Chu Văn Sơn
Chân dung Ý Nhi. Kevin Bowen vẽ
Ý Nhi tuyển tập
Tôi cứ hình dung nghệ sĩ đích
thực là một kẻ khát. Khát như một chứng bệnh, lại như một nhu cầu. Là rủi ro mà
cũng là may mắn. Nó khiến anh không thể không đi tìm cho được nguồn nước của
riêng mình. Vừa buộc anh thành nghệ sĩ vừa biến anh thành tù nhân trong một
cuộc đày ải vô hình và dai dẳng. Biến đời nghệ thuật thành cuộc lưu đày. Nó
khác nào như một thứ khổ giá tiền định mà tự nguyện. Nó mà thôi dày vò, anh
liền bị cắt cơn sáng tạo. Khỏi phận tù đày, anh hết là nghệ sĩ. Khuôn mặt tinh
thần và tầm vóc của anh tùy thuộc vào cơn khát ấy. Cơn khát có tên là Tuyệt đối. Mỗi người khát một thứ khác
nhau nhưng đều là cái mình cho là Tuyệt đối. Là Tuyệt đối, nên bao giờ nó cũng
có khoảng cách đối với nghệ sĩ. Khoảng cách bằng chính cơn khát.
Dày vò đeo đẳng Ý Nhi suốt mấy chục năm qua trên mọi chặng
đường thơ là một nỗi khát thôi. Nỗi khát Yên
bình. Chẳng phải thế sao! Cứ lần
theo bước chân mải miết kiếm tìm nguồn nước, có thể thấy kẻ khát đã rắc lại
những ngôn từ, khác nào một thứ lông ngỗng riêng đánh dấu đường qua các trang
thơ: chỗ này là yên tĩnh, yên hàn, yên
lành, trong lành, chỗ kia là lắng
yên, yên lặng, bình yên, thanh bình, trầm tĩnh…Những ngôn từ vốn là chị em
ruột rà với nhau. Baudelaire gọi những từ ấy ở một thi sĩ là từ chìa khóa. Nó
biểu hiện nỗi ám ảnh, biểu hiện mối ưu tư chính của nhà thơ. Nhà thi pháp học
gọi đó là hệ thống ngôn từ mang tính quan niệm. Dù gọi bằng tên gì, đó vẫn là
những biến thể khác nhau của cùng một cơn
khát bình yên thôi. Qua các tập thơ, ta còn nhận ra: từ cơn khát ấy,
theo những cách riêng nào đó, đã mọc lên cả một thế giới hình tượng tươi tắn
sum suê. Nó là chiếc lá thắm biếc, là bóng cây thâm u, là màu trời xanh nhẫn
nại sau mây, là cái lắng mình của dòng sông, là chùm rau me đất giữa độ đường
không cây, là bóng mát cây sồi trầm tĩnh bên hồ Thuyền Quang, là sông Trà với
doi cát vàng như tơ dưới nắng, là Praha thanh bình như một giấc mơ…Là vườn, là
chùa, là cơn mưa, là biển lớn, là mùa thu- Mùa
thu ngủ yên dưới tầng lá thắm/ Gió
trong xanh như nước chảy qua rừng… Trong mỗi hình tượng kia đều âm vang một
tiếng thì thầm: Này hỡi yên bình,
người ở đâu? Có lẽ đó là cái tiếng thì thầm như một điệp khúc khắc khoải của
cái Tôi ấy. Nó vang vang ngân ngân qua tầng tầng hình tượng của thế giới thi ca
Ý Nhi. Có lúc nó rơi vào hư không thăm thẳm chẳng chút hồi âm. Có lúc nó rơi
lại chính lòng mình thành một tiếng thở dài chìm vào lồng ngực.
