Saturday, April 8, 2017

MƯỜI BÀI THƠ MÙA XUÂN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG


Nguyễn Lương Vỵ chuyển dỊch thơ việt

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông dưới núi Yên Tử

1. 春日謁昭陵


Phiên âm:

XUÂN NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG

Tì hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

Dịch nghĩa:

NGÀY XUÂN VIẾNG CHIÊU LĂNG

Lính thị vệ như cọp, đứng nghiêm túc trước ngàn cửa,
Áo mũ các quan đầy đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay,
Thường nhắc lại chuyện Nguyên Phong [đã qua rồi].

Ghi chú:

. Chiêu lăng [ ]: Lăng vua Trần Thái Tông [陳太宗](10.7.12185.5.1277), tên thật là Trần Bồ [陳蒲,] sau đổi thành Trần Cảnh [陳煚] là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi gần 33 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng 19 năm. Trần Thái Tông là cha của Trần Thánh Tông và là ông nội của Trần Nhân Tông.
. Nguyên Phong []: Khi lên làm vua năm 1225, Trần Thái Tông đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiên Ứng Chính Bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong. Ngày 17.01.1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7), quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ). Vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép: "Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn…". Ngày 29.01.1258, vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ Nhất.

(Nguồn tham khảo: Sách Thơ Văn Lý Trần, NXB KHXH, Hà Nội, 1989).

Phỏng dịch thơ Việt:

NGÀY XUÂN VIẾNG CHIÊU LĂNG

Ngàn cửa, uy nghiêm lính,
Bảy phẩm, chỉnh tề quan.
Người lính bạc đầu nhắc,
Chuyện Nguyên Phong còn vang.

2.春 曉


Phiên Âm:

XUÂN HIỂU

Thụy khởi khải song phi,
Bất tri Xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.

Dịch Nghĩa:

SỚM XUÂN

Ngủ dậy mở cánh cửa sổ,
Không biết mùa Xuân đã về.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.

Chú thích:

. Khải []:Mở ra, bắt đầu.
. Phách []: Vỗ, đập, phủi. Cái phách để gõ nhịp.
. Sấn []: Đuổi, vờn, đuổi theo, vờn theo.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

SỚM XUÂN

Ngủ dậy, mở cửa trông,
Nào hay Xuân mênh mông.
Kìa một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh vờn bông!

3. 洞 天 湖 上


Phiên Âm:

ĐỘNG THIÊN HỒ THƯỢNG

Động thiên hồ thượng cảnh,
Hoa thảo giảm Xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.

Dịch Nghĩa:

TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN

Quang cảnh hồ Động Thiên,
Hoa cỏ [có vẻ] giảm sút nét Xuân tươi.
Trời thương xót nỗi hiu quạnh [nơi nầy],
Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông giữa tầng biếc.

Ghi Chú:

. Hồ Động Thiên []: Tra cứu các từ điển không tìm thấy. Trong sách Thơ Văn Lý Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989, trong phần chú thích cũng ghi: “chưa rõ ở đâu”.
. Liên []: Thương xót, thương tình.
. Sầm tịch []: cao và yên lặng, vắng lặng.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN

Cảnh trên hồ Động Thiên,
Dáng Xuân gầy hoa cỏ.
Trời thương xót niềm riêng,
Một hồi chuông xanh tỏ.

4. 春景


Phiên âm:

XUÂN CẢNH

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.

Dịch nghĩa:

CẢNH XUÂN

Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, [có] tiếng chim hót lời chậm rãi,
Dưới bóng thềm hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều bay qua.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.

Ghi chú:

. Thiềm []: Mái hiên, mái nhà.
. Thúy []: Xanh biếc
. Vi []: Tinh vi, vi diệu, mầu nhiệm tinh tế.

