sâu trong suy tưởng, và những rung động
của con người. Đọc văn anh, xem tranh anh, hay ngồi nói chuyện với anh, chúng
ta rất dễ thấy nơi con người thoạt nhìn có vẻ bình dị, ảnh hưởng sâu đậm của ba
nền văn hoá Việt, Pháp, Mỹ, và biểu lộ những ảnh hưởng đó một cách tự nhiên,
không mặc cảm, khi khen như khi chê. Anh thích nhìn con người hay xã hội trên
khía cạnh văn hóa, và nhìn sự vật, cây cỏ ở cái đẹp mà tạo hóa mang lại, dù đó
chỉ là một con nhái bén hay những thứ “rau cỏ hèn mọn”.
Anh
đề cao tính sáng tạo, rất dị ứng với những cách nhìn hời hợt, những cách nhìn
theo thói quen, những cách lặp đi lặp lại mà anh cho là phát sinh từ sự lười
biếng trong suy nghĩ. Anh luôn đề cao sự đam mê, hay cách sống hết lòng, cho
một niềm tin, hay vì một mục tiêu nào đó, cho dù mục tiêu đó chỉ là để… chơi.
Tỉ như, khi anh viết về thú chơi xe lửa của một hưu trí viên 65 tuổi. Chơi,
nhưng chơi… thiệt.
Anh
trân trọng công trình của người khác, nếu đó là một công trình có chất lượng
hay được thực hiện hết lòng. Anh có thể nói say sưa, qua ngòi viết, hay qua
những câu chuyện trao đổi với bạn bè, về tranh của Cézanne, của Gauguin, Van
Gogh, hay của Đỗ Quang Em; hay bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, truyện ngắn
của Võ Phiến, của Trần Vũ… Nói với tất cả sự trân trọng, như đã may mắn nhận
được những món quà thật quý giá. Vào những lúc như vậy, qua những nhắc nhở có
vẻ như vô tình đó, người đọc hay người đối thoại có thể chợt nhận ra sự may mắn
của mình vì đã có biết bao nhiêu món quà quý giá mà đời sống đã mang lại, mà
chính những người mang lại chưa chắc đã được chút gì may mắn cho họ, ngoài tài
năng và lòng đam mê. Van Gogh chẳng hạn, ông cống hiến cho chúng ta bao nhiêu
tác phẩm tuyệt vời, nhưng cho đến chết ông sống khổ cực, chỉ bán được một bức
tranh, và cuộc đời ông là một bi kịch lớn.
Khi
viết về Võ Đình, có một yếu tố nổi bật không thể không nói đến. Đó là yếu tố
Việt Nam trong con người anh, biểu lộ rõ nét trong tác phẩm hay trong đời sống
hàng ngày. Anh viết tiếng Anh rất giỏi, dĩ nhiên, vì anh lớn lên và sống gần
như cả đời ở Mỹ. Và tiếng Pháp cũng giỏi vì anh đã học ở Pháp. Nhưng tiếng Việt
của anh, khi anh viết hay khi anh nói, nếu không biết không ai dám nghĩ rằng kể
từ năm 17 tuổi cho đến quá tuổi tri thiên mệnh, cho đến những ngày cuối cùng,
anh chỉ sống ở Việt Nam tổng cộng có vài tháng. Không phải chỉ hay thôi, nó đạt
đến phần vi tế nhất của ngôn ngữ mà những nhà văn tài hoa và khó tánh nổi tiếng
về cách dùng tiếng Việt cũng phải khâm phục.
Anh
mê và hiểu biết sâu sắc ca dao Việt Nam. Khi sống hay khi viết, anh thường nghĩ
đến từng câu, nhập vào thật đúng lúc của nó. Chẳng hạn, sống ở Florida, nước
Mỹ, nhưng khi nhìn thấy một con nhái nằm thù lu trong mấy cái lá, anh nhớ đến
một câu ca dao thật rầu: Chiều chiều bắt nhái cắm câu/ Nhái kêu cái ẹo, thảm
sầu nhái ơi.
