Friday, August 10, 2018

TÌM THƠ NHẠC TRONG TRANH NGUYỄN ĐÌNH THUẦN


Nguyễn Mạnh Trinh.

Hoa vàng. Tranh Nguyễn Đình Thuần

    Một buổi chiều cuối tuần giữa mùa hạ nắng đỏ, tôi lạc vào giữa những sắc mầu lung linh, không phải bốc hơi vì cái nóng thường lệ của một thời tiết đã cũ, mà vì những cảm giác chợt có ập đến từ những khung canvas trên những vỉ tường của phòng triển lãm. Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, một cây cọ đã có nhiều lần triển lãm tranh thành công và cũng là một nghệ sĩ luôn mở rộng vòng tay tiếp đón bằng hữu. Nhưng hôm nay, tôi đến phòng tranh với một ý định có vẻ hơi ngông cuồng và không khiêm tốn. Tôi đến để tìm thơ nhạc trong tranh...

    Vương Duy thời Đường  đã hòa nhập thơ và họa để có những bài như  Vị Thành Khúc- Tống Nguyên nhị sứ An Tây đầy sắc màu hội họa  và những bức tranh như Giang Sơn Tuyết Tế Đồ hay  Võng Xuyên Đồ vẽ phong cảnh nơi ông sống ẩn dật  có tuyết trắng non cao đầy chất thi ca.
    Đọc bài thơ, cảnh  sáng mùa xuân bên rặng liễu lất phất mưa bay tiễn người đi xa trong không gian mờ ảo với răng liễu xanh ngăn ngắt  đã thành một bức tranh gợi nhiều cảm giác của một nỗi buồn bao phủ cả cảnh lẫn người. Chỉ một vài nét điểm xuyết, thơ đã mở ra một khung trời khói sương mà màu sắc nhạt nhòa buồn của tâm tư gửi vào từ cuộc sống trải qua.
 “ Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần
 Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cảnh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

Bùi Giáng dịch:
Vị Thành mưa sớm mù tăm
Cõi miền bụi uớt thấm dầm ngõ thuôn
quán mờ liễu thắm xanh buông
mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân
tiền trình quan ải tây phân
đèo truông ra khỏi cố nhân không còn.

    Nhà thơ Tô Đông Pha đã viết về Vương Duy “ thư trung hữu họa, họa trung  hữu thi”. Ông cũng là một nhà thơ được kể trong bát đại gia của thi ca Đường Tống và cũng là một họa sư có nét vẽ độc đáo...

