Cam
Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Phượng tháng năm (hình internet)
Phần
2
Lũ trẻ kéo nhau chạy theo Đoan. Chúng tưởng
chị Đoan của chúng đang bày một trò chơi. Mà thật giống như một trò chơi. “Rồng
rắn lên mây”! Mười đứa nhỏ níu áo nhau. Đoan dẫn chúng vào phòng ngủ của bà ngoại.
Đây là căn phòng kín đáo nhất nhà.
Thêm một tiếng nổ ầm vang. Lũ trẻ dáo
dác. Như một phản ứng không thể nào khác hơn, Đoan bảo lũ trẻ ngồi hết xuống đất,
rồi kéo nhanh tấm nệm giường, dùng tấm nệm ấy che chúng lại. Lũ trẻ hồn nhiên lại
thấy như trò chơi tiếp tục. Chúng khoái chí với cái mái nhà dầy cộp trên đầu. Nhưng rồi những tiếng nổ
tiếp theo nhau dồn dập làm cho mấy đứa nhỏ bắt đầu sợ hãi. Chúng biết không phải
là trò chơi rồi. Giờ đây, tiếng trái đạn như đang bay vút qua đầu. Một đứa ré
lên khóc. Vài đứa khóc theo.
Và tới lượt Đoan muốn khóc. Bởi Đoan
không biết mình đang làm cái gì đây. Không phải là phương tiện che chở an toàn
nhưng tấm nệm giường lại được Đoan dùng như một cái mái che. Nhà ở thành phố
làm gì có hầm trú! Mà đạn pháo kích thì réo ầm bên tai. Nghe người lớn ở nhà
ngoài bảo nhau đang có pháo kích ở Tân Sơn Nhất. Đoan không biết rồi cuộc pháo
kích này sẽ kéo dài bao lâu. Và nếu lỡ như có một trái rớt ngay căn nhà này thì
sẽ ra sao? Cái “mái che” này có đủ bảo vệ mấy đứa trẻ yếu ớt không? Nhưng thôi
kệ, Đoan nghĩ cách làm cho bọn nhỏ yên tâm. Đoan bắt đầu kể một chuyện vui. Bầy
trẻ dễ dụ, nghe chuyện rồi rủ nhau cười.
Rồi thì “Ngày xửa ngày xưa”… Ồ, không được,
chuyện cổ tích không hợp trong lúc này. Đoan chuyển sang câu chuyện của bé
Tuyên. Chuyện của đầu tháng tư mà cũng như một chuyện đời xưa.
“Có một chú bé ngoan thật là ngoan, đi
theo bố vào Sài Gòn chơi. Bố đi làm ở trong trại lính, chú bé ở nhà người cô ruột.
Bố lại bay ra thăm nhà ở Đà Nẵng. Chú bé được gửi lại nhà người cô ruột, chờ bố
vào đi làm tiếp. Đùng một cái, không được tin gì của bố, của mẹ và cả nhà. Chú
bé không biết sự gì xảy ra, vì không có ai nói cho chú bé biết cả. Nhưng chú bé
tinh ý lắm, chú nhìn nét mặt kỳ lạ của mọi người là chú đoán được có một cái gì
ghê gớm lắm đã xảy ra. Mọi người có vẻ nâng niu chiều chuộng chú bé hơn, lo lắng
cho chú hơn, và có lúc, cô và các anh chị nhìn chú và chảy nước mắt. Chú bé
không dám hỏi họ, không dám thắc mắc. Chú mới bốn tuổi thôi, là con út của bố mẹ.
Chú lặng lẽ ngồi vào một góc. Chú cũng muốn khóc lắm, mà chú không hiểu tại
sao. Mọi người xem ti-vi, đọc báo. Chú bé chưa đi học, nên chỉ xem hình ảnh
trên ti-vi và nghe người ta giải thích trên đó. Chú bé hiểu. Chú biết nơi bố mẹ
và các anh chị mình ở đã “mất”. Chữ “mất” nghe kỳ quặc quá, chú không muốn
nghe, bởi vì đó mà chú không biết gì về bố mẹ và các anh chị mình nữa.”
