Saturday, November 26, 2011



MỘT  VỆT  SAO  MỜ

Chân Phương



                                                      Chan Phuong. by Nguyen Trong Khoi

    Đầu thập niên 90 lúc mới dọn về ở Cambridge (Boston) tôi rất siêng lui tới thư viện Harvard-Yenching để sưu tầm thơ văn miền Nam trước 1975 trong mớ báo chí Sàigòn cũ. Tình cờ một hôm khi lục lọi mấy chồng bán nguyệt san VĂN, giữa vô số những câu vần điệu phần nhiều là lục bát tôi khám phá một bài thơ tự do của Nh. Tay Ngàn đăng trong VĂN số 25 (15-2-1965). Vừa bàng hoàng vừa thú vị tôi chép ngay vào sổ tay bài  Đơn khúc của Liễu với tâm trạng của kẻ đang khát bỗng được uống từng ngụm suối mát. Đó cũng là lần đầu tôi hạnh ngộ với sáng tác của thi sĩ này. Cái bút hiệu nửa mộc mạc nửa bí ẩn kia trở thành dấu hỏi ám ảnh tôi. Nh. Tay Ngàn, người là ai? Đang lưu lạc góc trời nào? Còn sống hay đã mất?
    Tôi dò hỏi trong đám bạn hữu văn nghệ và ít lâu sau có người gửi cho tờ Quê Mẹ, (Xuân Canh Ngọ 1990), trong đó có nhiều trang văn xuôi Nh. Tay Ngàn và một tùy bút-tự sự của Phạm Công Thiện thuật lại cuộc gặp gỡ của họ ở Paris “trong thời gian cả hai đều nghèo đói và chỉ biết sống hết mình với thơ văn nghệ thuật; cả hai thường lang thang suốt đêm trên những đường phố Paris, lúc nào có chút ít tiền thì la cà ngày đêm trong những quán café ở Montparnasse hoặc ở Montmartre. Cả hai đều say sưa viết, mộng và mơ bất tận. … Có lúc dắt nhau ra bờ sông Seine, thòng mấy chai rượu đỏ xuống nước sông, uống rượu say lướt khướt, ngâm thơ Lý Bạch và Nguyễn Du, đọc thơ Apollinaire ngay nơi chỗ ở xưa của thi nhân, ngó những cụm mây trắng ngập ngừng trên tháp chuông nhà nguyện Saint Germain-des-Prés, ngồi quán café ở Montparnasse vui cười ngó nhìn Jean-Paul Sartre dẫn cô đầm trẻ tóc vàng bước qua vỉa hè. …”

    Rất có thể  Đơn khúc của Liễu cũng như một số ít bài thơ khác đăng trên báo VĂN vài năm sau đó đã được tác giả chúng sáng tác trong thời gian nói trên vì chúng mang khá đậm không khí của thơ hiện đại Paris, đặc biệt là chất trữ tình bình dân Prévert và âm vang thời gian siêu hình Apollinaire như mấy câu sau: 
                      Ba giờ trưa    một khúc nhạc sầu
                      Un jour sans toi
                     
                      Liễu ơi Liễu
                      Un jour sans toi
                      tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
                      gạch ngói hoang tàn hồn anh     
                      Đơn khúc của Liễu   
    Dù chưa tìm ra tài liệu hay nhân chứng nào để hỏi cho biết ngày sinh tháng đẻ tôi đoán rằng thi sĩ lúc ấy khoảng 23-25 tuổi, cái thuở thanh xuân tràn trề hoài bảo của chàng sinh viên VN say mê văn nghệ lại được đặt chân lên thánh địa của thơ văn quốc tế.  Bị ma lực của thủ đô ánh sáng réo mời, tâm hồn tài hoa nhưng non bản lĩnh ấy đã hóa làm thiêu thân…”Nh. Tay Ngàn bỏ học kỹ sư không gian ở Paris, sống nghèo đói cả chục năm hoang liêu, suốt ngày chỉ làm thơ và chẳng bận tâm xuất bản. Rất ít nói và khiêm tốn, không bao giờ tự nhận là thi sĩ, dù đã làm cả ngàn bài thơ tuyệt diệu. …Nh. Tay Ngàn… dám sống cho tới nơi trọn cả nỗi đời nghệ sĩ hiu quạnh, từ chối đời sống khoa cử trường ốc, …,vợ con, việc làm, nhà cửa ấm êm, cô độc đói rét lao cả thân mệnh mình vào thơ, và chỉ biết có thơ và thơ mà thôi.” Người Pháp có hai chữ POÈTE MAUDIT ngắn gọn để tôn vinh những kẻ chấp nhận mọi nguyền rủa của đời đổi lấy sự thủy chung với Nàng Thơ. Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng … còn có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng  … Không hiểu những bóng hình phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đã thấm vào máu thịt nhà thơ?