Tôi cứ ngỡ trong một lần nào đó, Ý Nhi đã lỡ tay đánh rơi
mất sự yên bình vô giá của mình. Mất
đi vĩnh viễn. Nó rơi hút vào tuổi thơ xa
tít tắp Hải Phòng hoặc rớt xuống cái mặt
đất đầy việc dữ, rồi cát bỏng đã lập tức làm cho hoàn toàn tiêu tan. Tuổi
thơ đã mang đi hay cái thời khắc nghiệt kia đã cướp mất, nó là tâm bệnh hay là
thời bệnh? Chỉ biết rằng, tự bấy trở đi, nhìn vào lòng, chỉ còn thấy có nỗi bồn
chồn, xao xác. Và từ đó, cái Tôi Ý Nhi có diện mạo riêng là kẻ khát Yên bình. Sống, với Cái Tôi ấy là lên
đường tìm kiếm sự Yên bình. Càng bồn
chồn càng khát Bình yên. Chị hy vọng yên bình vẫn chờ đâu đó ở cuối con đường.
Chị gắng nâng niu mọi che chở, gom góp mọi bao dung, chắt chiu mọi dịu dàng.
Với chị, đó là khoảnh khắc hạnh phúc có thực, dù nó vô cùng hiếm hoi. Mà thật
oái oăm là dường như khi đã đánh mất sự bình yên, Cái Tôi ấy đã đánh mất luôn
cả một thứ sâu xa nữa: khả năng cầm giữ sự bình yên. Nói tâm bệnh là thế. Giáp
mặt với bình yên, chị vừa không dám tin vừa không dám hưởng. Bồn chồn mong mỏi
yên bình, đến giữa yên bình lại thấy lòng xao xác. Hạnh phúc và tủi sầu giao
tranh nhau trong cõi lòng không yên định, mà chị thường gọi là nỗi niềm không
xác thực:” Đôi lần/ Em nhìn tán cây mà ứa
nước mắt/ Vì màu xanh…Đôi lần/ Em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt/ Vì sự
trong trẻo”. Thật là :” Một hạnh phúc
thương đau/ một hân hoan buồn bã”. Thế nên, đi giữa một thủ đô thanh bình
như giấc mơ cổ tích, Cái Tôi ấy chỉ thấy Lòng
bồn chồn giữa Praha bình yên. Và xao xác giữa ngày yên, một nỗi niềm oái
oăm, đã thành nỗi niềm thường trực. Một cơ chế tinh thần éo le, nghịch lý như
vậy phải chăng là bi kịch? Mà suy cho cùng, nó đâu phải của riêng người đàn bà
nào, riêng thời nào. Nó là cơn khát muôn thưở. Dù thế nào, với cái Tôi ấy, bình
yên đã thành thoáng chốc xa vời, bồn chồn mới là thường hằng vĩnh viễn. Trải
qua năm tháng chính nó đã kết tinh thành một quan niệm thơ rất riêng của thi
sĩ. Phải, với Ý Nhi, thơ chính là lời
nguyện cho nỗi yên hàn.
***
Nỗi khát nằm sâu trong tâm thức đã thành kẻ kiến tạo toàn
bộ cõi thơ Ý Nhi. Nó phân lập không gian thành hai đối cực: Miền yên bình nơi sinh ra để bao dung
và thanh lọc, nơi chung sống của những gì trong trẻo, dịu lành. ở đó có tiếng
chim khuyên trong như giọt ban mai, có bông tuyết nhẹ nhàng tinh trong buốt giá
và sắc hoa quỳ luôn vàng thắm nơi lưng dậu vườn êm hay những triền xa…Miền khắc nghiệt với cát bỏng, bùn lầy,
nắng xối, gió quất, mưa chan, ồn ào, phồn tạp, đầy bất ổn, bất an, nơi ngự trị
của hiềm khích, hận thù, đố kỵ, giả trá, chúng vây bủa những cây dương đơn độc
mà kiêu hãnh, chúng muốn làm tiêu tan sắc xuân dịu dàng của chùm rau me
đất…Hành trình của cái Tôi là gắng từ bỏ miền khắc nghiệt để đến với chốn yên
bình. Thế là, thi sĩ thành kẻ lữ hành đơn độc giữa phố đông, người bước vội trong đêm qua miền cát. Nó cũng phân
lập thời gian: Quá khứ là thời yên
bình đã mất, ở đó tuổi trẻ và tuổi thơ lúc nào cũng mỉm cười tha thứ chở che. Hiện
tại là quãng thời gian phi yên bình, ở đó trạng thái bồn chồn đã làm thời
gian vụn nát thành muôn mảnh, thi sĩ đi xâu những mảnh vỡ sắc nhọn thành nỗi
xao xác lê thê. Còn tương lai thì đâu đó mãi cuối tầm nhìn, nó là cõi yên bình
tuyệt đối luôn vẫy gọi, cũng luôn lùi xa như rừng mơ chập chờn trong cơn khát.
