Saturday, April 30, 2011

GIỖ

Lưu Na


                               Tranh Trần Trung Tín

Trong tuần lễ cuối của tháng 4, con dân nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc được thấy một loạt án tù và bắt bớ dành cho các bloggers cùng các nhà hoạt động cho tôn giáo và nhân quyền.  Ngày 27 tháng 4, bão lốc miền Nam (Southern Tornadoes) nước Mỹ đồng loạt bùng dấy gây thương vong tàn phá ở mức báo động.  Bên cạnh những chuyện quốc gia đại sự là đôi việc biển dâu.  Ngày 24 tháng 4 bà Ngô đình Nhu, quyền Đệ Nhất Phu Nhân triều đại đầu tiên của 20 năm Việt Nam Cộng Hòa, người cuối của vương quyền cũ, qua đời.  Ngày 29 tháng 4 công nương Kate kết hôn với hoàng tữ William mở ra một trang tình sử mới và biểu tượng vương quyền mới.  Ngày giỗ Việt Nam Cộng Hòa năm nay đã được dẫn trước với những sự kiện nổi bật như vậy.  Và sáng dậy mở các trang mạng xem thì thấy giận ông Trên bàn viết hết sức.  Đêm nghĩ vẩn vơ, tìm được một chữ ưng ý sáng ra đã thấy ông dùng.  Với đứa vốn liếng chữ nghèo nàn sao mà không sùng.  Cũng không biết làm sao thay thế chữ khác, nó đã thành lịch sử: ngày này, năm ấy.

Cái ngày, mà dù chỉ là một người dân bé mọn vừa chớm lớn khôn không có gì để nhớ cũng không thể quên cái xao xác tan hoang của một cuộc đổi đời.  Một xã hội, một quốc gia, thôi thế là sụp đổ.  Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia đó là nơi mình sinh ra và lớn lên, không thể nào nghĩ khác.  Tuổi đời thêm nặng, lý trí nói mình cùng máu đỏ đầu đen cùng ngôn ngữ, huyết thống nói ông anh bộ đội và bà chị bí thư huyện là anh chị em của mình.  Nhưng tim mình nó bảo mình là cái nước Việt Nam Cộng Hòa của mình đã bị Cộng Sản Bắc Việt xâm lược, giống như bị Trung Hoa, bị Pháp xâm lược.  Chết, tức tưởi, không nghĩ khác được.  Và thêm nặng tuổi đời mình càng khóc nhiều hơn cái ngày giỗ ấy. 

Sao mình khóc hoài cho một biến động đã qua? 

Mình nhớ đến đám tang của Ba năm 97, cô và các con từ ngoài Bắc, cùng các anh chị của mình vào để tang.  Trước quan tài, cô xõa tóc, mái tóc vẫn dài và vẫn cuốn trong cái khăn đen quấn thành 1 vòng rưỡi trên đầu.  Cô ngồi xuống chiếu với mái tóc xõa áo bà ba trắng quần đen, và bắt đầu khóc những lời thương tiếc.  Nhà kèn trỗi lên, mình loay hoay ghi lại hình ảnh, một dấu ấn của một thời đã qua mà mình mới thấy lần đầu.  Năm tháng trôi qua mình hối tiếc đã không chú ý nghe những lời khóc ấy.  Nhưng nắp quan tài đã đóng, người chết và người sống dù không đành đoạn cũng không còn chi để vấn vương.  Mình đã thôi khóc Ba, vì dù thương tiếc nhớ nhưng Ba đã đến đúng lúc đúng chỗ đã dành sẵn cho Ba.  Riêng còn những người vợ không thể đóng nắp quan tài trống, còn những người mẹ không thể thôi chờ con mất tích trên biển, còn những đứa con không thể thôi thắc mắc về người cha chưa biết mặt.  Người chờ người đi, đã như nhang tàn.  Họ không thể thôi khóc.  Và những người lính mãi tìm về đơn vị.  Người bỏ người thôi, khác chi nợ nần.  Những chuyện bể dâu đổi bao thân phận bao cuộc đời, có bao giờ chúng ta giải thích được với nhau?  Vết thương lòng, có bao giờ khép được không, những ngày này năm ấy?  Trương Vấn, hóa ra anh cũng như một người lính đã chết, đang trốn phép lại tìm về đơn vị để được đứng bên anh em của mình.  Những nhân chứng sống kéo dài sự chết của chính họ.  Sao không khóc được.

