Tuesday, April 9, 2019

QUẨY GÁNH ĐI LÊN NÚI


Ý Nhi

Nhà thơ Phạm Phú Hải

            Một lần nào, Phạm Phú Hải viết:
Vậy nếu nghe tôi phải nghe bằng tai sóng đánh
Phải nghe bằng tai gió quất bằng tai mưa đâm
Phải nghe bằng tai sấm tát bằng tai sét bằm bão chẻ

            Thế nhưng, khi đọc Phạm Phú Hải, tôi lại nghĩ rằng, cần một khoảng không thanh tĩnh, một khoảnh khắc thanh tĩnh và nhất là, một trạng thái tâm hồn thanh tĩnh mới có thể đến được nơi ông, mới có thể nghe ra tiếng nói của con người:” Tôi vọng tiếng tôi về núi đá/ Núi đá ngàn năm vẫn lặng im/ Mấy ai hiểu được hồn u uất/ Của kẻ qua sông tự thả chìm”; con người:” Một năm có bốn mùa nhưng tôi biết có một mùa thứ năm/ Không gian có bốn phương nhưng tôi biết có một phương thứ năm/ Tôi đang sống/Trong mùa và phương không có tên đó”
            Phạm Phú Hải khiến tôi nhớ đến câu chuyện của nhà thơ Mỹ nọ. Ông kể rằng, vào một đêm khuya, trong căn phòng đơn sơ của mình, ông đã nghe thấy tiếng sáo cô đơn, buồn bã với hơi thở bứt rứt của con người đang sống. Ông quả quyết, tiếng sáo mà ông nghe thấy là tiếng của một nhà thơ nào đó vọng lên từ đáy hố của riêng mình.
            Tôi đang lắng nghe Phạm Phú Hải, lắng nghe bài ca thổi từ chiếc sáo được làm bằng chính xương cốt của nhà thơ:
                                    Ta về chép lại chiêm bao
                                   Đốt câu thơ cũ bỏ vào ống xương.

             Qua Phạm Phú Hải, tro bụi của những giấc mơ đã hồi sinh thành hàng trăm bài thơ mang chứa một vẻ đẹp riêng biệt.
              Sống trong :” Mùa và phương không tên”, Phạm Phú Hải đã vượt thoát khỏi những giới hạn của thời gian, không gian. Ông có thể:” Bước nhịp nhàng theo mây trắng sum suê/ Hái nửa trời cao cười lạc bước về”; có thể :”Thử buông tay thả người lơ lửng/ Ở giữa thinh không lại ngủ quên”; có thể:” Lay tỉnh thời gian bằng thuốc độc/ Hú hồn cho thức dậy giấc mơ xưa”…
              Sống trong:” Mùa và Phương không tên”, Phạm Phú Hải hòa vào tự nhiên, như thể ông là một trong núi non, sông suối, cỏ cây, chim muông, cầm thú. Ông gọi nắng và nghe nắng gọi, ông nghe núi khóc”tiếng lệ chứa chan”, ông nhìn mây” tươi mươi cúi tạ người”, ông nhận ra mình” trong lớp vỏ cây, trong vệt phân chim/ Trong cánh hoa rơi/ Trong phiến mây bay”, ông bị chấn động bởi cái chết của con bướm nhỏ:
                    Những con bướm đã chết đang sợ hãi
                    Đã chết vào mùa thu
                    Đang sợ hãi trong trí tưởng tượng tôi
                    Như thể tôi là con bướm
                    Đã chết vào mùa thu