Đoan ngừng kể, thở một chút. Lũ trẻ quá
biết đoạn tiếp theo của câu chuyện, nhất là chú bé Tuyên ngồi trong đám “khán
giả” đây. Nhưng chúng vẫn thấy vô cùng hấp dẫn. Hầu như tiếng đạn thỉnh thoảng
xéo ngang không còn làm chúng để tâm. Đoan nhớ lại khoảng thời gian đó, mỗi khi
bé Tuyên giương đôi mắt to đen nhánh nhìn mình, Đoan đã không chịu nổi. Cái viễn
cảnh một đứa bé con không bao giờ còn gặp lại cha mẹ và anh chị của nó làm mọi
người nát lòng. Cả một gia đình bặt tăm. Và số phận của Đà Nẵng như đã khép lại.
Chừng như tiếng đạn pháo đã ngưng. Tụi
con nít bắt đầu cảm thấy ngột ngạt. Đoan giở tấm nệm, bảo chúng ra ngoài. Từng
đứa, từng đứa đứng dậy. Mồ hôi lấm tấm trên trán chúng. Đoan thở ra. Chưa thấy
cảnh trốn đạn nào kỳ quặc thế này. Chẳng biết nơi nào là an toàn cả. Khi bọn trẻ
ra hết ở nhà ngoài, Đoan thu xếp lại căn phòng. Sẵn đó, Đoan quét dọn cả nhà. Đống
giày dép để ngoài cửa ai nhìn thấy cũng thất kinh. Khoảng năm mươi đôi. Vâng,
năm mươi đôi! Và cũng con số chừng đó người hiện giờ đang trú ngụ trong căn nhà
nhỏ chỉ vừa cho một gia đình. Một cái trại tị nạn thu nhỏ! Và căn nhà, nhà của
dì, từ gần một tháng nay hầu như ngày nào cũng có người vào thêm. Thoạt đầu là
bà con từ Đà Lạt, sau đến Nha Trang, rồi Phan Thiết kéo vào. Và, cái gia đình ở
Đà Nẵng tưởng như đã tuyệt vọng, gia đình của cậu, đã theo được chuyến tàu cuối
cùng, lênh đênh nhiều ngày rồi vào đến Sài Gòn - gia đình của bé Tuyên. Mọi người
sống xúm xít, mỗi gia đình một mảnh nhỏ trong căn nhà. Họ cố gắng tiết giảm tối
đa những sinh hoạt, sao cho những ngày tạm trú được an vui. Mà họ không biết
sau những ngày tạm trú này sẽ là cái gì. Bởi họ không dám chắc họ sẽ còn dịp trở
về nơi chốn cũ của họ hay không. Họ thấy tương lai mờ mịt. Mỗi ngày lại có tin
mất một thành phố, một thị xã, thậm chí một tỉnh. Họ bó gối ngồi nhà theo dõi
tin tức hoặc rủ nhau đi lang thang nơi này nơi khác vì căn nhà chật quá. Không
làm lụng, không học hành. Chỉ có gia đình của chủ nhà là còn duy trì được các
sinh hoạt tối thiểu, bên cạnh đó là lo cho sinh hoạt của “trại tạm cư” này.
Đoan mấy năm nay ở trọ nhà dì để đi học, nên cũng làm việc y như các con của
dì, đi học về là xắn tay áo lên để giúp mọi người nấu nướng, giặt giũ. Công việc
cũng như các vật dụng đều “phình” lên gấp bội. Và những ngày này, cuối tháng,
Đoan không đến trường, bởi sinh hoạt nhà trường cũng đã ngừng lại. Không ai bảo
ai, mọi người rút về lo cho công việc của nhà mình. Một số bạn bè đã đột nhiên
biến mất trước đó. Những sinh viên cần mẫn nhất khi đến trường cũng thất vọng
vì không thấy thầy cô.
Tháng tư, nóng bức, ngột ngạt. Dù trời đã
tối nhưng cái nóng như vẫn quyện lấy từng con người. Bữa cơm cũng đã xong.
