Tuesday, November 22, 2011


TẢn mẠn
Bên tách cà phê


Cảm xúc từ New Orleans, một buổi chiều...

Nguyễn Xuân Thiệp



   
Một lần, hoàng hôn chợt tím, khi Nguyễn lái xe qua chiếc cầu cao thành phố Baton Rouge... Chợt nghe khúc ca: Bên bờ sông Mississippi ta ngồi ta hát, nhớ về vầng trăng như khuôn mặt em rạng ngời trên sóng. Ôi, vầng trăng trên sông Mississippi mà ta đã nhìn thấy ngày nào. Có bao giờ gặp lại... Ờ, hình như Trương Nhược Hư có viết: Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh... Thế nhưng, với ta chỉ có vầng trăng trên sông Mississippi là lộng lẫy nhất, đáng nhớ nhất.   

   Về lại New Orleans lần này, Nguyễn lại được dịp ngồi uống cà phê ở Café du Monde cũng bên bờ sông Mississippi. Buổi chiều thật đẹp! Nguyễn vừa thưởng thức cà phê vừa ngắm nhìn những chiếc xe ngựa đậu trước quảng trường Jackson Square và nhà thờ Saint Louis. Ngay trước Café du Monde, một anh chàng da đen đang hát khúc hát buồn của những nghệ sĩ jazz vùng New Orleans.
    Sau ly cà phê và chiếc bánh beignet thơm lừng, Nguyễn cùng gia đình dẫn cháu gái Nguyệt Quỳnh đi dạo chơi trên Con Đường Trăng Moonwalk dọc bờ sông. Buổi chiều nắng nhẹ. Hải âu bay trên công viên, đáp xuống các thảm cỏ. Một đôi hải âu đậu ngay trên đỉnh tượng đài Di Dân - Immigrants, cất tiếng kêu. Chúng kêu vì vui chung trong niềm vui của người tứ xứ về đây dạo chơi trên đường trăng hay chúng kêu vì nhớ đất trời rộng lớn còn đọng trên đôi cánh? Hay vì "chiều nay biết về nơi đâu / dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu?!" (Lời Du Tử)



