Khuất
Đẩu
Tôi
không dám có ý phê bình, chỉ muốn ghi lại một vài cảm xúc sau khi đọc bài thơ rất
nổi tiếng Ta về của thi sĩ Tô Thùy
Yên, người vừa mới qua đời.
1.
Hình ảnh một bóng trên đường lớn, trong bài Ta
về, rất giống với một vệt nâu giữa nền nhung trong bài thơ Cánh đồng con ngựa chuyến tàu.
Một
ở câu đầu, một ở câu cuối. Như mở ra và đóng lại một vở kịch dài mà thời gian
là lịch sử như một cuộc đảo điên/ sắt thép kinh hoàng va chạm nhau.
Vệt
nâu của con ngựa mệt nhoài ngã gục trên cỏ sau khi rượt theo con tàu và cái
bóng của gã tù lưu xứ sau 10 năm chết dấp, giống nhau ở chỗ, cả hai đều mong
manh, đều rất bé nhỏ. Cả hai đều thua cuộc.
Con
ngựa, chỉ để lại một chấm nâu, giống như lão ngư ông sau hơn 80 ngày một mình
trên biển cả, chỉ đem về một bộ xương cá kiếm. Đó là một cụộc thua hết sức bi tráng, nhưng rất đáng tự
hào chứ không bi phẫn.
Cuộc
thua của người tù thì không được như vậy, thua rất đắng cay, rất đáng xấu hổ.
Nói một cách Nam bộ, là thua vô duyên, thua lãng xẹt.
Ta bằng lòng phận que
diêm tắt
Chỉ giận sao mồi lửa
cháy suông.
2.
Năm 1956, bài thơ của chàng trai 18 tuổi ra đời, trong bối cảnh: một nước Việt
Nam bị chia đôi. Non 1 triệu người miền bắc di cư vào nam. Và, chính cái điều dự
cảm, sẽ có một cuộc chiến tương tàn sắp xảy ra, một cuộc chiến phi lý ngu xuẩn
dài đến nỗi, tàu chạy mau mà qua rất lâu, đã khiến cho cái nhìn của chàng về
thân phận con người tuy đẹp nhưng rất tuyệt vọng.
Như
Trần Dần ở bên kia nửa nước, tai nghe thét gào đến nhẫy óc “nhất định thắng” mà
chân bước đi giữa lòng Hà Nội, vẫn “không thấy phố, không thấy nhà/ chỉ thấy
mưa sa trên màu cờ đỏ”.
Thế
rồi, hơn 30 năm sau, dù đã thua muối mặt, dù đã mười năm xạm mặt soi khe nước,
ông lại nghe ra có điều gì như niềm hy vọng. Bởi vì, từ con đường nhỏ bước ra
đường lớn, ông thấy thấp thoáng ở cuối đường hãy còn khung trời cũ với cây cỏ
cũ, con dế vẫn là con dế cũ… và như thế, so với địa ngục chín tầng vừa trải
qua, đó chính là thiên đường.
3.
Chữ “về” ở đây, tuy không bịn rịn như “về”* trong ca dao, nhưng vẫn là tiếng gọi
thầm trong tận cùng sâu kín suốt mười năm đá cũng ngậm ngùi. Mười năm là bao nhiêu đêm? Và bao
nhiêu chữ “về” hiện ra trong những giấc mơ? Nhiều, rất nhiều. Không chỉ trong
đêm mà cả trong ngày. Không chỉ những khi
mệt quá cái đôi chân này, mà cả những khi chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau.
Cho
nên, hai tiếng “ta về” như một tiếng thì thầm ( được nhắc lại 17 lần), tưởng rất
khẽ, thực ra là tiếng reo vang động khắp núi rừng, khắp truông cùng phá…
Ta
về như hạt sương trên cỏ
Ta
về như sợi tơ trời trắng
Ta
về như tứ thơ phiêu tán
Ta
về như đứa con phung phá
Ta
về như tiếng kêu đồng vọng
Ta
về như giấc mơ thần bí
Ta
về như nước Tào khê chảy
Ta
về như bóng ma hờn tủi
Ta
về như hạc vàng thương nhớ.