Phỏng dịch thơ Việt:

CẢNH XUÂN

Chim chậm lời ca, liễu nở đầy,
Họa đường bóng lộng, mây chiều bay.
Khách đến, chuyện đời không hỏi nữa,
Cùng tựa lan can ngắm biếc ngày.

5.


Phiên âm:

XUÂN VÃN

Niên thiếu hà tằng liễu Sắc-Không,
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Dịch nghĩa:

CHIỀU XUÂN

Thuở nhỏ chưa từng hiểu thấu lẽ Sắc-Không là thế nào,
Mỗi khi mùa Xuân đến vẫn gửi chuyện lòng trong trăm hoa.
Như ngày nay đã thấy rõ được bộ mặt chúa Xuân,
Ngồi trên nệm cỏ bồ giữa tấm phản nhà chùa nhìn xem cánh hoa hồng rơi rụng.

Chú thích:

. Liễu []: Hiểu, hiểu biết, hiểu rõ, thấu hiểu. Hà tằng liễu []: Chưa từng thấu hiểu là thế nào, ra làm sao.
. Đông Hoàng []: Cũng gọi là Đông Quân [] (ông vua của mùa Xuân). Trong bài thơ Lập Xuân Hậu Thi [立春後詩] của Vương Sơ [王初] có câu: "Đông quân kha bội hưởng san san / Thanh ngự đa thì hạ cửu quan" [君坷佩嚮珊珊 - 青馭多時下九關] (Chúa Xuân đeo ngọc kêu leng keng / Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống chín cửa quan). (Nguồn tham khảo: Sách Thơ Văn Lý Trần, NXB KHXH, Hà Nội, 1989).
. Thiền bản []: Chiếc giường hay chiếc phản nhỏ bằng gỗ.
. Bồ đoàn []: Tấm lót để ngồi bằng cỏ bồ, hình tròn, còn gọi là nệm cỏ bồ. Ngày xưa, các vị sư thường dùng trong lúc ngồi thiền hay lễ bái.

Phỏng dịch thơ Việt:

CHIỀU XUÂN

Thuở nhỏ chưa từng thấu Sắc-Không,
Đón Xuân, hoa thắm gửi chuyện lòng.
Gương mặt chúa Xuân nay đã tỏ,
Nệm cỏ ngồi xem rụng cánh hồng.

6. 饋 張 顯 卿 春 餅


Phiên Âm:

QUỸ TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH

Giá chi vũ bãi, thí Xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn Xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.

Dịch Nghĩa:

TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH

Múa bài múa giá chi xong rồi, [mặc] thử tấm áo ngày Xuân,
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết [hàn thực] mồng ba tháng ba.
Bánh rau mùa Xuân, như ngọc hồng bày biện đầy mâm,
Đó là phong tục của nước An Nam [ta] từ xưa.

Ghi chú:

. Trương Hiển Khanh: Tức Trương Lập Đạo [張立道] sang sứ nước ta hai lần. Lần thứ nhất, vào năm 1265 để “tuyên dụ” chiếu chỉ của vua nhà Nguyên (vua Trần Thái Tông đã làm thơ tiễn trong dịp nầy.) Lần thứ hai, vào năm 1291 (dưới triều vua Trần Nhân Tông,) nhằm dụ vua nước ta qui phục và buộc vua Trần Nhân Tông phải sang chầu Bắc triều nhà Nguyên. Do kết quả ba lần nước ta chiến thắng oanh liệt giặc Nguyên-Mông, do thái độ mềm mỏng nhưng đỉnh đạc, kiên quyết của các vua nhà Trần, Trương Hiển Khanh buộc phải có thái độ kính nể. Trong bài thơ họa đáp với vua Trần, Trương Hiển Khanh đã viết:

安南雖小文章在。
未可輕談井底蛙.

An Nam tuy tiểu văn chương tại 
Vị khả khinh đàm tỉnh để oa

(Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương,
Chưa thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng)

(Nguồn tham khảo: Sách Thơ Văn Lý Trần, NXB KHXH, Hà Nội, 1989).

