Nguyễn
Du và
Long
Thành Cầm Giả Ca
Tô Thẩm Huy
Không rõ Nguyễn Du có sinh ra (1765) ở đấy không, nhưng chắc
chắn ông đã lớn lên ở Hà Nội, hay đúng ra phải gọi là Thăng Long, vì ngày ấy
cái tên Hà Nội chưa có. Ông hẳn rất mực
yêu mến cái kinh đô cổ kính lúc bấy giờ không rõ đã mấy phố, bao phường. Cậu ấm chiêu, con quan Tể Tướng Xuân Quận
Công Nguyễn Nghiễm, em quan Tham Tụng Toản Quận Công Nguyễn Khản, lớn lên giữa
lòng đô hội, lòng tràn đầy bao ý đẹp, tâm tư nuôi bao hoài bão, mộng vung kiếm
giúp đời. Thế rồi đất nước ly loạn, hết
nổi trôi nơi Quỳnh Côi, Thái Bình quê vợ, lại ẩn thân về nguyên quán Tiên Điền,
Hà Tĩnh, ông ngày ngày ngao du trên rặng Hồng Lĩnh, nhìn tóc mình ngày mỗi bạc
mà ngậm ngùi thế sự. Khi Gia Long lên
ngôi, ông được vời ra Phú Xuân làm quan, nhưng lòng những chán chường, chỉ muốn
lui về ẩn dật.
Năm 1813, Gia Long cử ông làm chánh sứ, đại diện nước Nam
sang Trung Hoa. Trên đường từ Huế sang
Bắc Kinh, lần đầu tiên sau mấy mươi năm xa cách mới có dịp về lại Thăng Long,
lòng ông hẳn dạt dào bao nỗi niềm xao xuyến.
Từ xa, ta đã nghe tiếng ông reo mừng:
Kìa là rặng Tản Viên, nọ là giòng Lô Giang, ta sắp gặp lại Thăng Long
rồi. Nhưng bước chân vào đến năm cửa ô
thì than ôi, cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Đọc lại hai bài Thăng Long ông viết vào thời
kỳ này lại càng thấy nỗi lòng chua xót của ông:
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạoNhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu than tức
Tư gia đầu bạch diệc tinh tinh
Vị vua Thế Tổ triều
Nguyễn vì muốn xoá hết dấu tích nhà Lê đã san bằng thành xưa quách cũ. Đâu là điện Trung Hoà Đại Nội ? Đâu là ngõ cũ nơi ông vẫn chơi đùa cùng bè
bạn hiệp thiếu, mỹ nhân ? Đâu là dinh
cơ, nhà cửa xây từ nghìn năm trước?
Những thiên niên cự thất nay đã thành quan đạo, những cố cung, cựu tích
nay đã bị vùi mất dưới bức tân thành. Cả
âm nhạc ngày cũ nay cũng biến đâu mất.
Nằm thao thức giữa lòng kinh đô cũ, ông trằn trọc không sao ngủ, đã khổ
vô thuỵ, lại nghe tiếng sáo, tiếng nhạc gì mà xa lạ, chõi cả tai. Quản huyền nhất biến tạp tân thanh. Sáo đâu, dây đâu mà tiếng nghe nhốn nháo thế
này ? Chả trách sao lúc ngồi trên chiếu
tiệc giữa Thăng Long, nghe lại tiếng đàn người ca kỹ của năm xưa, nghe lại
giòng nhạc vàng của cung điện Đại Nội Nhà Lê, ông đã xúc động viết “Long Thành
Cầm Giả Ca”, Bài Cho Người Gẩy Đàn Thành Thăng Long, mà ngậm ngùi thương xót
cho thân phận người ca kỹ lạc loài giữa ba đào, dâu bể. Hay thật ra ông chỉ mượn hình ảnh người gảy
đàn để khóc thương cho bóng ma của một trời hội cũ ? Nhiều người đã thêu dệt nên mối tình lãng mạn
thời trai trẻ giữa Nguyễn Du và người cầm giả ấy. Thậm chí lại còn trách ông sao lại vì muốn
giữ thể diện của đường đường chánh sứ mà tránh không nhìn mặt người xưa. Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng, Khả
liên đối diện bất tương tri. Tôi không
tin là thế. Tôi không tin là đã có gì giữa
họ. Ai đời nào lại nói về người tình xưa
của mình là trán dô, mặt gẫy. Nàng không
phải là người tình cũ, cũng không phải chỉ là một người cầm giả đơn thuần, mà
chính là biểu tượng của Hà Thành đài các, của mày thanh má thắm, của lụa biếc
xiêm hồng, của cả một nếp sống thanh lịch ngàn năm xưa nay đã bị dập vùi, tan
biến. Tâm sự Nguyễn Du lúc bấy giờ ngổn ngang trăm mối, đâu riêng gì chỉ một
hồng nhan, trong lòng ông là cả mùa hội cũ của một thời hùng tâm tráng chí nay
đã tàn lụn: Tằng Lăng trường kiếm ỷ thiên thanh mà tự bao giờ đã thành Liêu lạc
tráng tâm hư đoản kiếm. Cây kiếm dài
ngày xưa ngạo nghễ tựa lưng vào trời xanh mà tự bao giờ đã biến thành cây kiếm
cụt vô tích sự ? Văn tự hà tằng vi ngã
dụng ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy, hay
càng làm mộng thêm đau xót, làm bể dâu thêm thắt ruột chia bào ? Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng, Khả
liên đối diện bất tương tri. Mở trừng
hai mắt mà chỉ thấy trống không những mông lung mộng tưởng. Ngồi đây giữa Thăng Long mà nào có thấy Thăng
Long! Ngồi đây giữa Thăng Long mà nào
Thăng Long có thấu cho lòng ta ! Chao
ôi, làm người thật chẳng khó lắm sao !