Những lời chứng thuyền nhân, những hình ảnh kỷ niệm, những bài viết ngậm ngùi…  ngày giỗ năm nay càng thêm lớn với 3 chương trình lễ tưởng niệm nơi tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, đêm thắp nến, hội thảo, chiếu phim, và hàng loạt những chương trình truyền thanh truyền hình, băng đĩa kỷ niệm.  “Ngày này năm ấy” được người Việt lưu vong nhắc đến tựa như dân Mỹ đóng lại vở kịch nội chiến 1876 hàng năm.  Khác chăng, trang sử của chúng ta chưa thể khép lại. 

04/30/2011
LN
Câu Trả Lời
Blowing In The Wind

Ian Bùi


Lời mở: Hôm 10 tháng Tư vừa qua, nhân sự kiện Bob Dylan đến trình diễn ở VN mà không được hát  Times They Are A Changin’Blowin’ In The Wind, Nguyễn đã viết bài tản mạn Cuốn Bay Theo Gió, dịch ca từ của  người nhạc sĩ huyền thoại
Này bạn hỡi,
có bao nhiêu con đường một người phải đi
trước khi bạn gọi người ấy là người
vâng. và có bao nhiêu biển khơi để con bồ câu trắng vượt qua
trước khi nó nằm ngủ mơ trong cát
vâng. và có bao nhiêu đạn pháo bay ra khỏi nòng
trước khi những khẩu súng bị cấm tuyệt
câu trả lời. bạn ơi. để cuốn bay theo gió
câu trả lời. để cho gió cuốn bay đi
phải bao nhiêu năm…
Một hai hôm sau, Ian Bùi ghé chơi, bảo “Nghĩa đã đọc bài của chú” và Nghĩa (Ian Bùi) cảm thấy hứng khởi muốn viết ngay một bài (Ian Bùi rất yêu thích Bob Dylan).  Sau đây là ca khúc Ian Bùi viết từ Ý nhạc Bob Dylan, ‘Blowin’ In The Wind’.

Câu Trả Lời
Blowing In The Wind

Ian Bùi

Bao nhiêu xương trắng đã phơi trên ruộng đồng? Ôi,bao nhiêu máu đã thành sông?
Bao nhiêu tiếng súng đã vang trên hố hầm? Bao nhiêu người chết trong âm thầm?
Bao nhiêu gươm dáo đã ghi sâu trong lòng? Bao nhiêu tiếng thét của đạn bom?
Xin gió hãyđi, đi mãi đến cuối chân trời
Để gió cuốn theo câu trả lời

Bao nhiêunước mắt đã khô trong đêm dài? Bao nhiêu oan khốc chưa hề phai?
Bao nhiêu năm thángđã trôi đi không còn? Bao nhiêu bàn chân đã mòn?
Bao nhiêuhưng phếđãđưanhau lênđường? Bao nhiêu thân xácchôn đại dương?
Xin gió hãyđi, đi mãi đến cuối chân trời
Nhờ gió cuốn theo câu trả lời

Bao nhiêu Xuân nữa mới thấy ta được làm người, trong khi thế giới đã đổi thay?
Bao nhiêu Thu nữa nước sẽ quay về nguồn, cho ta làm những cánh buồm?
Bao nhiêu nhân chứng sẽ đến thămchốn lao tù,bao đêm mơ giấc mơ tự do?
Xin gió hãy đi, đi mãi đến cuối chân trời
Ngàn gió cuốn bay câu trả lời...