Thế giới thơ Ý Nhi là sự tương sinh tương khắc của các đối cực ấy.
Mà sâu xa hơn, cơn khát kia quyết định chuẩn mực hạnh phúc
của người phụ nữ Ý Nhi lẫn chuẩn mực cái đẹp của thi sĩ Ý Nhi. Tìm kiếm hạnh
phúc cũng là tìm kiếm cái đẹp. Cả hai có cùng một gương mặt. Chị yêu những phút
giây yên ắng, trong lành, dị ứng với những ồn ào, giả trá. Gắng chịu đựng và
vượt qua những nắng nôi, bỏng sôi, giông gió để đến với những cảnh giới u tĩnh,
thanh thản. Tìm kiếm vườn trong phố, chùa trong phố, hồ trong phố. Hành hương
đến những dòng sông và biển lớn. Đến với những Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,
những Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu, những Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên,
Akhmatova, Xvetaeva…chị đã tìm thấy được cái đẹp của mình. Bởi họ đều là những
nhân cách lớn, đều đã đắc đạo. Đắc đạo dường như là lý tưởng nhân văn của chị.
Theo thi sĩ, đắc đạo là đã đạt đến độ tự biết, đã vượt lên mọi vướng bận đời thường.
Biểu hiện hằng ngày của nó là lặng lẽ sáng trong. Sáng trong của dòng sông đã
qua nhiều bão tố. Và lặng lẽ của chưng cất:”
Những tiếng kêu bi thương cuồng nộ/Đã tan trong lặng thinh kỳ bí”. Ấy là
nỗi lặng yên minh triết, vẻ khiêm nhường kiêu sang. Họ cứ mãi thế cho đến giờ
phút chót:” Rồi ra đi/ Như một vì sao/ Chợt tắt/ Giữa bao la”.
Có thể đắc đạo thế này dễ ra cao đạo. Dù sao, chỉ đến với họ, chị mới tìm được
cho mình sự thanh thỏa. Mà, họ hiện diện giữa cõi đời cũng giống như vì sao ở
giữa bao la. Cho nên, trong thơ chị, người ta luôn thấy một người đàn bà mải
miết đi lên phía trước và thường ngoái lại phía sau. Đời đã thành một hành
trình. Tôi cứ nghĩ người đàn bà này là chị em song sinh với người đàn bà trong
thơ Xuân Quỳnh. Họ đã cùng lên đường, rồi mỗi người mỗi ngả, mỗi người một cách
cùng nhằm về cái đích phía chân trời. Xuân
Quỳnh đi tìm kiếm sự yên lành trong đời, Ý Nhi đi tìm kiếm sự yên tĩnh trong
mình. Điều họ tìm cứ luôn ở phía trước vừa mời mọc vừa trêu ngươi. Mà người
luôn thấy đích ở phía trước là người không bao giờ chạm đích. Hôm chiêm bao gặp
Xuân Quỳnh, Ý Nhi- giờ là kẻ đồng hành đơn độc- đã chua xót nhìn suốt cả hành
trình mà nói vọng sang thế giới bên kia với người đồng bệnh tương liên:” Cơn mưa ta ngóng đợi/ Còn ở tận cuối trời/ Đường dài ngày nắng xối/ Bước chân
trần Quỳnh ơi//Nào thấy đâu bến bờ/
Sau gió Lào, cát trắng/ Thấy đâu mảnh vườn êm/ Thấy đâu miền biển lặng//Ánh mắt nhìn đăm đắm/ Lệ trôi qua môi
cười/ Suốt một đời vội vã/ Suốt đời
không tới nơi//Kìa mây mùa thu trôi/ Cúc đã vàng thắm lại/ Thơ buồn trên mặt giấy/ Bóng người về đơn côi.