    Mang chuyện cũ kể lại,để gợi lại một ý tưởng mà tôi suy nghĩ từ lâu. Tôi mê thi ca nhưng cũng yêu hội họa. Có lần tôi tìm hiểu, phải chăng nước Việt Nam nhỏ nên  ngôn ngữ ít phổ biến trên thế giới nên thi ca Việt Nam không có tầm mức đủ để góp mặt với thi đàn hoàn vũ. Nhưng nếu để khắc phục điểm yếu ấy, thi sĩ Việt Nam có thể tìm kiếm ra một ngôn ngữ quốc tế như ngôn ngữ của hội họa, của âm nhạc không lời để phổ biến tác phẩm thi ca của mình không? Tôi biết ý tưởng ấy có vẻ không thực tế và hoang tưởng đối với khả năng của tôi. Dù vậy, khi gặp một bức tranh đẹp, bắt mắt tôi sẽ xem tranh một cách trân trọng để cố gắng tìm hiểu ngôn ngữ hội họa tiềm ẩn trong mầu sắc và đường nét. Đối diện với bức tranh, tôi ngắm nhìn.
     Phòng tranh của Nguyễn Đình Thuần  có mấy bức tranh  trừu tượng và ấn tượng mà tôi thích . Tôi nhớ lại họa sĩ Tạ Tỵ  trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Nguiễn Ngu Í đã nói:” Hôm nay đứng trước một họa phẩm trừu tượng, người thưởng ngoạn không nên và không bao giờ nên tìm hiểu họa sĩ đã vẽ gì trong kích thước đó, mà chỉ nên tìm hiểu mình đã nghĩ gì về tác phẩm trước mắt mình? Cảm giác đầu tiên nào đập vào trí não mình để bắt nguồn cho rung động? Những màu sắc và hình thể kia có phải là dấu hiệu của riêng mình đã in vào tiềm thức? Người họa sĩ không có lý do để hiện diện trong tác phẩm thuộc loại trừu tượng, trừ cái tên ký ở góc tranh...”
    Tôi thắc mắc. Thế nào là một bức tranh đẹp? Thì họa sĩ đã trả lời trong quyển catalogue của cuộc triển lãm năm 1951 tại Hà Nội mang tên Hội Họa Hiện Đại:
    “Cái đẹp là điều tiềm thức phải làm việc để nâng cao lên giá trị giữa mực sống bình thường. Cái động của Thiên nhiên quay theo với sức nóng của mặt trời cũng như luật tuần hoàn của kiếp sống. Thay đổi luôn luôn biến chuyển từ Vô Hình đên Hữu Hình, từ  Xanh đến Vàng, từ Hồng đến Tím và xê dịch với tốc độ của thời gian. Nghệ thuật chứa đựng trong lòng nó cái sức sống tiềm tàng của Đất, Trời. Tiếng nói của vũ trụ và âm thanh và Mầu sắc. Phần âm thanh rung lên rồi tan đi. Màu sắc còn lại nói  sự “ cựa mình” của Sự vật.”
     Một người ở thế hệ sau, trên tienve.org-nhà văn Bội Trân- diễn tả:” Qua những lời nói này, người ta thấy Tạ Tỵ nhắm đến sự khái quát hóa trong tranh, hay nói một cách khác, tranh của ông chỉ thể hiện cảm xúc, nó là nỗ lực của trí tuệ để cảm nhận và thể hiện thế giới quanh mình.”

      Họa sĩ triển lãm tranh ngày hôm nay, Nguyễn Đình Thuần phát biểu về cái đẹp trừu tượng:” Trừu tượng vốn dĩ dùng màu sắc để truyền đạt về thẩm mỹ. Trong tranh trừu tượng vẫn có bố cục của màu sắc, đường nét, đậm nhạt. Tùy cảm hứng của mỗi họa sĩ dùng sắc độ màu và màu để tạo cân xứng cho bố cục. Như đã nói, trừu tượng là một cách thế để họa sĩ biểu cảm, dùng mầu sắc và đường nét diễn cảm cái đẹp và suy tưởng...
     Một họa phẩm, đầu tiên là tính thẩm mỹ. Tranh hài hòa mầu sắc, được số đông thưởng ngoạn đồng cảm. Sau đó họa sĩ sáng tác có gởi gấm tư tưởng, thông điệp gì đó là phần phụ thuộc nhưng cũng rất quan trọng.
     Tác phẩm “lớn” không phải do kích thước của nó. Đã từng có nhiều bức tranh chỉ lớn bằng bàn tay được đưa vào bảo tàng viện. Bức tranh tuyệt tác Mona Lisa của Leonardo de Vinci chỉ là  khổ dài 77 cm và rộng 53 cm.
     Theo cảm nghĩ riêng, tác phẩm lớn là một tác phẩm được mọi người trân trọng lâu dài ở lâu trong đại đa số quần chúng thưởng ngoạn”
     Được hỏi ông có chịu ảnh hưởng từ họa sĩ và trường phái nào không, Nguyễn Đình Thuần trả lồi rất chân thật:” Như ta đã biết là  từng thời kỳ từng giai đoạn trong nghệ thuật hội họa hẳn nhiên là trong sự tiếp nối tuy không rõ rệt nhưng hình như họa sĩ nào cũng có sự ảnh hưởng từ những người đi trước. Có thể từ sự đồng cảm hay yêu thích ngưỡng mộ các họa sĩ đàn anh bậc thầy đi trước mình. Tuy nhiên qua thời gian suy niệm từng trải trong sáng tác dần dần họ sẽ tách ra tự tạo cho mình một lối riêng để đi đến chỗ độc lập, điều này rất quan trọng trong vấn đề sáng tác. Nói chung là phải tự mình khẳng định cho mình một bút pháp riêng biệt...”
      Tranh Nguyễn Đình Thuần có vài bức ấn tượng. Khi ngắm nhìn không hiểu tại sao tôi lại nghĩ đến bài thơ của Amy Lowell, giải  Pulitzer Prize for Poetry năm 1926, một thi sĩ nổi bật phong trào thi ca imagism, một trường phái tưởng tượng vay mượn từ phong cách của ngôn ngữ thi ca Anh và Hoa kỳ để sáng tạo ra một phong trào văn học Anglo- America mới với tính chất biểu định thi ca xuống đến hình thức tinh khiết nhất và trực tiếp nhất.
    Bài thơ Impressionist Picture of a Garden của Amy Lowell được in trên trang mở đầu  tác phẩm biên khảo hội họa American Impressionism của Dr. William H. Gerds