TÔ THẨM HUY
Nguyễn Du
Long Thành Cầm Giả Ca
龍城琴者歌
Bài Cho Người Gảy Đàn Thành
Thăng Long
Tô-Thẩm Huy diễn Nôm
Tiểu dẫn
Long Thành cầm
giả bất tri tính thị. Văn kì ấu niên
tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi cựu nhạc
tử tán. Kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp
kĩ dĩ ngao thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân
sở văn. Toại xưng nhất thời tuyệt kĩ.
Dư thiếu thời
tham huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ
nhạc danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả
năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch triếp
tận. Triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích
mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ,
đoản thân khoát kiểm, ngạch đột, diện ao, bất thậm lệ. Cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi
nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường.
Xước xước nhiên hữu dư vận, tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc,
khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ,
ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã.
Hậu sổ tải dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ. Kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả. Bất phục tri vi thùy hà, duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán chất chi nhạc nhân tức kì nhân dã. Ta hồ ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên nhân ca dĩ thác hứng.
Hậu sổ tải dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ. Kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả. Bất phục tri vi thùy hà, duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán chất chi nhạc nhân tức kì nhân dã. Ta hồ ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên nhân ca dĩ thác hứng.
小引
龍城琴者不知姓氏.聞其幼年從學撥阮琴於黎宮花嬪部中.西山兵起舊樂死散.其人流落市廛挾技以遨屬散部.所彈皆御前供奉曲非外人所聞.遂稱一時絕技.
余少時探兄抵京旅宿鑑湖店.其傍西山諸臣大集女樂名姬不下數十.其人獨以阮琴聲擅場.頗能歌作俳諧語一坐盡顚倒.數賞以大白輒盡纏頭無算,金帛委積滿地余時匿身暗中,不甚明白後見之兄處,短身闊臉額凸面凹不甚麗.肌白而體豐善修飾淡眉濃粉,衣以紅翠綃裳.綽綽然有餘韻性善飲喜浪謔,眼霍霍眶中無一人.在兄家每飲輒盡醉嘔吐狼藉臥地上同輩非之不恤也.
後數載余從家南歸不到龍城若十年矣.今春將奉命北使道經龍城.諸公辱餞于宣撫衙畢召在城女樂,少姬數十,並不識名面,迭起歌舞.繼聞琴聲清越,迥異時曲,心異之.視其人顏瘦,神枯面黑,色如鬼,衣服並粗布,敗灰色,多白補,默坐席末,不言亦不笑,其狀殆不堪者.不復知爲誰何,惟於琴聲中似曾相識,側然于心.席散質之樂人即其人也.嗟乎!是人何至此耶.俯仰徘徊不勝今昔之感.人生百年辱哀樂其可量耶別後一路上深有感焉因歌以托興.
Lời Tựa
Người gảy đàn ở Thăng Long ấy tên họ là gì không ai rõ. Nghe nói ngày còn nhỏ nàng theo học đàn Nguyễn trong đội nữ nhạc của vua Lê. Sau khi quân Tây Sơn dấy lên, đội nữ nhạc ấy lớp chết, lớp tiêu tán. Nàng trôi dạt nay đây mai đó, dạo đàn nơi quán chợ. Những khúc nàng gảy vốn là nhạc trong cung vua triều trước, mấy ai đã được nghe. Quả là những khúc nhạc hay nhất trần đời.
Ngày còn trẻ đến kinh đô thăm người anh (Nguyễn Nễ, bấy giờ
làm quan cho Tây Sơn) tôi ở trọ cạnh Hồ Giám (hồ Gương), nơi quan quân Tây Sơn
triệu tập mấy chục đào nương ca hát.
Trong đám ca kỹ ấy nàng nổi bật với tiếng đàn điêu luyện, đã hát hay,
lại pha trò duyên dáng, làm cử toạ say mê điên đảo, tranh nhau khen tặng, vàng
lụa chất đầy cả sân. Rượu thưởng ban đến
đâu, nàng uống cạn đến đấy. Lúc ấy tôi đứng khuất không nhìn rõ mặt nàng, nhưng
sau lại gặp ở nhà anh tôi, thì thấy nàng người thấp, má bầu, trán dô, mặt gẫy,
không đẹp lắm nhưng khéo trang điểm, thân hình tròn trĩnh, làn da trắng, mày
thanh má thắm, lụa biếc xiêm hồng, đôi mắt sắc lạnh, dễ đã ai lọt vào
được. Nàng uống rượu liền tay, nói đùa
khanh khách. Tại nhà anh tôi nàng say
tuý luý, nằm lăn ra đất, nôn mửa đầy sân. Dẫu đám chị em có ai lắc đầu chê cười
nàng cũng mặc lòng.