Lúc nào cũng nghĩ: Sau tất cả những khắc nghiệt, gian truân, thế nào rồi cũng
đến thôi. Nhưng đã “sau’ nhiều lắm rồi, đến cát, đến dòng sông, đến biển, đến
mùa thu, đến mảnh vườn, đến cơn mưa…rồi . mà vẫn chưa tới, vẫn cứ còn phía
trước, vẫn khắc khoải chờ đợi điều chi,
mong mỏi điều chi. Tính chất giời đày chính là ở chỗ: lòng không chịu nguôi
yên. Đi tìm sự yên tĩnh, ngỡ nó là một bến bờ, một xứ sở, một cõi nào đó ngoài
mình, hóa ra nó ở trong mình. Lòng mình có tĩnh thì mới nhập vào đời tĩnh. Hóa
giải được nỗi bồn chồn mới đến được cõi bằng an. Chìa khóa của hạnh phúc là đó.
Nhưng chìa khóa đó đã lỡ làm rơi hoặc bị đời khắc nghiệt đoạt mất rồi. Mà còn
chưa an bằng, thì còn mải miết đi. Bấy giờ mới thấy ra rằng đi ấy là số phận mình. Đi là cái hành
trình của phận người. Đi như một nhu cầu, một chứng bệnh, một lưu đày. Không
ngừng nghỉ, không nguôi ngoai. Đó là hành trình của phận người hay huyền thoại
Xidiph vẫn nằm sâu trong định mệnh những thi sĩ chăng? Và chị đã chấp nhận nó
như chấp nhận khuôn mặt vốn có của mình.
***
Lưu Trọng Lư có lý khi cho rằng nếu không có một lý tưởng
nhân văn ,thi sĩ chỉ là anh thợ vần. Quả thật, tư tưởng nhân văn mới là yếu tố
quyết định nên khuôn mặt tinh thần của người nghệ sĩ. Mỗi thi sĩ chân chính
đăng đàn là một tinh thần nhân văn nào đó cất tiếng. Nó dị ứng với mọi thứ phi
nhân văn và đấu tranh cho khát vọng nhân văn của mình. Nhưng một tư tưởng nhân
văn không hóa thân được vào vần, nghĩa là không hình thức hóa được, thì cũng
không thể có thi sĩ thực sự. Từ những bài thơ đầu tay đến Vườn, Lời nguyện cho nỗi yên
hàn của Ý Nhi càng lúc càng đượm một chất giọng riêng.
Như một nhà thơ biết
tiết chế, hành trình thơ Ý Nhi cứ đi dần từ những lối mòn màu đỏ/ mưa êm trên mặt đường, với nỗi hân hoan đến những miền ta chưa tới với bao niềm se
thắt. Trên hành trình ấy, giọt mưa dạo tháng Mười long lanh ngọc trai đã
biến thành bông tuyết nhẹ nhàng tinh trong buốt giá. Giọt nước mắt cuồng nộ
của thiếu nữ cầm trong tay quả bóng màu đã thành giọt lệ ráo khô của Người đàn bà ngồi đan. Thơ Ý Nhi là sự
lên tiếng của giọt nước mắt ấy: Tôi tìm
đến những đền đài tưởng niệm/ Nào hay đâu chỉ là cát đấy thôi/ Hạt cát nào
trong đáy mắt bỏng sôi/ Đang lặng lẽ lăn
đi trên gò má. Thơ cứ như một tiếng thở dài được nén trong lồng ngực. Ý khổ
mà lời cam. Chính giọt lệ im lìm kia là bè trầm của mỗi lời thơ rắn đanh chất
nghĩ.