Hình ảnh ấn tượng  họa của một khu vườn.
Cho tôi ánh sáng mặt trời
Say sưa trong từng nhát cọ
Và loang trên sắc đỏ của cánh mẫu đơn
Phủ ngập vườn cây tôi
Giật toang màu xanh thẳm trên đó
Lẫn mầu xanh nóng hổi của nụ canterbury bell
Rụt rè từ phi yến thảo
Trong  hoa hướng dương
Rửa sạch những cánh hoa forget-me- not.
Nhúng đỏ tươi lần nữa trộn lẫn với  sắc tím
Và đặt trên mũi nhọn của ánh chớp hoa tử đinh hương
Như chống lại mầu xanh tươi sáng
Vệt vàng của nụ sen và cúc vạn thọ mọc trên đầm lầy
Và thắp lửa đỏ cam trên cánh loa kèn của tôi
Đổ tràn thuốc nhuộm xanh thẫm
Và gach ngang bóng trời
như cảm giác đốt nóng nặng nề
mà anh tạo dựng.
Rồi mầu xanh cây lá kéo vào bức tranh
Cho nổi bật sắc mầu
Của phút giây căng thẳng
Và tan chảy những cành cây của anh
Trong bầu trời nhuộm xanh
Quăng một vệt trắng Trung Hoa
Để chớp sáng vầng mây
Và tin tưởng tia nắng dọi mặt trời
Mà anh đã đặt để trong tranh của mình.
Đó là hình ảnh thực.
     Nhà thơ Amy Lowell đã ngắm nhìn tranh ấn tượng như thế? Sắc mầu của hoa cỏ có nói gì đâu, tôi tự hỏi? Hay có phải từ hoa lá đến sắc mầu đã là những vần mẫu tự cho ngôn ngữ hội họa. Mầu tím của chờ mong, mầu xanh của hy vọng, mầu đỏ của  lửa cháy, nếu trộn lẫn với nhau , hòa hợp và tan chảy vào nhau thành những lớp màu sắc  lung linh chắc sẽ gợi ra nhiều ý tưởng kỳ thú.
     Tự nhiên, tôi gợi ý chính tôi. Tranh ở đây, ở phòng triển lãm này, trong giây phút hiện tiền này,   tai sao không làm thơ để phác họa lại những xúc cảm của mình. Tôi làm thơ...
  Bài ” Xem tranh Nguyễn Đình Thuần.”. một ý tưởng dù thoáng qua nhưng trong thời gian này, không gian này sẽ ghi dấu để thành một riêng tư kỷ niệm. Tôi thấy nhòa nhạt trong mắt, tràn lan biển sắc mầu. Nói cái gì và nói với ai, tôi chẳng hiểu. Nhưng ít ra, có ngôn ngữ thầm, của nói nhưng không nói, của nhìn liếc qua nhưng vời vợi muôn trùng. Khó hiểu quá, có phải không tôi lúc ấy?