              Hình ảnh người “quảy gánh đi lên núi” trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Phạm Phú Hải. Hình ảnh đó hư nhiều hơn thực. Nó giống như một ước vọng, một khao khát khôn nguôi:” Rơi mãi ta rơi từ năm nọ/ Chiều nay ngồi im nhìn mây bay/ Ta nghe gió ta nghe vài hoa rụng/ Ta thèm cho đời ta một gốc cây”.
              Nhưng cái gốc cây nương tựa mà ông ao ước chỉ có ở cõi người. Bao lần” Gánh thời gian lên đỉnh núi” cũng chỉ để” Gửi về cho một cõi người xa”, cũng chỉ là để hỏi” Hiểu nhau đời có bao tri kỷ”.
               Những câu hỏi riết róng, những nỗi vui, niềm đau chồng chất nơi cõi người của Phạm Phú Hải. Biết bao lần “ Buồn đắng ruột/ miệng huyên thuyên nói chuyện với hai tai”, bao lần “Hoàng hôn tắt lửa vui mà khóc/ Nên khuya khuya vô cớ bỗng cười”, bao lần “ Hồn gượng đau đứng suốt đêm dài”, bao lần thảng thốt kêu lên” Mẹ ơi mẹ, con là cột của nhà không lợp mái”.
             Những bài thơ như Thanh xuân, Không đề, Lời của người tình điên, Nắng trong mưa, Họa, Xuân, Ông cụ mù, cho lênh đênh theo thời gian, Ta ở Đông phương buồn m,ặt trời, Đại xá, Uyên viên…trĩu nặng tình yêu cõi người- trĩu nặng đến độ người phải đem thịt xương mình làm vật dụng chống đỡ:
Tự rút xương làm gậy chống đi
Lột da chân mà kết làm giày
Bứt ngàn sợi tóc đan làm mũ.

             Dường như Phạm Phú Hải không mấy quan tâm đến hình thức. Ông chỉ cốt sao nói lên được điều mình muốn nói. Trong ngôi nhà cổ điển của thơ ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, thất ngôn bát cú ông đã bày ra thế giới Phạm Phú Hải- Thế giới được phát sáng bởi chính tâm hồn ông.
               Người Họa sĩ Phạm Phú Hải “hòa rượu” để vẽ tranh. Ông già mù của Phạm Phú Hải “sờ soạng thơi gian mịn màng”,ra vào tâm can” và nghe dưới chân mình tiếng “ thời gian sột soạt”.
              Rượu của Phạm Phú Hải được ngâm với “vài lượng da trời
              Bò của Phạm Phú Hải cất tiếng ho, núi của Phạm Phú Hải khóc “ tiếng lệ chứa chan”, bức tường của Phạm Phú Hải biết sợ hãi:
               Mỗi khi ngồi quay mặt nhìn vào sát tường
               Tôi tưởng tượng bức tường là tôi
               Và tôi tưởng tượng tôi là bức tường
              Tôi nghĩ chắc bức tường sợ hãi lắm.
                   Tri tưởng tượng kỳ lạ của ông làm cho thơ ông đạt đến sự tự do và sự tự do của ông khiến cho trí tưởng tượng thêm giàu có, phong phú. Sức mạnh của sự kết hợp này đương nhiên không thể tính bằng phép cộng. Và vì vậy, cũng khó có sự so sánh. Chỉ có Phạm Phú Hải mới có nỗi buồn “ rụng hết ngón chân”, chỉ có Phạm Phú Hải đào mộ “ chôn cỏ xanh và chôn tiếng chim”, chỉ có Phạm Phú Hải” Ngồi nuốt bóng tối/ Tôi ngồi nuốt hết bóng tối” chỉ có Phạm Phú Hải mới có thể:” Tôi nâng hết tất cả/ Trên hai bàn tay tôi”, chỉ có ông mới có thể” Bay lên tận cửa trời/ Tôi về địa ngục tôi ngồi dương gian”, chỉ có ông “Lỡ cầm địa ngục trên tay/ Đốt lên làm đuốc soi ngày soi đêm”…

                  Cuộc tìm kiếm của Phạm Phú Hải là bất tận. Qua thơ, ông chỉ có thể bày ra một phần thế giới của mình. Dẫu vậy, hiểu Phạm Phú Hải qua thơ cũng không phải là việc dễ dàng. Trước tiên, xin hãy đến với ông như đến với một thân phận, một tâm hồn, một người “đồng hội” như cách nói của ông:
                     Cho tôi nói với những hồn đồng hội
                     Rằng hãy nhìn tôi với ánh mắt êm đềm.
SG 5/2009
Ý NHI