-ianbui
Easter Sunday, 2011’04’24

Mời vào Link sau đây để nghe cả nhạc và lời trên Youtube:
<http://www.youtube.com/watch?v=AM5wYOmnP7g>

Friday, April 29, 2011

Nhiều người viết

Bùi Chát,
những tiếng vọng giữa đất và trời



Tiểu sử Bùi Chát
   Bùi Chát, nhà thơ và cũng là người sáng lập nhà xuất bản Giấy Vụn ở Việt Nam vừa được công bố trúng giải “Quyền Tự Do Xuất Bản” (Freedom to Publish Prize) của hiệp hội nhà xuất bản quốc tế IPA (International Publishers Association) có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.
   Bùi Chát tên thật là Bùi Quang Viễn, sinh năm 1979 tại Biên Hòa và cư ngụ tại Sài Gòn. Là một thành viên của nhóm Mở Miệng, năm 2004 anh và nhà thơ Lý Đợi bị bắt giam hai ngày về tội phát tờ rơi tại một buổi đọc thơ bị công an bắt giải tán.
Với danh hiệu “nhà xuất bản Giấy Vụn” và in bằng photocopy, Bùi Chát và các nhà thơ “lề trái” in nhiều tác phẩm bị cấm. Ông Bjorn Smith-Simonsen, chủ tịch Ủy ban Quyền Tự Do Xuất Bản của IPA nói: “Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, nhà xuất bản Giấy Vụn đã khơi mào một phong trào mới của các nhà tư tưởng, nhà văn, nghệ sĩ tự do, những người nhất định không chịu tuân theo qui tắc sáng tác của chính quyền.”
(theo Diễn Đàn Thế Kỷ)

Diễn văn của Bùi Chát đọc trong dịp  nhận Giải thưởng Tự Do Xuất Bản tại sảnh đường Jorge Luis Borges ở Buenos Aires chiều ngày 25.04.2011.

Tôi thật sự vui mừng khi có mặt nơi đây như một nhân chứng về những nỗ lực không mệt mỏi của những nhà hoạt động cho tự do ở Việt Nam.
Kính thưa quí vị!
Ở một nơi mà tự do chỉ có thể tồn tại trong những hành vi tùy tiện của chính quyền thì những cố gắng cho sự hiện diện của công lí và tình người dường như là vô nghĩa, và để hành động cho những điều tưởng như viển vông này chúng tôi đã chọn xuất bản.
Cũng như những anh em đang bị tù đày, quản thúc và tất cả những người đang đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp ở Việt Nam, chúng tôi luôn tin tưởng vào lương tri. Thông qua việc xuất bản một cách tự do những điều cần thiết, chúng tôi biết rằng nhiều độc giả của chúng tôi sẽ tìm thấy lại lương tri của mình.
Sách có thể biến thế giới thành tự do, chính vì thế chúng tôi tin rằng tự do sẽ đến, trước hết với những người làm sách, những người đọc sách, và những người bàn luận về những điều mà sách mang lại.
Bằng tất cả tình yêu dành cho sách và dành cho con người, tôi xin đón nhận và san sẻ niềm vinh dự này cho tất cả độc giả, đồng nghiệp, bạn bè, và những người ủng hộ.
Hy vọng giải thưởng sẽ là cú hích đáng kể cho sự phát triển của phong trào xuất bản độc lập, đặc biệt là sự phát triển của xã hội dân sự, tại Việt Nam.
Cảm ơn tất cả mọi người.
Bùi Chát

Thơ Bùi Chát
(Trích đoạn)