Ta
về khai giải bùa thiêng yểm
Và,
bởi vì thời gian còn lại rất hữu hạn, nên ông đành phải dừng lại. Nếu không, ông
còn gọi mãi “ta về”.
4.
Sau mỗi tiếng “ta về” là những ước mơ, những dự tính:
Chiều nay ta sẽ đi
thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những
nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm
xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ
người xa?
Ta về như bóng ma hờn
tủi
Lục lại thời gian kiếm
chính mình
Ta nhặt mà thương từng
phế liệu
Như từng hài cốt sắp
vô danh
Ta về dẫu phải đi
chân đất
Khắp thế gian này để
gặp em
Đau khổ riêng gì nơi
gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức
thâu đêm
Ta về như tiếng kêu đồng
vọng
Rau mác lên bờ đã trổ
bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn
đứng
Chờ anh như biển vẫn
chờ sông
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm
tối nay
Chút rượu hồng đây
xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển
dâu này
5.
Cũng được nhắc lại đến những mười lần, là hai tiếng “mười năm”. Đó là khung thời
gian khủng khiếp mà người tù lưu xứ không thể nào quên được. Nó chính là nơi
chín tầng địa ngục hiển hiện không ở cõi nào khác, mà ở chính cõi đời này, ở giữa
trại tù.
Đau
đớn thay, đó là cái khung thời gian quý như vàng để một người có thể làm nên những
gì đáng làm nhất, cho mình và cho đời. Như thi sĩ, việc phải làm, là làm thơ.
Nhưng ai cho phép anh làm. Chỉ có thể góp nhặt những ý những từ trong đêm tối,
rồi giấu kín trong tâm thức như điệp viên dấu chất độc trong kẽ răng. Chỉ rơi
ra một đôi chữ như “ta về” hay “mười năm” là đủ để tiêu đời.
Cho
nên, có thể nói mỗi chữ trong bài thơ này, không phải là mỗi giọt mồ hôi như của
phu chữ Lê Đạt, mà là mỗi giọt máu, hay là những mảnh xương đã trở thành phế liệu
góp nhặt trong suốt 10 năm, giờ đã khô, đã là một vệt nâu như xác con ngựa trên
cánh đồng thuần một màu năm nọ.
Mười
năm ấy đến đá cũng phải ngậm ngùi, huống chi là thi sĩ.
Vĩnh biệt ta-mười-năm
chết dấp
Chốn rừng thiêng im
tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi
khe nước
Ta hóa thân thành vượn
cổ sơ
Chỉ có thế. Trời câm
đất nín
Đời im lìm đóng váng
xanh xao
Mười năm, thế giới
già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc
màu
Một đời được mấy điều
mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy
khi
Lịch sử ngơi đi nhiều
tiếng động
Mười năm, cổ lục đã
ai ghi
Ta khóc tạ ơn đời máu
chảy
Ruột mềm như đá dưới
chân ta
Mười năm chớp bể mưa
nguồn đó
Người thức mong buồn
tận cõi xa
Lời thề buổi ấy còn
mang nặng
Nên mắc tình đời cởi
chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài
nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là
ta
Quán dốc hơi thu lùa
nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt
nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo
mây hỡi
Đành uống lưng thôi
bát nước mời
Ta về như đứa con
phung phá
Khánh kiệt đời trong
cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già
trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp
cạn dầu
6.Tuy
gọi mười năm chết dấp, nhưng ông chỉ ngậm ngùi đau chứ không nguyền rủa, hận
thù. Không hề nghe ông nhắc đến những cực hình, những tủi nhục mà người tù cải
tạo phải chịu đựng như ở quần đảo Goulag. Cũng không nghe ông bóng gió ám chỉ
ai. Dường như, dưới mắt ông, những ông những bà cán bộ cũng đã bị lưu đày. Giống
như thân phận người lính của cả hai miền, cũng chỉ là cánh quạt. Quạt và quạt
mãi, vậy thôi.