                                                 Ao Ba Om. Tra Vinh - Indocycling.com

             Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
             Tôi đi xa mãi tôi rồi
             Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
             Tan mù mù trên miệt hải ngạn
            
             Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng
             của tôi và Liên hôm nay
            
             Một mùa thu trước Liên xa
             Không còn gì nhớ lại nữa đâu
             Những hàng sao im nguyên ngày ấy
             của con đường Trà Vinh sớm hôm

             Không còn gì ru nhớ làm chi
           
             Mười hai năm thành điệu gió mùa
             Thổi lưu lạc mỗi hôm mù mắt
             Trên hình bóng Liên xa và xa
             Như hiện thân tôi trôi và trôi
             Mãi mãi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh    
                                                            Nỗi Liên đen tối vô cùng  
    Cũng nhờ bài viết nói trên của PCT tôi biết được hung tin trễ tràng: “Nh. Tay Ngàn đã chết từ lâu,…chết lúc mới ngoài ba mươi tuổi, tự tử. Người ta tung cửa phòng anh và biết rằng anh đã chết bốn năm ngày. Ông bạn thi sĩ ở G. đã khổ công lắm mới tìm được cả ngàn trang văn thơ của Nh. Tay Ngàn. Cả một sự nghiệp thi văn vĩ đại hãy còn quạnh hiu đâu đó mà chưa có ai hay biết..”
    Vài đoạn trích trong bài giới thiệu sơ lược này kèm theo mấy bài thơ dưới đây dĩ nhiên không thể đại diện cho sự nghiệp sáng tác của người quá cố . Hi vọng giới yêu thơ VN sẽ hợp tác để khôi phục lại tác phẩm, đặc biệt là thơ, của Nh. Tay Ngàn; đồng thời bổ túc cho một chương văn học sử VN hiện đại do những nhà thơ Việt từng sinh sống ở Pháp như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Hồng Châu, Nh. Tay Ngàn…tạo dựng nên và đang đứng trước nguy cơ bị phủ nhận hay quên lãng. 

ĐƠN  KHÚC  CỦA  LIỄU
ba giờ trưa   một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió
điếu thuốc đốt lên hình bóng
và chợt tắt bơ vơ
kỹ niệm xuống đêm
ở chót vót của tuyệt vọng
anh im lìm ngắm hai tay không
Un jour sans toi
người thủy thủ già rời bỏ biển khơi
chiếc tàu đã chìm
căn phòng nhuộm đầy bóng tối
mền gối bắt đầu rã mục
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
gạch ngói hoang tàn hồn anh
cùng tiếc thương mọc lan trên đó
Un jour sans toi
một ngày người thủy thủ già
vô vọng chuyến ra khơi
Liễu ơi Liễu 

BÀN  TAY

trên cao xa kia nhớ nhung nàng chỉ còn mảng trời tím lạnh.

buổi chiều tắt dần tắt dần tiếng chuông,
cây lá sẩm.
nàng vuốt lấy mặt nàng,
thấy ngón tay nàng ướt đẫm.
những đớn đau lớn theo đời nàng
nàng đếm mãi trên bàn tay
(ôi những ngón tay yếu ớt như côn trùng đơn chiếc)
còn thanh xuân nàng ư?
nàng hỏi sao mùa đông loài chim ủ rũ
ôi những chiều những chiều kéo nàng vào bóng tối
những xót đau khó hiểu của hồn chàng,
chàng đặt giữa vũng tay nàng,
chàng bỏ chàng đi;
rồi mặc tình cho con lốc bi thương cháy rực.

nàng vuốt lên thân thể nàng;
ôi bàn tay em đâu là cánh tay anh.
nàng hôn lấy hôn lấy từng chiếc móng.
ở cuối đêm khuôn mặt chàng xanh.

CHIM 

một sáng thức dậy nàng biết nàng không còn tiếng hót
mặt trời nàng nhìn thẳng
cũng hóa đen

rồi mùa rét mang về nhớ nhung
lòng nàng mướt xanh
vết thương tự đấy mưng lên
nàng muốn bay vào miền ấm áp của lòng chàng
nhưng cánh nàng đã mỏi
và bắt đầu nàng gọi
rừng chập chùng
căn lầu vườn cây bốc cháy
đêm ơi đêm anh ơi anh 


CHÚ  THÍCH
Giai phẩm Quê Mẹ ( Xuân Canh Ngọ 1990) với tùy bút của Phạm Công Thiện, Tuyết vẫn bay đêm cuối năm, 83-87; và truyện của Nh. Tay Ngàn, Ngồi như nỗi gió reo cuồng,88-94, là tư liệu cung cấp nhiều thông tin quí về đoạn đời ở Pháp của nhà thơ. Bài trường ca Nỗi Liên đen tối vô cùng trong Tạp chí Thơ 13 (Thu 1998), 17-23 bổ túc thêm vài chi tiết tiểu sử về giai đoạn thiếu thời và mối tình đầu (?)  của Nh. Tay Ngàn ở Trà Vinh. Cảm ơn Trần Hoài Thư & Phạm văn Nhàn đã sưu tập hai bài thơ  Bàn Tay, và Chim, trong  bộ tài liệu Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Thư Ấn Quán xb, 2006. (Bạn đọc nào có thêm tư liệu, thông tin gì về Nh. Tay Ngàn xin vui lòng liên lạc với tôi.)  

CP
(Nguon: tu Google)






No comments:

Post a Comment