   Về đâu? Về đâu?... Nguyễn ngước nhìn lên tượng đài. Bố mẹ và hai đứa con -một bé gái còn bồng ẵm trên tay mẹ, một con bố dắt đi sát ngay bên cạnh và là một bé trai. Thoáng chốc, lòng mình chùng xuống. Ôi, họ đến từ đâu vậy? Từ nước Pháp hay Đức hay Ăng Lê? Họ có bị truy bức không hay chỉ vì muốn đi tìm một chân trời mới, khoáng đãng hơn và nhiều cơ hội hơn? Bản thân Nguyễn này cũng là di dân cho nên dễ thông cảm với những người mẫu của tượng đài. Trong trí tưởng rất ư là lếu láo của mình,  hình dung thấy những khốn khó của các di dân. Sao buồn đến thế này, em ơi và các bạn ơi. Ôi, thế kỷ của rào cản của những đường ranh và những biên thùy có chó săn và súng đạn. Đã lâu rồi, ở những ngày khốn cùng và tuyệt vọng khi còn trong trại tù đá núi Thanh Chương Nghệ Tĩnh, nhìn trăng Nguyễn đã viết:
ta thấy. ôi. mây trời ảo biến
dưới trăng. lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi. nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại. đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong nỗi chết
vượt biên thùy. sa mù. và mưa
từng nơi. đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng. mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm. ra nhìn dòng sông. ca
(Ánh trăng)
   Thế đó, các bạn ơi, chúng ta nào có muốn nhưng đều bị xô vào nghịch cảnh. Cái cột đèn kia nếu biết đi thì nó cũng phải bỏ nước ra đi thôi! (Ôi, anh Trần Văn Trạch, anh nói một câu hay quá, mãi mãi sẽ còn nhắc tới) Vâng, thế đó. Nguyễn tôi có thể hình dung thấy, ở những ngày đầu tiên trên nước Mỹ này, đôi vợ chồng kia đều phải lao vào công việc. Chồng làm trong garage sửa xe hơi chẳng hạn, và vợ thì làm ở một hãng assembly, còn cậu con trai được đi học ít lâu rồi cũng nhảy ngang ra đi làm -bồi bàn nhé- để phụ giúp bố mẹ. Chỉ cô bé còn bế trên tay là được học hành đầy đủ, để rồi sau này cô nhập vào dòng chính và trở thành nổi tiếng (như Leyna Nguyễn), phải không? Rồi thời gian trôi qua, tới thế hệ thứ hai thứ ba, tất cả sẽ trở thành Americans như bao gia đình người Mỹ ta gặp chung quanh.
    Nguyễn tôi gần đây cũng đã được xem ảnh chụp một tượng đài thuyền nhân ở Cali gồm vợ chồng con cái rách nát tả tơi, đưa bàn tay tuyệt vọng về phía chân trời. Tượng đài gây nhiều cảm xúc trong lòng mỗi người chúng ta.
    Xin nhắc lại: Thế kỷ vừa qua là thế kỷ của di dân. Họ phải vượt qua nỗi chết để tìm ra đất sống. Trên freeway số 5 ngày nào, từ San Diego đi Santa Ana, mình đã được nhìn thấy tấm bảng vẽ một gia đình Mễ "vượt biên thùy sống chết", gồm vợ chồng và đứa con gái dắt tay nhau chạy qua đường băng. Sao khốn khổ và liều lĩnh đến thế, nhưng suy cho cùng cũng là vì sự sống thôi, cũng như các thuyền nhân Việt Nam đã tạo nên một khúc quanh lịch sử của đổ vỡ, chia ly.  Ô. Việt Nam. từng là nỗi đau xé trong tôi / sao tôi khóc lúc ra đi / phương đỏ một lời yêu dấu cũ / là lúc chia xa... Và rồi, chúng ta đứng lên. Từ những mảnh vỡ, chúng ta đứng lên. Và trên những vùng đất của thế giới, đã có những thư viện, trung tâm giáo dục và giải trí, những khu phố những thiền viện nguy nga của người Việt. Tất cả hiện lên sức sống và vẻ rực rỡ, khiến những quý ông Cộng Sản như Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng phải lớn tiếng tuyên dương "khúc ruột ngoài ngàn dặm". Thật không còn danh từ nào để nói về họ nữa! Riêng với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, Nguyễn này ước mong rồi đây ở những thành phố lớn như Washington DC, Houston, Dallas, San Jose, Westminster, Boston, Atlanta... mỗi nơi đều có tượng đài thuyền nhân, gồm gia đình hai vợ chồng và hai đứa con áo quần tóc tai tơi tả. Tượng đài này sẽ nói với mai sau về sự có mặt của chúng ta trên đất này.
    Còn nhớ trong một đoạn tiệp ký, kẻ này có viết như sau về New Orleans:
   "Cảng New Orleans từng nổi tiếng với những con tàu nằm mơ sóng trùng khơi. Người Việt bỏ xứ, ra đi từ những làng chài lưới ven biển quê hương, tụ tập về đây sống thành từng làng với nhau và còn giữ nếp sống của quê nhà. Đặc biệt ở khu Versailles, có những dãy phố của người Việt. Ở đây, người ta thấy có sự nhếch nhác quen thuộc, chứ không được khang trang như ở Cali hay Houston, Dallas. Có những xe tôm, xe rau bán ở vỉa hè. Có những thanh niên tóc dài, những người đàn ông mặt mày xiêu xó - hình như là lính tráng thời xưa. Họ ngồi uống bia trên góc phố và chào người qua lại. Ở đây, người ta gặp cả người da đen, da màu vào ra mua bán. Chung quanh, trong khu làng người Việt, người mình trồng rau trên sân nhà, đằng trước và đằng sau, gợi những hình ảnh quen thuộc đã mất hút trong thời gian. Nhiều nhà có tượng Đức Mẹ trước sân. Trước cơn bão Katrina, Nguyễn và bà xã đã đi xem chợ chồm hổm của người Việt trong khu Versailles. Chợ họp từ 5 giờ sáng và tan sau 8 giờ. Ở đây, người mình bày bán đủ thứ rau, trái cây, tôm cá, lòng heo, bánh mì thịt, gà vịt... Có những bà cụ già ăn mặc theo lối Bắc cổ truyền, ngồi bán vài mớ rau, trái mướp, trái bầu hoặc trầu cau. Bán chừng đó đâu được bao nhiêu, nhưng các cụ lấy làm vui vì có dịp sống lại không khí làng xóm quê nhà. Tiếng nói cười dậy cả một vùng. Nguyễn tưởng mình đang ở chợ Vườn Chuối hay chợ Hòa Hưng ngày nào."