Nếu
những ai gây ra tội ác (nhiều, nhiều lắm) thì ông mong:
Những ai hôm trước từng
gây tội
Hãy lắng tâm tha lấy
lỗi mình.
Xin
đừng bảo ông cao thượng, ông nhân ái, hay người mở đường cho hòa hợp hòa giải.
Nỗi đau quá sâu, quá dài khiến ông vượt lên tất cả, không phải để thành thiền
sư, thành Phật mà để “ta vẫn là ta”, tức vẫn “là thi sĩ”, mặc dù trong bài Tàu
đêm, ông cảm thán:
Ngồi đây giữa những
phân cùng bụi
Ta trở thành than,
thành súc vật
Ta gọi rụng rời ta thất
lạc
Ta chẳng còn đủ nửa
ta đây.
Cho
nên hãy cứ để những ai đó “tha lấy lỗi mình”. Việc tha tội không phải của ông.
Việc của ông khi được “về” là, tạ ơn đời (trong đó có những ai hôm trước từng
gây tội) và tạ ơn đất trời, trong đó có những bông hoa.
Ta khóc tạ ơn đời máu
chảy
Ruột mềm như đá dưới
chân ta
Ta về cúi mái đầu
sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng
đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ
loi
Ngày
xưa đã từng có một nhà nho “bái thạch vi huynh”, nghe cũng cao khiết lắm, nhưng
vẫn có chút gì kiểu cách, ngạo mạn. Còn ông: cảm ơn hoa đã vì ta nở. Nghe thật
nhún nhường, bằng hữu.
Đó
chính là nét đẹp của người tù thi sĩ, cho dù bị cướp mất đi quá nửa trong mười
năm, nhưng chỉ cần hoa đã vì ta nở là đã
tìm lại được nửa kia, để “Ta vẫn là Ta”.
7.
Bài thơ tuy dài nhưng không phải là bản án của chế độ như hồi ức của
Solzhenitsyn, mà là những tiếng khóc khô không lệ, giống như thơ của Đỗ Phủ.
Đặng
Tiến có một nhận xét rất sâu sắc, rằng thơ của Tô lang (Tô Thùy Yên), không thời
gian, không tổ quốc. Tức là thơ không chỉ một thời mà của nhiều thời, không của
một người mà của muôn người.
Chữ
“ta” trong “ta về”, phải được hiểu là “chúng ta”, có tôi và cả triệu người buồn
của miền Nam, cho dù không bị đưa vào trại cải tạo, nhưng bị nhốt trong những
nhà tù không chấn song, cũng đã bị tẩy não không khác gì họ.
Điều
bi thiết nhất, ác độc nhất mà chế độ toàn trị này gây nên, chính là “chung xiềng
nhưng chẳng dám nhìn nhau”.
Vì
là không thời gian, nên tôi mong 5 năm, 10 năm hay quá lắm là 20 năm, bài thơ
Ta về sẽ được dạy trong các trường học, để khai giải bùa thiêng yểm, cho các thế
hệ sau thấy được các thế hệ trước đã sống qua cơn mộng dữ như thế nào.
8.Trên
cõi người bao la như đường lớn, ông chỉ là một chiếc bóng nhỏ. Nhưng trong nhóm
khai phá Sáng Tạo, theo tôi, ông là cái bóng lớn. Vượt qua cả Thanh Tâm Tuyền
và Mai Thảo. Bởi
những con chữ của ông đơn giản, mộc mạc, những hình ảnh thuần Việt quê mùa và
nhất là, hơn ai hết trong bọn họ, ông đã vượt qua chín tầng địa ngục.
Bài
này xin vì ông mà viết. Như một bông hoa dại bên đường, xin vì ông mà nở.
KHUẤT
ĐẨU
28/5/2019
*mình về, ta chẳng
cho về
Ta nắm chéo áo ta đề
bài thơ.
No comments:
Post a Comment