Thơ Phạm Phú Hải

Thi sĩ

Có bàn chân dài hơn con đường
Nên chân trời là những đốt xương
Của ai bỏ lại ngàn năm trước
Sửng sốt kêu lên tiếng dị thường

Ngủ cũng có đôi khi mở mắt
Chiêm bao thấy được vạn màu xanh
Giận quá giận đất trời vô loại
Nhẫn tâm xô chết những bình minh

Đi một mình đứng lại một mình
Dài hai bên thạch đỉnh chênh vênh
Thử buông tay thả người lơ lửng
Ở giữa thinh không lại ngủ quên

Trăng cho thi sĩ màu du tử
Đứng lại để nhìn vũ trụ đi
Cất bước mà xem khôn kiền chật
Bỏ bước về thanh khí tương tri

Nhạn gọi én xa mùa bước biệt
Có mây già lụm cụm đi theo
Du tử cuối đời về góc núi
Bỏ lại trên sông một tiếng chèo.


Vạn huyền

Trăng là sự lưỡng lự của ánh sáng
Cho nên rất dễ yêu

Có một dây đàn dài
Từ cung lòng ta đến cung trăng kia

Cây độc huyền của riêng ta
Cây độc huyền của riêng ta

Nếu em cũng cảm thấy như thế
Có một dây đàn dài
Từ cung lòng em đến cung trăng kia

Em sẽ nghe được tiếng nhị huyền

Trăng ơi

Ta nghe đâu đây tiếng vạn huyền
Ta nghe đâu đây tiếng vạn huyền

Mộng mị

Đặt tên cho bò
Thả bò cho núi
Đặt tên cho núi
Thả núi cho bò

Một hôm bò ho
Tiếng ho cổ quái
Một hôm bò ho
Ta buồn biết mấy

Bò ơi núi ơi
Suốt đời ngây dại
Ta ơi ta ơi
Suốt đời ngây dại

Một hôm núi khóc
Tiếng lệ chứa chan
Một hôm núi khóc
Ta bỏ đi ngang

Đi ngang đi ngang, mà
Tênh tang tênh tang, hà
Hỏi mây in thạch ảnh
Vun vút tiếng sao xa

Ta có một bầy bò
Ta có một bầy núi
Ta để ngàn năm qua
Nửa khuya chụp bắt khói

Khói vụt khỏi tay ta
Chỉ còn một dấu lạnh.


Bướm

Bây giờ là giữa tháng chạp
Chừng như cả mùa đông đang hội tụ ở riêng góc phố này
Gió bay từng tảng nặng
Những tảng nặng gió cắm cúi phóng mình

Những con bướm đã chết đang sợ hãi
Đã chết vào mùa thu
Đang sợ hãi trong trí tưởng tôi
Như thể tôi là con bướm
Đã chết vào mùa thu
Đang sợ hãi sợ hãi
Giá rét

Tôi nằm giữa căn phòng
ở góc phố
thành phố Xanh nhạt này
và tôi cũng đang đứng co ro trên thềm
             một ngôi nhà cũ kỹ
 Ở thành phố Xanh thẳm kia

Ôi những con bướm
bướm
bướm.

Đom đóm

Có lão ăn mày yêu thích đom đóm vô cùng
Hàng đêm rình bắt nhiều con bỏ vào túi nhưng cứ
bỏ đầy túi là chúng bay tuốt lên trời

Ngày kia lão bắt bỏ vào bao cột lại

Dành dụm vừa đầy bao thì chúng bay tuốt
mang theo cả bao

Đêm đêm lão thương nhớ ngồi trông lên
Một bầy lấp lánh

Lão biết chỗ nào đó có một bầy không thấy được

Nhưng khi sắp chết, nghĩ rằng có lẽ bầy đom đóm đã
Phá thủng bao rồi cũng nên.