    Thế đấy... khu phố Versailles với quán sách Kim Anh và chợ chồm hổm và quán cà phê Chiều Tím bên góc nhà thờ. Bây giờ tất cả còn không, ở khu phố đó, góc đường đó...
Ơi, chàng nhạc công da đen có lần đã tấu lên khúc nhạc giang hồ nơi cảng rượu. Và cây guitar ngân vang như tiếng chuông của chàng, còn không Johnny B. Goode, hay đã vỡ tan trên kè đá trong trận hurricane ngày nào:
Deep down Louisiana close to New Orleans
Way back up in the woods among the evergreens
There stood a log cabin made of earth and wood
Where lived a country boy named Johnny B. Goode
Who never ever learned to read or write so well
But he could play the guitar just like a ringing bell
Go go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go Johnny B. Goode.
("Johnny B. Goode", Chuck Berry) 
    Như thế đấy. Xuôi mãi về phía Nam của Louisiana / gần New Orleans / những con đường ngược lên các khu rừng xanh um / nơi có căn lều gỗ của Johnny / anh chàng chưa hề biết đọc biết viết thành thạo / nhưng chơi guitar thì như tiếng chuông ngân.
   Đàn lên đi Johnny / Đàn lên đi Johnny
   Tiếng đàn như chuông ngân của Johnny giờ còn không. Người nào đã nói: Tất cả đã không còn gì, New Orleans. Tất cả đã không còn gì, bình minh mặt trời bị đóng đinh trên cột buồm gãy gục, chuyến xe lửa chở hàng ngày nào đã đi vào hư vô:
Good mornin' America, how are you
Don't you know me? I'm your native son
I'm the train they call the City of New Orleans
I'll be gone 500 miles when the day is done
("The City of New Orleans", Arlo Guthrie - trích lại theo Đỗ Kh., Talawas)
   New Orleans! New Orleans!
   Tiếng đàn guitar của Jhonny, căn nhà gỗ và chuyến xe lửa mang tên Thành phố New Orleans. Đối với những người làm thơ lưu lãng, New Orleans là niềm bí ẩn có sức quyến rũ đặc biệt. Cũng như  bạn Nguyễn Minh Diễm, kẻ này rất yêu mê New Orleans -thành phố của những quán rượu giang hồ và nhạc jazz da đen cháy giữa đêm hồng. Ai đã từng ghé thăm khu phố xưa một lần, ắt không thể quên được. Vậy mà, có lúc, như đã nói ở trên, sau cơn bão Katrina năm 2001, chúng ta tưởng đã mất đi tất cả. Nhà cửa sụp đổ, đường sá nước cuốn trôi, người chết tìm được xác hoặc mất tích, cư dân thành phố bỏ đi, tan tác. Nhưng rồi New Orleans dần dần hồi sinh. Những căn nhà bắt đầu ấm lửa trở lại. Những khu phố bắt đầu có hơi người. Xin lật lại tờ Newsweek của tháng 9. 2002, xem tấm hình chụp cảnh phố Rue St. Louis ở khu Pháp Cổ, với lời ghi chú "một con phố hồi sinh sau cơn bão và nhà hàng ăn ở đây đã bắt đầu bày bán thức uống nhẹ”. Quả thật con phố đã bắt đầu có chút sinh khí mặc dầu dấu vết đổ nát vẫn còn đâu đó, trên một đoạn vỉa hè tróc lở, ở bức tường còn loang ngấn nước triều lên. Và kìa, trên chiếc bàn tròn bên góc vỉa hè thấy có chai rượu đỏ và cái ly. Tim nghĩ: Phải chăng góc này còn chờ đợi ai kia, sao lại không phải là chúng ta nhỉ, những tình nhân đã thất lạc nhau từ chiến tranh và những cuộc đổi dời. New Orleans. New Orleans. Anh thầm kêu lên, như Yuri gọi tên Lara trong giấc mộng.
   Và rồi người đã trở về. Nhạc Jazz trỗi dậy trên hè phố. Buôn bán đã phồn thịnh. Người Việt ở khu Versailles đã có thể trồng lại luống rau, dàn mướp. Và trước thềm nhà trong bóng hoàng hôn, một cư dân da màu đã có tuổi đang thanh thảnh uống bia. Và trên bức rào còn màu gỗ mới, một thanh niên da đen đang ngồi búng những tiếng đàn vào buổi chiều tím thẫm. 
   Vâng, nước Mỹ không thể thiếu New Orleans. Nguyễn và các bạn làm thơ đã từng viếng thăm thành phố này trong những năm tháng lãng du cũng không thể thiếu New Orleans. Ngay từ phút giây dạo chân trên hè phố Bourbon, Nguyễn đã có thể nghĩ tới ánh đèn Giáng Sinh trên nhà thờ Saint Louis và ca khúc Jingle Bells Jingle Bells vang lên trước cửa mỗi nhà cùng ánh lửa bonfires bừng lên đây đó bên dòng Mississippi.
NXT


No comments:

Post a Comment