. Giá chi vũ []: Có thể là một điệu múa cổ của dân tộc Việt Nam.
. Tam nguyệt tam []: Ngày mồng Ba tháng Ba, thường gọi là tiết Thanh Minh, cũng gọi là Tết hàn thực, là ngày đi tảo mộ sau Tết Âm lịch.
. Thái bính []: Bánh rau. Một loại bánh bột làm với rau. Có thể là một loại bánh khúc ở thôn quê miền Bắc ngày xưa.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH

Giá Chi múa xong, thử áo Xuân,
Lại thêm hàn thực, tiết thanh nhuần.
Bánh rau như ngọc hồng ăm ắp,
Tục Việt từ xưa đẹp bội phần.

7. 山 房 漫 興 其 二


Phiên Âm:

SƠN PHÒNG MẠN HỨNG KỲ NHỊ

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu Xuân tàn.

Dịch Nghĩa:

MẠN HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI

Nghĩ chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng,
Lòng [ham] danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non im vắng,
Một tiếng chim kêu, [thế rồi] lại cảnh Xuân tàn.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MẠN HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI

Phải quấy rụng cùng hoa buổi sáng,
Lợi danh lạnh theo mưa ban đêm.
Mưa tạnh hoa tàn, núi im vắng,
Một tiếng chim kêu, Xuân úa thêm.

8. 登 寶 臺 山


Phiên Âm:

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Ðịa tịch đài du cổ,
Thời lai Xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.

Dịch Nghĩa:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất [nơi đây là nơi] hẻo lánh, [nên] đài [càng] thêm cổ kính,
Theo thời tiết, mùa Xuân [nơi đây] về chưa lâu.
Núi mây [nhìn] như xa, như gần,
Ngõ hoa nửa rợp bóng, nửa nắng chiếu.
Muôn việc như nước tuôn [theo] nước,
Trăm năm lòng lại nhủ lòng.
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo quý như ngọc,
Ánh trăng sáng rơi đầy trước ngực.

Ghi Chú:

Bảo Đài sơn [ ]: Núi Bảo Đài. Địa danh nầy trùng tên rất nhiều nơi, còn có tên khác là Long Đại, thuộc châu Ái; ở Bảo Lộc cũng có; ở xã Động Mạc, huyện Vọng Danh, huyện Đông Triều, Hải Dương cũng có. Núi Bảo Đài trong bài thơ nầy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là ngọn núi thuộc dãy núi ở Yên Tử, huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất vắng, lầu càng cũ,
Xuân mới về chưa lâu.
Mây núi gần xa tỏ,
Ngõ hoa râm sáng màu.
Vạn sự giòng nước cuốn,
Trăm năm tấc lòng cầu.
Lan can nâng sáo quý,
Ngực sáng ánh trăng cao.

9. 早 梅 其 一


Phiên Âm:

TẢO MAI KỲ NHẤT

Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương Xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ,
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!

Dịch Nghĩa:

MAI SỚM LẦN MỘT

Năm cánh hoa tròn thơm, nhụy hoa điểm sắc vàng,
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Cành hoa trắng xóa suốt ba tháng đông,
Sang đầu Xuân, chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ.
Sương ngọt chảy mùi thơm, làm con bướm tỉnh giấc say đắm,
Ánh sáng ban đêm như nước, khiến con chim khát nước buồn bã.
Nếu Hằng Nga biết được dáng vẻ xinh đẹp của hoa mai,
Thì chẳng ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.