Không có dọn bàn, mà chỉ là thay nhau lấy cơm ăn vì không có đủ chỗ cho mọi người
cùng ngồi ăn. Bé Tuyên, chú bé bốn tuổi, giờ không còn buồn rầu theo người lớn
nữa, vì đã được đoàn tụ với gia đình. Chú bé còn được gặp chị giúp việc của nhà
mình, là chị Son, cũng từ Đà Nẵng chạy theo vào. Chị này là một cô gái đôi
mươi, vạm vỡ như nam giới. Đoan thường hay hỏi thăm chị về gia đình, biết chị ở
thôn quê, nghèo nên không được đi học, từ mười ba tuổi đã đi làm thuê giúp việc
để phụ nuôi gia đình. Trông vẻ mặt chị rất hiền lành. Bỗng tối nay, khi nghe
tin tức dồn dập về những cuộc chạy loạn, chị nói lẩm bẩm mà như nói với Đoan:
- V.C. mà vô thì tui sướng.
Đoan giật mình, hỏi ngay:
- Ai bảo với chị như vậy?
- Người anh bà con của tui nói.
Đoan lặng người. Cảm giác y như cảm giác
lúc nghe thầy Tính, người thầy dạy môn Thực tập Ký Sinh Trùng trong trường, thản
nhiên nói “Tôi là V.C. đây! Chị có sợ không?”
2
Đêm qua dường như không ai ngủ được.
Không nói ra, nhưng ai cũng thấy mình mong chấm dứt cảnh chen chúc này. Trở về!
Ai cũng đang mong được về lại những thành phố đã mất. Nhưng không đơn giản chỉ
thế, đã có vài thanh niên trong họ hàng nhà Đoan tìm đường ra đi. “Ra đi”, từ
ngữ lạ tai. Có người ra phi trường, có người ra bến tàu.
Một người bà con chạy ra Tân Sơn Nhất chờ
chực cả đêm, rồi trở lại với gương mặt hốc hác. Anh đi không lọt. Anh bảo ngoài
đường đang náo loạn cả lên. Nhiều cảnh cướp bóc đã xảy ra.
Má và dì đang bưng khệ nệ một giỏ thức ăn
mua ở chợ đầu xóm để lo cho “trại tạm trú” qua ngày. Đoan chạy tới phụ khiêng
vào nhà bếp. Chợt có tiếng của cậu:
- Mọi người lại đây, nghe này!
Tiếng nói từ trong radio vang ra, mọi người
lắng nghe.
“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là
hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào
sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam.
Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình
tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ
chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng
tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam
để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ
máu vô ích cho đồng bào.”
Mọi người nhìn nhau, như tê cứng lại một
phút. Cậu nhắm nghiền mắt lại. Người sĩ quan dành cả thời trai trẻ cho binh nghiệp,
từng nếm mùi gian nguy trên chiến trường, từng chia sẻ niềm vui nỗi buồn của
người dân suốt hai mươi năm, trong phút giây này đầu óc hồ như trống rỗng. Mọi
người cùng im lặng theo với cậu. Trong những ngày cuối cùng của Đà Nẵng, gia
đình bị kẹt lại, cậu đã thấy trước được làn sóng dữ đang cuồn cuộn chảy vào
Nam. Cậu tưởng không bao giờ thấy lại người thân, nhất là đứa con trai út còn ở
trong Sài Gòn. Như có một phép lạ, vào lúc nguy nan nhất gia đình cậu đã hòa
cùng dòng người tất tả lên được một chiếc tàu tư nhân và xuôi vào Sài Gòn. Những
ngày cuối, khi vào công tác trong Sài Gòn, cậu đã có nhiều cơ hội ra đi để
tránh cho mình những nguy hiểm sau này. Cậu bị giằng xé trong tư tưởng. Cậu
thương anh thương chị, thương đại gia đình của cậu. Cha mẹ mất sớm, cậu gắn bó
với anh chị, với cái đại gia đình này biết bao! Cậu biết cái cơ hội cuối cùng sẽ
dễ vuột mất. Trong đầu của cậu, hai chữ “không đi” hiện ra thật lớn. Nhiều người
sẽ cho là cậu dại, nhưng họ không thể nào hiểu cậu đâu! Nhiều lần cậu đã quay
đi để tránh ánh mắt trách móc của mợ. Và đến giây phút này, cậu tự hỏi phải
chăng cậu đã sai.