Xem tranh Nguyễn Đình Thuần
Ngơ ngác giữa có không
Chập chờn cơn địa chấn
Sao dửng dưng tấc lòng?
Một tảng mầu nâu xám
Trần trụi những cơn mơ
Ôi mê cuồng ảm đạm
Còn vương sợi tóc hờ.

Xem tranh Nguyễn Đình Thuần
Phải ta nhìn cố lý?
Chiều bến lạ ghé chân
Góc riêng nào thầm thỉ
Xanh ngát nửa vầng trăng
Thoáng liếc nhìn đã cũ
Tóc xõa mấy tràng giang
Khúc quành nào cơn lũ

Xem tranh Nguyễn Đình Thuần
Mênh mang mầu tím biếc
Phố nâu mấy gót chân
Rừng sim còn biền biệt
Đỏ lửa ngập  cuối trời
Hoang sơ rồi dáng thú
Đôi mắt người khôn nguôi
Chập chờn khuya thức ngủ

Xem tranh Nguyễn Đình Thuần
Leo dốc đời độ lượng
 Bon chen sẵn căn phần
Tấc thịt da sần sượng
Vàng sẫm mấy câu thơ
Một mình trong chiều vắng
Hut hẫng phút bất ngờ
ta tan vào trong nắng

Xem tranh Nguyễn Đình Thuần
Khép hở phần da thịt
Thăm thẳm khỏa thân xanh
Có mùi hoa oan nghiệt
Chiều đang trôi rất chậm
Vào dáng núi muôn năm
Ôi! Sắc mầu mê đắm
Có hạt lệ rụng thầm...

      Chưa đủ, ngất ngưởng  ghé vào một góc,  nhìn ngắm “ Dưới ánh trăng”. Sao họa sĩ lại đặt tên như thế? Sao tôi lại có ý nghĩ ánh nắng mặt trời chảy trên làn da thiếu nữ đầy ắp từ  khuôn mặt, bờ vai và bàn tay sắc đậm như níu kéo và ôm ấp sự sống. Ánh trăng tan vỡ?  Hay nắng gọi bình minh? Nhưng quầng  màu nhạt  trên đầu , thì đúng là ánh trăng lan tỏa trên mái tóc và thành những phiến ánh sáng pha trộn đậm nhạt lung linh.
   Tôi bảo tôi, đừng thắc mắc ánh trăng hay tia mặt trời, bởi ai mà phân biệt được cái hữu hình và vô hình đang làm khó cảm  xúc của trái tim và khối óc. Toi nhìn. Và cảm nhận với mở lòng ra từ cái đẹp.Tôi viết bài thơ. .. 

Dưới ánh trăng. Tranh Nguyễn Đình Thuần

Dưới ánh trăng.

Hỏi tôi. Mặt nhật trăng soi
Nguyệt rằm nắng rọi chỗ ngồi hư không
Vàng ươm da thịt thu đông
Nỗi niềm loang giữa mấy dòng thiên thu
Sao tôi như ánh trăng lu
Nhìn vô tận cuộc phiêu du muộn màng
Ừ, tôi ngõ hạnh chưa sang...

     Tôi nhìn. Tôi ngắm. Hoa Vàng Mấy Độ. Mầu vàng của kỷ niệm nóng. Tràn lan. Nhưng đôi vai màu đỏ của rực rỡ mang năng nỗi niềm.Những sắc mầu như lịm đi, phong kín. Nhưng sao mắt em xanh? Đôi tay mường tượng nắm những điều gì? Một bông hoa hay một nụ hoa? Và tay kia? Nắm những chập chùng mầu sắc của đời sống nào có thể xưa kia mà cũng có thể của bây giờ.Tôi ngắm nhìn và tôi làm thơ.
     Hoa Vàng Mấy Độ. Bức tranh thơ hơn cả những câu thơ tình cờ hôm nay.