Ghi Chú:

. Hằng Nga []: Theo sách cổ Hậu Hán Thư [後漢書], trong tích Hậu Nghệ [后羿] có vợ là Hằng Nga [] còn có tên là Thường Nga [] lấy trộm thuốc của chồng rồi bay lên cung trăng, bị đọa thành con cóc (thiềm thừ.) Từ đó, cung trăng cũng có tên là “cung Thiềm.”
. Quế []: Theo sách cổ Dậu Dương Tạp Trở [酉陽雜俎] chép rằng: Trong trăng có cây quế, cao 500 trượng. Vì thế, “quế” cũng là tên gọi của mặt trăng.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MAI SỚM LẦN MỘT

Tròn xoe năm cánh, nhụy vàng phơi,
Chìm bóng san hô, vảy cá trồi.
Đông ba tháng lạnh cành im trắng,
Xuân một ngày hanh nhánh ấm ngời.
Sương ngọt mùi hương lay bướm dậy,
Đêm ngời ánh nước khiến chim sầu.
Hằng Nga nếu biết hoa mai đẹp,
Bóng quế cung thiềm sẽ chán thôi.

10. 早 梅 其 二


Phiên Âm:

TẢO MAI KỲ NHỊ

Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.

Dịch Nghĩa:

MAI SỚM LẦN HAI

Năm ngày sợ rét, lười ra khỏi cửa,
Mà gió Xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Cành hoa trĩu xuống đầu cành, hơi ấm chưa phân định rõ.
Giọng ca chim Thuý vũ lắng chìm [theo] ánh trăng ở quán trọ trong núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa,
Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.

Chú Thích:

. Thúy vũ []: Tức “thúy vũ ngâm” tên một từ khúc nổi tiếng ngày xưa. Cung điệu của khúc ngâm nầy còn thấy ở bài Trúc Sơn Từ [竹山祠] của Tưởng Tiệp [奬捷]. Lời đề tựa của ông nói: “Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu có tên là Tiểu Hoa Mai Dẫn, bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát…”
. Họa long []: Có thể là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Sách Từ Hải [辞海] dẫn lời của Thẩm Ước [沈箹]và Từ Quảng [徐廣] nói rằng: “Tù và của người Hồ, chỗ tay cầm, vẽ con giao long có chân năm sắc.”
. Ngọc Quan []: Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây vực [西域,] thuộc tỉnh Cam Túc [甘肃], nước Tàu. Ở đây, tác giả mượn cảnh để miêu tả tiếng sáo Họa Long làm ẩm ướt đám mây trên cửa ải.
. Hai câu thơ cuối, tác giả lấy ý trong điển tích “nhất chi Xuân” [一枝春,] rút từ câu thơ của Lục Khải [陸啟] trong bài thơ “Tặng Phạm Diệp”[贈范曄]:


(Phiên âm: Chiết mai phùng dịch sứ / Ký dữ lủng đầu nhân / Giang Nam hà sở hữu / Liêu tặng nhất chi Xuân – Dịch nghĩa: Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm / Gửi cho người ở Lủng Đầu / Giang Nam chẳng có gì cả / Chỉ tặng bạn một cành Xuân).
Trong bài thơ “Tảo Mai Kỳ Nhị” nầy, tác giả mượn ý trên, nhưng đã chuyển ý vào trong cõi mộng rất độc đáo: "Nhất chi mê nhập cố nhân mộng / Giác hậu bất kham trì tặng quân."  (Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa / Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được).

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MAI SỚM LẦN HAI

Năm ngày sợ lạnh, biếng rời nhà,
Gió Xuân vừa ghé gốc cây già.
Mặt nước bóng chao, băng sớm rã,
Cành hoa cánh trĩu, ấm chưa ra.
Thúy Vũ chim vờn, trăng núi ẩn,
Họa Long sáo ướt, Ngọc Quan nhòa.
Cành hoa lạc mộng người xưa khuất,
Tỉnh giấc làm sao tặng bạn xa!

NLV
_____________________
Trích trong sách THƠ TRẦN NHÂN TÔNG, Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch và bình thơ. NXB Q&P - SỐNG phối hợp với công ty Amazon, in và phát hành trên mạng toàn cầu. California, 4.2017.


No comments:

Post a Comment