Gia tăng chất nghĩ cho thơ là một hướng lớn của thơ ta kể
từ sau cách mạng. Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Đặng Đình Hưng, Lê
Đạt, Chính Hữu, Việt Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hoàng Hưng…là những
tiếng thơ đã đem được nhiều chất nghĩ vào phong cách của mình. Ở một đất nước
mà duy cảm là căn cốt trong cấu trúc tinh thần của dân tộc, việc đem chất nghĩ
vào thơ, dù thế nào cũng ít nhiều là sự gây hấn về thị hiếu. Nhưng không thế,
làm sao có thể làm giàu cho tiếng nói thi ca. Có thể gặp những dị ứng ban đầu
nhưng về sau sẽ được sàng lọc và tiếp nhận.
Không thuộc vào số người tiên phong nhưng trong hàng những
nữ thi sĩ, Ý Nhi là cây bút mạnh dạn dấn thân vào hướng đi chông gai đó. Và chị
có không ít ưu thế. Được đào tạo bài bản từ giảng đường đại học, từng làm
nghiên cứu viên của Viện văn học, làm biên tập thơ ở nhà xuất bản Hội nhà văn, lại
giao lưu với nhiều cây bút giàu tâm huyết cách tân, Ý Nhi đã tích cóp được một
vốn liếng văn hóa thơ khá dày, nên chị luôn vững tâm trên con đường mình đã
chọn. Từ bỏ sự giãi bày nặng chất duy cảm buổi đầu, chị bước nhanh tới những
lời thơ tiết chế nặng chất suy tư. Thế là, chất
nhạc tràn ra khiến cho thơ muốn cất
thành lời hát giờ đã dần dần chìm vào để biến thơ thành lời nguyện. Dòng tâm tình nghiêng về cảm xúc trực quan,
giàu tính mô tả vốn là chủ lưu trong Nỗi
nhớ con đường, Đến với dòng sông
cứ chuyển dần thành dòng tâm tư, mà trong đó lối phân tích của một lý trí sắc
sảo dần chiếm ưu thế. Hình tượng sinh động tươi rói chất sống thưở Mưa dạo tháng Mười càng về sau càng được
gia tăng những hàm ý tượng trưng để trở thành biểu tượng. Cát, Bùn, Nắng, Gió,
Biển, Cơn mưa, Mùa thu, Dòng sông, Mảnh vườn…thậm chí, những địa danh quen
thuộc như Hải Phòng, Thái Nguyên, Quảng Bình, Huế, sông Trà…tất tật đều trở
thành những biểu tượng trữ tình của riêng cái Tôi kia. Khuynh hướng tượng trưng
này đã khiến cho thơ chị có độ nén hơn, nhiều dư vang hơn. Với sự xâm thực ngày
một lấn lướt của ngôn ngữ phân tích, diện mạo thơ Ý Nhi đã biến đổi khá nhiều.