                          Poetry - Stthomasjazzclub.com

Chẳng còn nhiều người thức đợi ngày mai. Ai đó thi thoảng thắp lên ngọn đèn. Để xua đuổi tai ương. Đáp lại những câu thơ dài tuyệt vọng. Em đã đến cạnh tôi nguyện ước. Vòm đêm không chút dấu hiệu thay đổi. Ngồi một mình. Em nói như mưa. Chúng ta bay đến lúc hết hơi. Thì tại sao chúng ta không lên giường. Để đào những cái mương. Giữ mãi lời thề xưa. Một hôm nào đó thức dậy, em đã bay đi theo Gióng, chẳng ngại ngần. Tôi chiêm bao thấy đứa con sắp lọt lòng của tôi nhắn nhủ. Tổ quốc ta như một con mèo. Tiếng chào đời con gọi meo meo. Này các đồng nghiệp, những người bạn hữu, chúng ta vẫn là những nhà sản xuất? sao không bày bán sản phẩm của mình!!!.

Anh chị em hãy nhớ
Chúng ta có mặt nơi đây không phải để khóc
Không phải để cân nhắc
Im lặng
Rồi quay đầu
Chúng ta ở đây để sống
Để thể hiện bổn tánh chúng ta
Đâu nhất thiết phải quan tâm
Nhắc nhở lời đe dọa
Bởi, với chúng ta
Sợ hãi – không bao giờ là mục đích

Nhắm chặt mắt
Hãy bước
Trên lãnh địa này
Sự sống, giữa cái chết
Mọi vật tồn tại
Là nỗi sợ
Bước thấy sự thật
Để biết mình có đôi chân
Thôi
Đi
(Nguồn: Vũ Đông Hà - DĐTK)




TẢN mẠn bên tách cà phê

Nội chiến Hoa Kỳ,
nghĩa trang Arlington &
tác phẩm ‘Cuốn Theo Chiều Gió’

Nguyễn Xuân Thiệp


  
Những trận gió lớn vẫn đi qua địa cầu…
   Xin nhắc lại câu thơ đã viết ngày nào và cùng nhau sống lại những ngày tháng đầy biến động trong lịch sử và trên những trang sách.
   Vậy chúng ta hãy bắt đầu: Trong tuần lễ từ 12 tháng Tư vừa qua, nước Mỹ đã diễn lại những tiết mục kỷ niệm ngày nội chiến bùng nổ 150 năm trước đây. Trong không khí tưởng niệm ấy, người ta đi thăm lại Nghĩa Trang Arlington, nơi yên  nghỉ của các danh nhân và anh hùng nước Mỹ, và cũng là nơi chôn cất thi hài của những tử sĩ trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.  Dưới mộ này là hồn Bắc / dưới mộ này là hôn Nam / mây bay / mây  vẫn bay / trên đồi Arlington Cũng vào dịp này cuốn sách và cuốn phim "Gone with The Wind" (Cuốn Theo Chiều Gió) với bối cảnh là cuộc nội chiến đã được những người ái mộ, những "Windies", nhắc nhở và cùng nhau ôn lại, nhất là tại Atlanta và vùng phụ cận, nơi có viện bảo tàng Gone With the Wind.