Anh
hiểu biết rất rõ lịch sử Việt Nam, nhưng không chỉ dừng lại ở hiểu biết, anh
sống với những thăng trầm của lịch sử. Anh cảm nhận sâu sắc về cuộc Nam tiến,
nhưng không chỉ dừng lại ở nét hùng tráng về công trình mở mang bờ cõi, mà anh
cảm thông thật sự tâm trạng, đời sống những con người bình thường, cô đơn, vật
lộn hàng ngày với thiên nhiên, khi được đẩy vào những vùng đất xa xôi ở miền
Nam đang còn rất hoang dại. Vì thế, anh đã viết với tất cả sự ngưỡng mộ chân
tình truyện ngắn Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc mà anh cho là một trong những
truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Về lịch sử Nam tiến, anh ngưỡng
mộ những chiến thắng, nhưng bên cạnh đó, anh đưa ra những trách móc tế nhị,
trách móc về cách đối xử không đẹp của vua chúa Việt với những người Chiêm thất
trận, như đã giết vua người, lại còn rắp tâm chiếm vợ vua người, để đến nỗi
vương phi Mị Ê của Chiêm Thành, quấn chiên, lăn xuống sông tự tử.
Trong
đời sống hàng ngày và trong tác phẩm, Võ Đình thường để tự mình hụp lặn vào
những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại. Cách đây 36 năm,
tức hai năm trước khi cuộc chiến chấm dứt, vào thời kỳ sôi động nhất, anh trở
về thăm quê hương lần đầu. Trong một bài viết sau đó, anh cho biết, anh gặp một
vũng nước mà anh có cảm giác như chính đó là vũng nước khi còn bé anh thường
đến và đùa nghịch trên đó. Anh cũng cho biết, khi đi lại trên những con đường ở
Huế mà anh từng đi lại vào những ngày thơ ấu, anh có những cảm giác rất mạnh,
rất thật, như chính anh đã đụng vào những hồn ma đang đi, đang chạy xung quanh,
hồn ma của những con người vô tội dìu dắt nhau chạy tán loạn vào những ngày
kinh thành thất thủ gần một trăm năm trước.
Thời
gian đó, ở Mỹ, anh sống trong một căn nhà cũ, trên một vùng núi ở Maryland, gọi
tên là Stonevale, Thạch Lũng. Xung quanh nhà có một hàng rào dài làm bằng những
miếng đá dẹp chồng chất lên nhau, do những người nô lệ làm nên từ hơn hai trăm
năm trước. Tôi có đến thăm anh ở đó, vài năm sau chuyến thăm quê hương của anh.
Một người thân của anh có kể lại, khi đón anh trở về, chị có linh cảm lạ lùng
là dường như có một vài bóng ma đã theo anh từ Việt Nam trở về và đang cùng anh
bước vào nhà.
Võ
Đình thích sống gần thiên nhiên. Ngoài mê say vẽ, viết và đọc sách, anh thích
làm lụng và nhìn ngắm cỏ cây, sống điều độ và ăn uống thanh đạm. Anh rất khỏe
mạnh, hơn nhiều người cùng tuổi. Cách đây khoảng hơn hai năm, anh bỗng yếu đi
hẳn. Đi không vững, rất dễ té, và mắt thường bị chói ánh sáng. Anh đi bác sĩ
thường xuyên, và có khi vào Trung tâm Phục hồi, ban đầu ngắn hạn rồi ở dài hạn,
nhưng bác sĩ không tìm ra đúng bệnh. Chỉ mới đây, giữa tháng hai, bác sĩ chuyên
khoa não cho biết anh bị chứng PSP (Progressive Supranuclear Palsy), một loại suy
thoái não chưa có thuốc chữa. Anh phải vào ở hẳn trong khu dài hạn. Ngày càng
yếu đi.