Không khí ngột ngạt. Đoan lấy cớ đi mua
thêm mấy thứ cần dùng, nổ máy xe Cady chạy ra đường. Bỗng nhiên Đoan muốn chạy
vào đó, con đường cây còng. Nhưng đã không được, vì mấy ngày nay người ta cấm
không cho ra vào khu vực ấy. Họ giờ đang ra sao, những người thương binh đang nằm
trong bệnh viện? Nếu có một sự thay đổi lớn xảy ra, họ sẽ bị đối xử thế nào? Và
Thắng nữa, vết thương của Thắng ra sao rồi? Thắng có được bình an không? Đoan
thấy mình lênh đênh trong một thứ không khí nhờn nhợn.
Người ta xô đẩy nhau chạy náo loạn, chạy
cả xuống đường. Có ai đó nói “Hôi của! Hôi của!” Đoan hoảng sợ chạy nép vào sát
lề đường. Mấy hôm trước đã có một “phong trào” xông vào những nhà mà chủ đã bỏ
chạy, lấy bàn ghế đồ đạc - bất cứ cái gì khiêng vác và chở được là họ lấy, và
tha về nhà mình. Hôm nay cảnh này còn hỗn loạn hơn nữa. Đoan không chịu nổi. Đầu
óc váng vất, Đoan quay xe trở về.
Vừa
đến cửa, Đoan nghe tiếng của dượng:
- Mọi người nghe đi, thôi rồi!
Và đây!
“Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống
chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô
điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn,
từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ
trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam.”
Có tiếng phụ nữ bật khóc. Nhưng tiếng
khóc sớm ngưng vì sự im lặng của phía nam giới. Còn bầy trẻ nhỏ thì kéo nhau
lên gác. Chúng không biết cái gì đã xảy ra, nhưng con nít tinh ý lắm, chúng bảo
nhau chơi một trò chơi không có tiếng ồn.
Đoan dự vào trò chơi im lặng đó. Đoan cắm
đầu nhìn xuống một trang giấy. Trang giấy trắng bóc. Có đột ngột quá không? Rõ
ràng đã có những điều như báo trước. Từ những địa danh nóng bỏng - Quảng Trị,
Huế, Đà Nẵng, Ban Mê Thuột, Khánh Dương, Xuân Lộc… là những nơi mất dần theo luồng
sóng dữ, từ sự hiện diện của năm mươi người từ khắp nơi về chen chúc trong một
căn nhà nhỏ, từ câu tuyên bố thẳng thừng của một ông thầy “Tôi là VC đây!”, đến
lúc Đoan bị từ chối không cho vào thăm bệnh trong quân y viện. Tất cả là những
dấu hiệu thấy được trong cuộc sống của một người thường dân. Dấu hiệu của một sự
tan vỡ. Nó không để người ta chờ đợi thấy lại sự chiến thắng, như trong Tết Mậu
Thân, như trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Người ta không có đường để hy vọng.
Nghe bên hàng xóm thoáng có tiếng người
nói với nhau đi xem xe tăng vào Dinh Độc Lập. Thế nữa ư? Mấy hôm trước đây cũng
những người đó bù lu bù loa nói với dì Đoan rằng rồi đây sẽ bị họ rút móng tay.
Bỗng như một phản xạ, Đoan mở hộc bàn, lấy ra một tấm bằng đã được bao bọc rất
cẩn thận. Hàng chữ “Giải Nhất Cuộc Thi Văn chương Nữ sinh Toàn quốc, năm…”
trông hoa mỹ quá! Đoan nghe đau nhói nơi ngực. Có là cái gì quý giá lắm không?
Có quý như những sinh mạng đã mất đi trong cuộc chiến? Có quý như những gì mà mảnh
đất này đã có và nay mất đi vào tay những người xa lạ? Có quý như những thầy, bạn,
anh em đã ngã xuống trên chiến trường? Có quý như những gì mình đã học được
trong bao năm ngồi ở ghế nhà trường? Đã có ai nói gì chưa? Vẫn đang ở những
phút giây giữa thắng và bại. Nhưng có lẽ sẽ thay đổi hết, cả một nền văn hóa và
giáo dục.