   Câu chuyện được gợi lại như sau: 
   Tờ mờ sáng ngày 12/4 khoảng 20 quân nhân của Liên quân (Bắc Quân) giương cao ngọn cờ 33 sao trên chiến lũy Fort Sumter ở Charleston Harbor của tiểu bang South Carolina. Chẳng bao lâu, một phát súng lệnh từ một chiến lũy gần đó và đại bác bắt đầu thi nhau nổ dòn, giống hệt như những gì đã xảy ra đúng 150 năm về trước, khi Civil War khởi sự.
   Theo tài liệu của Nguyễn Minh Nữu được ghi lại trong bài “Nhớ Về Bài Hát Trên Đồi Arlington”, nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu năm 1861 khi Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền nam Hoa Kỳ phản đối chính sách cởi mở này và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công nhận chính phủ Liên minh miền Nam này. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền nam chống lại lực lượng Liên bang miền Bắc.
   Cuộc phân tranh Nam-Bắc kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865.với con số tổn thất của cả hai miền Nam Bắc là 970.000 người. Trong đó trận chiến lớn nhất xẩy ra ngày 01 tháng 7 năm 1863 ở Gettysburg nằm ở tiểu bang Maryland, trong ba ngày chiến đấu, quân hai bên đã thiệt mạng lên tới gần 50.000 chiến binh.
   Chỉ huy quân Miền Nam là Tướng  Robert E. Lee ra đầu hàng tại Richmond , thủ phủ tiểu bang Virginia, và được quân sử Hoa Kỳ ca ngợi như một nhân vật anh hùng .Ngày nay, ở bất cứ thành phố nào của Hoa Kỳ, cũng có ít nhất một con đường chính mang tên vị tướng này. Sử sách còn ghi, sau khi quân đội miền nam thất trận, tướng Lee nói với các hàng binh dưới quyền ông rằng: "Hãy từ bỏ lòng hận thù và để thế hệ con cháu của quí vị nhớ rằng họ đều là đồng bào, là công dân của nước Mỹ."
   Và trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón.
    Tàn chinh chiến, tất cả những người lính Miền Nam bại trận đều được tự do về nhà cùng với những con ngựa của mình. Trong khi đó, hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee High Way, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng.



   Và dưới bóng nghĩa trang Arlington bên dòng Potomac, vần có khu mộ dành riêng cho các chiến sĩ Miền Nam tử trận. Nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang đã có dịp viếng thăm nghĩa trang này và viết khúc ca tưởng niệm trong đó có những câu bi thống:

Này bạn, mang găng trắng,
bồng súng gác trên đồi Arlington
Chiều nay trời sẽ mưa hay sương gió lạnh lùng
có còn vững đôi chân?

Chào tay, nhìn thẳng nhé!
Đập gót cho oai hùng!
Hồn dưới kia hả dạ, xác thân này đã chết
Cho một đất nước chung

Này bạn, cùng chiến đấu,
cùng gục ngã viên đạn ngược đường bay
Về đây, cùng tới đây, chia nhau nghĩa trang này
không lời hờn oán đắng cay

Bắc Nam cùng mạch sống!
Thắng thua đều anh hùng!
Bốn mùa hoa nở rộ, dưới mộ đài hùng tráng
chung dòng “Tổ Quốc Ghi Công”

   Các bạn ơi, bây giờ xin một phút cùng nhìn lại khi cuộc nội chiến lụi tàn trên đất nước Việt Nam. Nào, chúng ta thấy gì? Một cuộc trả thù hạ nhục nhau. Người lính miền Nam bại trận bị bắn giết, giam tù khổ sai trong nhiều năm, cửa nhà bị tước đoạt, vợ con bị hành hạ, đày đi kinh tế mới… Rồi vượt biên, chết trên rừng dưới biển. Trong khi đó, mồ mả của chiến sĩ Miền Nam bị san bằng hoặc dời đi. Nghĩa Trang Tử Sĩ Biên Hòa  bị mất tên và chìm trong hoang phế. Thử hỏi nhà viết sử có run tay không khi chép những trang máu lệ này.

    
   Trở về với cuộc nội chiến Hoa Kỳ, 75 năm sau khi nó chấm dứt, nhà văn miền nam Margaret Mitchell cho ra đời cuốn "Gone with the Wind" (Cuốn Theo Chiều Gió). Đây là một tiểu thuyết lồng trong bối cảnh trước và sau cuộc nội chiến với mối tình ảo tưởng và vô vọng của nhân vật chính Scarlett O'Hara, một cô gái diễm lệ, con nhà trưởng giả miền nam. Trước khi chiến tranh bùng nổ, cô đem lòng yêu  một người đàn ông đã có vợ. Chiến tranh bùng nổ, Scarlett O’Hara trải qua những năm đầy sóng gió, cuộc hôn nhân của cô với người chồng Rhett Butler đổ vỡ, khi cô chợt nhận thức được thực tế là cô yêu chồng, vào lúc mà Rhett Butler không còn kiên nhẫn để chịu đựng cuộc hôn nhân trong đó người vợ ôm mãi ảo tưởng về một người đàn ông khác. Cuốn tiểu thuyết của Margaret Mitchell ra đời năm 1936 và tức khắc chinh phục được độc giả không những tại nước Mỹ mà còn khắp thế giới. Gone with the Wind còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được dựng thành phim. Cuốn phim được chiếu ra mắt ngay tại thành phố Atlanta -  Georgia, quê hương của Margaret Mitchell và cũng là thành phố lớn của miền nam từng bị thiêu rụi trong cuộc nội chiến.