Có
nhiều người đàn bà đã đi qua đời anh, nhưng tôi nghĩ, cuộc nhân duyên sau cùng,
với chị Lai Hồng, chính thức khởi đầu từ 16 năm trước đây và có thể đã bắt
nguồn từ lâu lắm, là mối nhân duyên đem lại sự bình an nhất trong đời anh.
Trong cuộc nhân duyên này, anh tìm được sự chia xẻ về nguồn cội, về chữ nghĩa,
về nghệ thuật, về tương kính. Và, rất khó để không nhận thấy là anh đã nhận
được một chăm sóc tận tình, một sự thông cảm và kiên nhẫn gần như vượt quá khả
năng của con người. Nỗi lo sợ lớn nhất của người thân, bạn bè, và cả nhân viên
Trung tâm ManorCare, là chị có thể quỵ xuống trước.
Trưa
Thứ Bảy, 30 tháng 5, chúng tôi dự lễ Cầu an tại nhà anh do hai ni cô Chùa Lộc
Uyển chủ trì cùng với anh chị Nguyễn Trà/Thanh Trúc của Hội Phật giáo Nam
Florida và một số đạo hữu. Cả gia đình Hòa đều có mặt. Sau đó, Đinh Cường và
anh Diệp Bảo Chương, bạn của Cường và anh chị Võ Đình, đến. Phượng Nam và Linh
Giang từ Maryland cũng đến ngay sau đó. Phượng Nam và Linh Giang là con gái của
anh Đình với hai người vợ Mỹ. Cũng đã hơn 15 năm tôi mới gặp lại Linh Giang và
hơn 25 năm gặp lại Phượng Nam. Các cháu không nói được tiếng Việt, và với những
ai không biết, khi gặp đều nghĩ đây là những người Mỹ hoàn toàn.
Phượng
Nam nổi tiếng do một bức tranh anh vẽ năm cháu khoảng bốn tuổi, trong chiếc áo
dài Việt Nam màu vàng, tay cầm một chong chóng nhỏ. Bức tranh được tổ chức
UNICEF chọn làm postcard chính thức phát hành nhân Ngày Trẻ Em Thế Giới. Tôi
rất mừng thấy Phượng Nam đến. Phượng Nam hay xung khắc với papa và chắc cũng
lâu lắm rồi không gặp papa. Mọi người đều nói có lẽ tính khí của Phượng Nam quá
giống anh.
Linh
Giang hơi khác chị, rất dịu dàng. Khi mới lên đại học, cháu có học toán với
tôi, được một buổi rồi thôi. Khi gặp lại, cháu không nhắc lại bài học toán mà
nhắc lại những bài học đầu tiên về guitare mỗi lần lên chơi Thạch Lũng tôi có
dạy cho cháu. Hiện thời cháu dạy guitare ở một trung tâm âm nhạc vùng Maryland.
Tôi nói với cháu thật ra guitare là môn tôi dốt nhất, và có thể trong tương lai
nếu sức khỏe cho phép tôi sẽ đến học guitare với cháu.
Đây
không phải là lần đầu tiên hai cháu gặp Eddie. Phượng Nam và Linh Giang đều
không theo hội họa như papa, nhưng khi xem hình chụp những bức tranh của Eddie,
Phượng Nam rất thích và hứa khi về lại Maryland sẽ ghi tên theo học lớp họa của
Eddie. Tôi thấy vui, vì biết đâu, qua đó, “hạt nhân hội họa” của Võ Đình sẽ
được gieo lại cho con mình một cách gián tiểp. Sau buổi gặp gỡ đó, Eddie vội vã
ra phi trường về Frederick và hứa tuần sau trở lại.