                                    Khuya 6/7/1973

Tưởng tượng

Mỗi khi ngồi quay mặt nhìn vào sát tường
Tôi tưởng tượng bức tường là tôi
Và tôi tưởng tượng tôi là bức tường
Tôi nghĩ chắc bức tường sợ hãi lắm

Mỗi khi ngồi quay mặt nhìn vào sát tường
Tôi tưởng tượng tôi là tôi
Và tôi tưởng tượng bức tường cũng là tôi
Tôi nghĩ chắc tôi sợ hãi lắm

Mỗi khi ngồi quay mặt nhìn vào sát tường
Tôi tưởng tượng tôi là bức tường
Và tôi tưởng tượng bức tường cũng là bức tường
Tôi nghĩ chắc bức tường sảng khoái lắm

Mỗi khi ngồi quay mặt nhìn vào sát tường
Tôi tưởng tượng tôi là tôi
Và tôi cũng tưởng tượng tôi là bức tường
Tôi .
                                   Khuya 6/7/1973.

Du tử

Ngày kia Du tử mỏi chân
Bèn lấy Thần ra
Hai cánh tay thành vạn cánh
Thong thả lột hết những con đàng có trên mặt đất
             có trong không trung, có trong chỗ có
Đàng dài đàng ngắn
Đàng nhỏ đàng to
Đàng rộng đàng hẹp đàng chính đàng hẻm
Đàng bằng phẳng đàng thẳng đàng cong đàng quanh
                đàng lồi lõm
Đàng thông đàng cụt
Phủi giũ sạch sẽ kỹ càng
Rồi quấn hết vào hai chân mình
Nhiều và nặng đến nỗi Du tử cất hai chân lên
Không được

Bấy giờ thiên hạ ai cũng ở yên chỗ nấy vì tuy có
       cất chân lên được nhưng chẳng thể bước đi đâu được vì
       tuyệt không có con đàng nào cả
Chim chóc cũng như kiến mối
Không còn đàng bay đàng bò
Hay leo trèo như khỉ vượn
cũng hết đường leo trèo
Hay phóng chạy như ngựa thỏ cũng hết đàng
phóng chạy
Hay đủng đỉnh như trâu rùa cũng hết đàng đủng đỉnh
Đến độ con đàng của hai môi là đồng thời lên
 xuống cũng chẳng còn để cho hai môi có thể lên
xuống

Du tử a a ư ư.

                                      Khuya 6-7/5/1973

Không đề

1.
Đây là bài thơ tình thứ nghìn nghìn nghìn nghìn lẻ một
               của con người trên mặt đất
những câu rất vụng
nhưng tôi không sợ lạc đề
dù có nói bao nhiêu
cũng không ngoài mấy tiếng
“yêu em”

2.
Một năm có bốn mùa nhưng tôi biết có một mùa
Thứ năm
Không gian có bốn phương nhưng tôi biết có một phương
Thứ năm
Tôi đang sống
Trong mùa và phương không tên gọi đó.

3.
Hỡi thiếu nữ tôi yêu
Hãy nói giúp tôi, với người yêu của em
Cho gởi một cái siết tay rất chặt
Những  lời chào quý mến
Dù chưa biết tên biết mặt
Nhưng cùng yêu em
Anh và tôi đã gặp nhau.

4.
Xin đa tạ mặt đất mỗi ngày em đi đứng
Xin đa tạ khí trời, mỗi ngày em hít thở
Xin đa tạ song thân em vì hai người đã gặp nhau
Xin đa tạ người yêu của em, người mà tôi tin rằng
Đã cho em
Những tháng ngày hạnh phúc
Xin đa tạ bầu trời, xin đa tạ thời gian, đa tạ cỏ hoa
Đa tạ sương, mây, nắng, gió, trăng , sao
Đa tạ loài người, thiên nhiên, tất cả

5.
Tôi yêu trăng
Tôi yêu chim, yêu hoa, nắng, gió, bầu trời, dòng sông…
Nhưng
Tôi không đòi trăng phải yêu tôi
Tôi không đòi chim, hoa, nắng, gió phải yêu tôi

6.
Đâu phải “được yêu” mới là hạnh phúc
“Yêu, chính là hạnh phúc

Hạnh phúc cho tôi vô cùng được gặp được nhìn em.

                                     (Rút từ tập thơ (Một hôm núi khóc)






No comments:

Post a Comment