Trước, ta thường thấy những tâm trạng hóa thân vào đối tượng khách thể- Đi suốt triền núi xa/Hái đôi nhành Mảnh bát/
Mưa đọng đầy nhị hoa/ Cho ong ngờ là
mật. Sau này, khách thể bị tan ra thành từng phần tử của tâm trạng. Đây là
biển đã tan mình vào từng phần của lời độc thoại nội tâm: Có thể nào nói đến nỗi đắng cay/ Được dấu kín sau màu xanh trầm mặc/ Và tất cả nỗi niềm hạnh phúc/ Nơi những
triền sóng mặn dẫn về xa/ Có điều gì
đã vỡ nát trong ta/ Đang kết lại dưới mặt trời như muối trắng/ Bài ca đã lãng quên bỗng thốt lời thương mến/ Như
thể là gió biển hát qua môi...Nhưng nhờ thao tác tượng trưng hóa mà người
ta vẫn hình dung được diện mạo toàn thể của đối tượng (biển) trong đường nét có
tính đứt đoạn, mờ nhòe. Qua Ngày thường,
Mưa tuyết, Gương mặt, đến tập Vườn, sẽ chỉ còn thấy cái bóng của hình
tượng soi vào dòng tâm trạng hơn là bản thân những hình tượng toàn vẹn. Ấy là
khi sự cân bằng- mà chị vốn rất coi trọng- đã bị ít nhiều chao đảo. Nét trực
quan cảm tính và lời phân tích lý tính có lẽ đã đạt tới sự hài hòa của nó trong
tập Người đàn bà ngồi đan: Giữa chiều lạnh/ một người đàn bà ngồi đan/
bên cửa sổ/ vẻ vừa nhẫn nại/ vừa vội vã/ nhẫn nại/như thể đó là việc phải làm
suốt đời/ vội vã/ như thể đó là lần
sau chót…Trong mũi đan kia/ ẩn giấu niềm hân hoan/ hay nỗi âu lo/ trong đôi mắt kia/ là chán chường hay hy
vọng…Giữa chiều lạnh/một người đàn bà
ngồi đan bên cửa sổ/ dưới chân chị/ cuộn len/ như quả cầu xanh/ đang lăn/ những vòng chậm rãi. Nếu coi
tổ chức lời thơ của thi sĩ cũng từa tựa việc đan len, thì Ý Nhi đã gắng đan xen
cả hai làn ngôn ngữ ấy trong mỗi thi phẩm của mình.
Cả lời thơ kia, cả thế giới hình tượng kia đã hòa điệu với
nhau trong một chất giọng riêng đặc thù của Ý Nhi: điềm tĩnh mà chua xót. Ý khổ mà lời cam là thế. Nhẹ nhàng, tinh
trong mà buốt giá cũng là thế. Người ta chính thức nhận ra giọng này kể từ Người đàn bà ngồi đan. Dù chị viết về
mẹ với nỗi ân hận chân thành, viết về biển với khao khát khôn nguôi, viết về
cát với dày vò day trở, viết về những nhân cách mà chị ngưỡng mộ, xa xót, tri
âm hay viết về tình yêu với những nguyện cầu day dứt…Ở đâu cũng là cái tiếng lòng đã nên nhẫn nại/ sau nghìn muôn đổi
thay/ như chùm rau me đất/ giữa độ
đường không cây. Bình thản đến đắng lòng. Nó chính là chất giọng cố hữu của
giọt lệ đã ráo khô.
Trong một lần nào đó, viết về Ý Nhi, tôi đã hình dung thơ
chị là một thứ trái cây lúc chín nhất lại mang vị chua xót. Nó là thứ trái đơm
từ một loài cây lạ. Ấy là…cây trước thềm
xao xác giữa ngày yên. Lạ, hẳn vì cây vốn nảy mầm từ một hạt lệ mưa: “Em thấy cơn mưa rắc hạt xuống khoảng sân/ Nếu hạt nảy mầm/ sẽ có lá trong suốt/
nếu mầm thành cây/ sẽ có nhánh cành
trong suốt/ nếu cây đơm hoa/ sẽ có cánh mềm trong suốt/ nếu hoa tụ quả/ ta sẽ có/ những hạt trong ngần nước
mắt”.
Đến nay nó vẫn là thứ cây trái ấy.
Bởi nguồn nước còn xa, cơn khát còn
khắc khoải.
Cứ xa. Phải. Cứ xa, để thơ mãi là lời nguyện cho nỗi yên hàn.
Văn chỉ, mùa hè Tân Tỵ (2001)
*Những chữ in nghiêng là thơ Ý Nhi.
thanks
ReplyDeleteHọc đàn guitar cơ bản