Tuesday, June 20, 2017

QUA SÔNG. THƠ TÔ THÙY YÊN


Nguyễn Thị Thảo An

Qua sông

Tô Thùy Yên là một tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam. Thời chiến tranh, ông là người lính. Trong thời bình, ông là người tù. Đi lính, làm thơ lính. Đi tù, làm thơ tù. Thơ tù của ông khiến thiên hạ xốn xang, kể cả cai tù cũng phải rúng động. Nhưng thơ lính lại có người “chê”, nhất là giới trẻ. Người ta vẫn quen lối mòn suy nghĩ, thơ lính là thơ hùng, người lính lúc nào cũng lăm lăm tay súng.

Bài Qua Sông, Anh Hùng Tận, Đêm Qua Bắc Vàm Cống, Đãng Tử, Trường Sa Hành… là thơ lính, nhưng mà là thơ buồn. Người lính bơ phờ, mỏi mệt, sau những chuyến quân hành. Người lính “dô dô..”, lính nhậu nhẹt, lính quên đời. Uống để quên những gương mặt bạn bè, đồng đội… mới vừa ngã xuống. Thơ lính của Tô Thùy Yên nói lên tiếng nói tự do, quyền được khóc. Đó là điều nghiêm cấm ở Miền Bắc. Không có bài thơ lính nào ở Miền Bắc có nước mắt cả. Vì vậy thơ lính TTY là tiếng thơ nhân bản cho thân phận con người. Ông Tô không phải chỉ là người lính của Miền Nam, mà còn là người lính của thân phận, của con người. Tuy buồn đấy, nhưng cái nét bi hùng vẫn cuồn cuộn trong thơ:

“Ly rượu rót mời, xin uống cạn.
Bài ca ta hát đến đâu rồi?
Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn…
Cho úp ly – bóng xế đường dài…
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê?
Đến ngã ba, đành theo một lối,
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào,
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,
Thiên thu loé tắt vệt phù du… “ (Đãng Tử)

Trong nhạc Việt, người ta thường ví Phạm Duy là phù thủy âm thanh. Trong thơ, phải ví Tô Thùy Yên là phù thủy của ngôn ngữ. Trong bài Qua Sông, ông dùng những chữ diễn tả thật mới lạ. Như , “trời mốc”, vẽ nên màu trời vần vũ âm âm hơi nước. “xa như nhớ” - chỉ khoảng cách trừu tượng, không thể ước lượng. Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò”. Thi trung hữu họa là đây. Chỉ bằng hai chữ "xiêu lạc dáng cò" Con cò phiêu hốt bỗng dưng hiển hiện trong trí tưởng mọi người,…

“Quán chật xanh lên rừng lính ướt.
Mặt bơ phờ dính gió bao la”

Lần đầu tiên có người diễn tả người lính qua sông là “lính ướt”, mặt “dính gió”,... Những chữ đặc thù của Tô Thùy Yên khiến thơ ông không lẫn với ai được.

QUA SÔNG

Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện.
Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa.
Con đường đáo nhậm xa như nhớ.
Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò.
Quán chật xanh lên rừng lính ướt,
Mặt bơ phờ dính gió bao la.
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét,
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa.
Vang lên những địa danh huyền hoặc,
Mỗi địa danh nồng một xót xa.
Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận mưa liền.
Châu thổ mang mang trời nước sát,
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên.

Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên.
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…
Sông cái nước men bờ sóng sánh.
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng.
Áo quan phong quốc kỳ anh liệt.
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang.
Quê xa không tiện đường đưa tiễn,
Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh.
Thêm một chút gì như hối hả,
Người thân chưa khóc ráo thâm tình…

… Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ quên…
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

Hai câu cuối,

"Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời."

Khiến người ta liên tưởng tới hai câu thơ khác.
"Thùng thùng trống đánh ngũ liên.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa."
Đời lính xưa nay, thời nào cũng "Túy ngọa sa trường" cả. Nếu sống sót thì lại chỉ sống bằng ký ức.

NGUYỄN THỊ THẢO AN
6/19/17

No comments:

Post a Comment