Hôm
Thứ Bảy đó, anh đã yếu lắm. Khi nói chuyện và nắm tay anh, không thấy anh bóp
nhẹ như hôm qua. Tuy nhiên, chị Lai Hồng cho biết, sáng Thứ Bảy đó, bỗng nhiên
anh mở mắt lớn nhìn chị, thều thào được mấy tiếng “Hồng ơi! Hồng ơi!
Hồng ơi! …” rồi nở nhẹ nụ cười thật hiền, tay nắm chặt tay chị đưa lên
đưa xuống. Chị linh cảm… Buổi chiều, khi hai cháu Phượng Nam và Linh Giang đến,
cúi xuống ôm anh, “Papa, this is Phượng Nam. Papa, this is Linh Giang!”, tôi
thấy môi anh hơi mấp máy. Hai cháu cầm
tay anh. Bất động. Nhưng mấy giọt nước mắt chảy dài trên phía trái…
Chiều
hôm sau, chúa nhật 31 tháng 5, 2009, chúng tôi trở lại. Vài phút sau đó, anh
chị Nguyễn Trà/ Thanh Trúc cũng đến, trong những chiếc áo lam truyền thống. Tôi
cầm tay anh Đình, không thấy chút phản ứng. Sau đó, khi đang ngồi nói chuyện
trong phòng khách, có người ra cho biết cô y tá báo động. Chúng tôi – Đinh Cường,
Hoàng Bắc, anh Chương, Hòa, cháu Quang Minh và tôi – bước vào phòng. Chị Lai
Hồng, anh chị Trà, Phượng Nam, Linh Giang và cô y tá Mỹ đã có mặt ở đó. Chúng
tôi đứng quanh giường anh. Cháu Linh Giang ngồi dưới đất, ngoài cánh cửa gương
lớn ngăn cách phòng anh với vườn sau. Cháu ngồi im, mắt nhắm, trong tư thế tọa
thiền, tay chắp lại. Hơi thở anh yếu dần. Chị Lai Hồng đứng yên, im lặng một
cách lạnh người. Anh chị Trà bắt đầu tụng kinh Thủy Sám. Rồi, đọc kinh Bát Nhã.
“…Xá
Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp đều không. Không sanh cũng không diệt. Không nhơ
cũng không sạch. Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không, không có
sắc, thọ, tưởng. Cũng không có hành thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý
(sáu căn). Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (sáu trần). Không có mười
tám giới. Từ nhãn đến ý thức không hề có vô minh. Không có hết vô minh. Cho đến
không lão tử. Cũng không hết lão tử. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng
không đắc…”
Hơi
thở anh yếu dần. Anh chị Trà, chuyển sang tụng kinh A Di Đà, nguyện cầu ngài
Tiếp Dẫn Đại Sư đưa một linh hồn về nơi Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A
Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật,… Tiếng tụng nhỏ, đều đều, như âm vang từ một
cõi xa xôi nào vọng lại.
Hơi
thở anh yếu dần. Yếu dần. Rồi ngưng hẳn. Ngọn đèn trên bàn cô y tá, cạnh chị
Lai Hồng, vụt chớp rồi tắt. Đúng 6 giờ 20 chiều. Chúng tôi vội bước đến gần
anh. Cháu Phượng Nam đến ôm mặt anh, “Papa, this is Phượng Nam!” Cháu Linh
Giang ngồi yên trong tư thế tọa thiền. Chị Lai Hồng đứng yên cuối giường, im
lặng. Dù đã dặn trước không được tỏ xúc động, Hoàng Bắc vẫn khóc.
Chúng
tôi lần lượt nói lời vĩnh biệt. Khoảng 10 giờ tối, tất cả ra về, chỉ còn lại
chị Lai Hồng với các cháu… và anh.
Tôi
nhớ lại rất rõ, nét mặt anh, điệu bộ anh, giọng sang sảng của anh, khi ngâm
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm. “Đưa người ta không đưa qua sông…”
Trương
Vũ
Maryland,
tháng 6 năm 2009