Vàng hoa mênh mang
đôi vai sắc đỏ
em gánh trường giang
ngược con phố nhỏ

Tóc em màu xanh
Sao vàng kỷ niệm
Hồn bỗng đi quanh
Một đời mãi kiếm?

Mấy độ vàng hoa
Em còn mắt liếc
Dấu chân đã qua
Em còn mắt biếc

     Lại ngắm và nhìn. Bức Khỏa Thân Xanh.Kín hở. Hở kín một vóc dáng thanh tân. Từ hai bên. Mầu tối và khung sáng. Để thấy chập chờn núi đồi. Để thấy mờ ảo lũng thấp . Để tưởng tượng từng phân vuông da thịt.Ánh sáng như rọi gần những tầm nhìn để thấy được nỗi niềm như trải dài xuống đôi vai từ mái tóc. Tôi cảm thấy. Một nỗi buồn dịu dàng như những gam màu trên vai nàng như một dấu tích của kỷ niệm vừa ghé bước qua. Làm thơ như một phút giây tìm kiếm

Khỏa Thân Xanh.

ẩn che. Che ẩn- Hình ai
ngắm tôi vệt sáng cũ ngoài mênh mang
em núi đồi, em lũng hoang
ngỡ tôi mầu nắng bàng hoàng xuống đây
mầu trăng còn đọng trên vai
tóc xuôi chảy tưởng mốt mai cũng gần...

 Tranh nhan đề.Trăng Cổ Tích.  Lại một ánh trăng. Hiện thực hay trừu tượng? Tôi không biết. Chỉ thấy  ánh sáng tràn xuống soi rọi những gam màu lung linh. Như sương. Như khói. Đừng thắc mắc không gian thời gian  ở chốn này ở góc kia. Chỉ thấy mịt mù một vầng trăng bán nguyệt. Sao trăng không tròn. Có phải cảm xúc chỉ đến với những điều không trọn vẹn. Như khổ đau nhiều khi làm đầy cho hạnh phúc. Hãy cho tôi lạc loài vào hư ảo ấy...Làm thơ cho một nhớ về những biển trời nào xưa cũ của biền biệt thời gian

Trăng Cổ Tích

Chia ta đủ một vầng trăng
Sắc mầu loang  một địa tầng đỏ tươi
Biển xanh có thoáng dáng trời
Hay hư vô giữa môi cười mênh mông
Đừng hỏi- giữa có và không
Cổ sử?  Cổ tích? Rêu rong chỗ ngồi.
Vẽ ta. Ta vẽ không nguôi...

      Có một bức tranh mầu tím của Nguyễn Đình Thuần. Có phải của tím đồi sim biền biệt Hữu Loan? Của nỗi niềm trải dài theo năm tháng? Của những vần thơ cứ thấp thoáng mãi trong hồn? Cũng có thể thoáng qua.
    Nhưng sao, ngắm nhìn bức tranh lúc này trong tôi lại văng vẳng một điệu nhạc. Ngàn Thu Áo Tím của Hoàng Trọng và Vĩnh Phúc. Những sắc màu của nhớ nhung. Của nỗi niềm kéo dài suốt một đời. Thơ lẫn vào nhạc. Tranh gợi dòng nhạc chảy. Mầu tím? Có phải của lúc :” từ khi xa anh em vẫn yêu và nhớ/mà sao anh đi đi mãi không về nữa/một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ/ khóc trong chiều gió mưa/ khóc thương hình bóng xưa/ngàn thu mưa rơi trên áo em mầu tím/ngàn thu đau thương vương áo em mầu tím/nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau/ tháng năm càng lướt mau/biết bao giờ thấy nhau”
    Ôi! Mầu tím không cùng trong tranh Nguyễn Đình Thuần, nhạc Hoàng Trọng, thơ Vĩnh Phúc.  

NGUYỄN MẠNH TRINH                                                                              
      


No comments:

Post a Comment