Sau đấy ít năm tôi dọn vào Nam (đến Phú Xuân, làm quan cho
Gia Long). Bẵng đi mấy mươi năm, mãi đến
mùa xuân năm nay trên đường phụng mệnh đi sứ sang Trung Hoa tôi mới lại có dịp
trở về Thăng Long (đau lòng nhìn phố xưa thành cũ đã đổi thay, mất hết dấu vết
cũ). Chư vị quan nhân bầy tiệc tiễn đưa
tại dinh Tuần Phủ, lại cho gọi cả mấy mươi ca kỹ thay nhau đàn ca, múa
hát. Tôi chẳng biết tên, quen mặt người
nào. Chợt tiếng đàn ai ngân lên trong
trẻo lạ thường, tôi giật mình nhìn lại, thấy nàng ấy mặt gầy, thân héo, đen đủi
như ma, áo quần tả tơi, may bằng vải thô, lại vá nhiều mảnh trắng. Nàng ngồi
lặng nơi cuối chiếu, không cười, chẳng nói.
Cảnh tượng trông đến là ngược đời.
Tôi không rõ là ai, nhưng giọng đàn nghe quen lắm, làm xáo động cả tâm
tư. Tiệc xong tôi hỏi thăm, thì quả đúng
là người gảy đàn ngày trước. Chao ôi,
người ấy sao nay lại đến nông nỗi này !
Tôi đứng ngồi, cúi ngửa chẳng yên, lòng bồi hồi bao chuyện hôm nay, bao
điều ngày cũ. Kiếp người dài ngắn luống
trăm năm, mà vinh nhục buồn vui thật chẳng biết đâu lường. Từ biệt Thăng Long lên đường rong ruổi, tôi
ngậm ngùi viết mấy lời hòng ký thác nỗi niềm.
Long
Thành Cầm Giả Ca
Long Thành giai nhân
Tính thị bất ký thanh
Độc thiện Nguyễn cầm Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến
Thử thời tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa Đại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống Thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ sứ quân vị dư trọng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương thời Thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám Hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách thôi di nhân sự cải
Kỷ xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà qui lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri.
Nguyễn Du
Bài
cho người gảy đàn thành Thăng Long
Đất Thăng Long thủa ai nhan sắc,
Hỏi tên, đã mất tính danh,
Chỉ nghe quen gọi phong phanh nàng Cầm.
Tay lựa khúc nội âm triều cũ,
Khắp đất trời, thiên cổ họa hai.
Vi vu gió cợt rừng mai,
Sét tung bia đá, sấm ngoài động mây.
Ta thủa trẻ mộng đầy tươi sáng,
Gặp một lần, Hồ Giám tiệc hoa.
Hai mươi, phong vận mượt mà,
Men đào lửng mắt, môi pha ráng hồng.
Mười ngón gọi trời trong mây trắng,
Đôi hạc lùa u vẳng duềnh khơi.
Nhẹ hơn thoảng tiếng mưa rơi.
Sầu hơn cố quận ngậm ngùi đường quê.
Ấy cung nhạc triều Lê, Đại Nội.
Càng nghe càng đắm đuối ngẩn ngơ.
Tây Sơn tướng sĩ say sưa,
Vàng tung như ngói, tiền mưa như bùn.
Đêm ngun ngút,
Đàn tuôn phách hứng.Bệ trời xuân,
Dễ xứng một ngai.
Long Thành hào khí chen vai,
Tranh nhau chút ánh mắt ai hé cười.
Thoáng rồi đã hai mươi năm vội.
Sau Tây Sơn ta đổi vào Nam.
Thăng Long bao nả tấc gang,
Mà nay mới lại về ngang một lần.
Quan Tổng Trấn ân cần đãi tiệc,
Mặt đào nương ửng biếc bao người,
Riêng trông một ả rối bời,
Tóc hoa xô lệch, nhạt rời phấn son.
Thân gầy nhẽ, nhẹ buông tay vẩy,
Vuột cung đàn, buốt nẩy hồn ta.
Dội theo năm tháng vỡ oà,
Đây trời hội cũ, bóng ma hiện về.
Đâu Hồ Giám ? Lặng nghe lệ nấc.
Phải đàn ai ? Vương vất thanh âm.
Tang thương hết giã lại vần,
Lối xưa, nền cũ bao lần đục trong.
Nghiệp Tây Sơn đổ xong, tan biến.
Lạc loài rơi nửa phiến hồng nhan.
Trăm năm đọng giữa cung đàn,
Bóng tà cỏ áy, lệ lan bao ngần.
Ta về cũng da sần, tóc bạc,
Thì trách ai trâm lạc gương mờ.
Mắt trừng, đối mặt còn ngờ,
Biết bao chua xót cho vừa chiêm bao !
TÔ THẨM HUY
No comments:
Post a Comment