Đoan đi vào bếp. Bếp có nồi cơm thật lớn,
đủ cho năm mươi người - chưa ai ăn nổi trưa nay. Nồi canh, chảo cá cũng rất lớn.
Lò than đỏ hồng. Đoan lột bỏ bao plastic, cuộn tròn tấm bằng lại như một thanh
củi, cho vào lò. Giấy bắt lửa, loại giấy dày chậm cháy. Ngọn lửa yếu ớt từ từ
liếm vào giấy, ăn dần theo hình cong chữ S. Đến cuối cùng, ngọn lửa bùng lên,
sáng chói, rồi lịm đi. Không còn gì.
3
Đêm qua dường như không ai ngủ được.
Không nói ra, nhưng ai cũng thấy mình sắp chấm dứt cảnh chen chúc này. Trở về!
Họ phải trở về thôi! Về lại những thành phố đã mất. Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng…
Nhưng đâu còn ý nghĩa đó nữa! Tất cả đều đã như nhau. Một mối!
Sáng
sớm đã có mấy người ra bến xe xem thử có xe chạy chưa. Mợ ra mua thức ăn sáng,
trở về nói khắp đường phố đã ngập cả cờ. Cờ đỏ và cờ xanh đỏ.
Mợ vào bếp, đưa cho chị Son mấy tờ giấy bạc,
nói khẽ:
- Son, đi về quê đi nhé! Sắp tới chắc khó
khăn lắm, không mướn em nổi đâu!
Son cầm tiền, chưa kịp nói gì thì mợ đã tiếp:
- Nhà này ai cũng quý Son, nhất là bé
Tuyên, nó sẽ buồn lắm nếu không có em, nhưng đành vậy…
Đôi mắt Son chợt rưng rưng. Chị thấy Đoan
cũng có mặt ở đó. Chị cúi đầu ấp úng những gì nghe không rõ. Đoan quay đi, rùng
mình khi nghĩ đến những gì có trong đầu của cô gái này. Liệu chúng có xâu xé chị
ta hay không, ai mà biết được!
Ở nhà ngoài có tiếng xôn xao. Đoan và mợ
chạy ra. Anh Đan, người anh họ đi lính ở Gò Công, đang có mặt. Anh đã về. Mọi
người mừng rỡ xúm lại hỏi han. Hôm qua ai cũng lo rằng anh bị kẹt dưới đó không
biết ra sao. Nhà biết tính anh không bao giờ chịu nhịn nhục, nên nghĩ dại nhiều
chuyện có thể xảy ra. Nét mặt anh thất thần. Chị Đan rót nước, lấy khăn cho
anh. Thằng con chập chững đi đến bên cha. Anh bế con lên, hôn nó, và siết chặt,
chặt quá đến nỗi nó khóc ré lên. Chị Đan hoảng hốt bảo anh trao con cho chị.
Anh chạy nhanh ra cửa sau. Mọi người nghe anh khóc to, tiếng khóc đau lòng. Anh
đấm tay vào cột gỗ nghe rầm rầm. Khi chị can anh được rồi, hai nắm tay anh đã rỉ
máu.
Đoan nghĩ mình phải ra đường, và phải đến
trường. Hôm nay không còn tiếng súng, có lẽ trường mở cửa lại. Đầu óc hoang
mang, Đoan chạy trên những con đường quen thuộc sao bỗng thấy lạ hoắc. Đường phố
còn vương vãi quần áo giày mũ của lính. Và những cờ là cờ, đầy đường. Cờ đã
thay màu. Mai đây những con đường này chắc cũng sẽ thay tên.
Chạy qua cổng trường ở đường Cường Để,
lòng nghe một chút bình an. Dù sao đây cũng là nơi thân ái của mình. Quả thật
trường đã đông đúc trở lại. Có lẽ qua những ngày sóng gió, thầy trò sẽ cố gắng
tạo được sinh hoạt bình thường.
Đoan gặp trước tiên là thầy Tính. Ông đứng
dưới sân trường, không phải ở trong labo nơi cố hữu của ông. Tất cả sinh viên
được thông báo vào họp trong Giảng đường lớn. Thầy Tính nán lại chờ Đoan. Ông
cười, nụ cười lạ lùng không lộ tình cảm:
- Mừng gặp lại chị Đoan.
Đoan hơi ngơ ngác, chợt hiểu ra rằng sau
một biến cố lớn như vậy, sẽ có cảnh người đi kẻ ở. Ông mừng là phải. Đoan chỉ
biết nói “dạ”. Thầy Tính nói tiếp:
- Mọi việc rồi sẽ bình thường thôi chị
Đoan nhé!
- Dạ, thưa thầy.
- Tôi biết những người như chị rất giàu
tình cảm. Nhưng chị hãy nhớ một điều: sống trong chế độ này, chỉ cần mình yêu
nước, yêu dân tộc là đủ.
- Dạ, thưa thầy. Con nghĩ điều đó… là có
thể ạ.
- Vậy
tôi chúc mừng chị.
Trên bục giảng, “ban giám hiệu mới” đang
ra mắt. Người mới được gọi là Hiệu trưởng, không gọi là Khoa trưởng. Vị Khoa
trưởng của “những ngày trước ngày hôm qua” được mời lui về làm giáo sư giảng dạy.
Đoan nghe được thêm một chữ mới: “tiếp quản”. Trường được những người mới “tiếp
quản”. Nhìn quanh, thấy thiếu một số bạn quen. Đoan nghĩ mình đã thành “người ở
lại”, rõ ràng như thế thôi.
Sau
buổi họp, nhà trường cho sinh viên về lớp “họp tổ”- lại một chữ mới. Không thấy
người trưởng lớp - chắc đã đi rồi. Một ban phụ trách lớp đã được chỉ định sẵn
ra mắt, sau đó giới thiệu các “tổ trưởng phụ trách thảo luận”. Nhiều bạn ngơ
ngác nhìn nhau, như ngầm hỏi: “Thảo luận cái gì? Trước đây cũng có nhóm mà là
nhóm thực tập, không phải để thảo luận ”. Nhưng rồi những ánh mắt cũng dịu lại
- tuổi trẻ dễ đón nhận cái mới.
Những gương mặt tổ trưởng thảo luận đây rồi,
không lạ, cũng là các bạn trong lớp mình thôi. Một người chuyên vắng mặt giờ “học
cours” trong giảng đường, chỉ đi thực tập vì thực tập là bắt buộc. Một người có
thành tích học không mấy khá. Một người có vẻ bề ngoài rất nhút nhát, hầu như
chưa ai được nghe bạn ấy nói trọn vẹn một câu. Một người có cách nói cộc lốc. Một
người có giọng nhỏ nhẹ. Muôn màu muôn vẻ! Họ cho biết sắp tới sẽ chia nhóm để
thảo luận chính trị.
Chỉ là những bước mở đầu cho giai đoạn mới.
Không có giờ học. Đoan lấy xe ra về. Trên đường, Đoan cứ nghe như văng vẳng câu
nói của thầy Tính: “sống trong chế độ này, chỉ cần mình yêu nước, yêu dân tộc
là đủ”. Có phải thế không??? Đoan giật mình khi có một tiếng còi xe nghe lạ
đàng sau lưng. Đoan chạy xe sát vào gần lề, ngước nhìn những chiếc xe mà mình
đã từng xem thấy trên báo. Xe Molotova. Những người lính trên xe lướt mắt nhìn
người dân đi dưới đường, nhìn phố xá lạ lùng đối với họ. Có nhiều gương mặt còn
quá trẻ. Súng trên tay. Áo màu xanh lá rừng. Nón cối. Giày hình dạng như dép có
quai chéo nhau, làm bằng cao su màu đen, Đoan đoán là cao su của vỏ bánh xe
hơi.
Đoan lại đi ngang những con đường vương
vãi quần áo giày mũ của lính. Đoan ngậm ngùi. Thấy trước mắt gương mặt tuyệt vọng
của cậu, nắm tay rỉ máu của anh Đan, vết thương của Thắng. Tôi khóc đây!
Tháng Tư 2013
CAM
LI NGUYỄN
THị Mỹ THANH
Thư Quán Bản Thảo số
51, tháng 4/2012
No comments:
Post a Comment