   Nhà văn Nguyễn Thị Thảo An đã kể lại trận lửa thiêu cháy Atlanta kéo dài hơn một tuần lễ, đồng thời ca ngợi tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell: “Nhưng Atlanta không phải chỉ nổi tiếng vì trận lửa được ghi trong lịch sử. Mà nó mê hoặc người ta bằng một trận lửa khác. Một trận lửa cháy trên giấy mà mãi mãi sẽ không bao giờ tắt. Ngọn lửa trong cuốn tiểu thuyết “Cuốn Theo Chiều Gió”. Nữ văn hào Margaret Mitchell, một cư dân Atlanta đã viết lại toàn bộ cuộc chiến trong tác phẩm của mình theo cách nhìn của một người miền Nam. Tác phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió” lập tức trở thành một best-seller, đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hàng trăm thứ tiếng. Ba năm sau,1939, tác phẩm được dựng thành phim. Bộ phim "Cuốn Theo Chiều Gió” do đạo diễn Victor Fleming và với  các diễn viên lừng danh Clark Gable, Vivien Leigh, đã đoạt 10 giải Academy Awards và đứng trong 100 bộ phim danh tiếng nhất thế giới.
  “Người ta yêu thích "Cuốn Theo Chiều Gió” không những vì tính cách sống thực của cuộc chiến trong tác phẩm mà còn vì ý chí quật cường, sức làm việc bền bỉ và cái nỗ lực đầy hy vọng của nhân vật nữ Scarlett O'Hara xây dựng lại tất cả sau chiến tranh. Đây cũng là đặc tính của người Mỹ. Họ dành thời giờ và công sức cho việc xây dựng hơn là cứ nhìn đăm đăm vào quá khứ. Kết thúc tác phẩm, Margarett Mitchell đã để toàn bộ cuộc chiến cuốn theo chiều gió, và mở ra cho độc giả một niềm hy vọng không bao giờ tắt. "Tomorrow is another day." Điều này luôn luôn đúng. Những gì của ngày hôm nay sẽ là quá khứ. Ngày mai là một ngày mới. Cuộc sống vẫn luôn là những cơ hội đang chờ đón người ta ở phía trước.”
   Vâng, quá khứ đau khổ của dân tộc và mỗi người chúng ta đã qua, hãy ngẩng cao đầu nhìn về phía trước để còn nuôi hy vọng.

NXT
Giàn hoa giấy đỏ

Đỗ Kh.



Căn nhà của ông bà ngoại tôi ở Sàigòn có trước cổng một giàn hoa giấy.

Đó là vào đầu thập niên 60 và quận 3 chưa ầm ì mù khói, người ra đường chưa đeo khẩu trang và bà hàng xóm của ông bà tôi có một bộ tem sưu tập.

Những ngày tôi đến thăm ông bà ngoại, bà Tư hàng xóm hay mang bộ tem sưu tập của bà sang cho tôi xem. Tôi không đủ đức tẩn mẩn để chơi tem vào lúc lên 7 lên 8, nhưng tôi thích làm hoàng tử vì thấy một cậu Bảo Long lên 15 hay 16 tuổi mặc áo gấm và đứng chống kiếm. Chuyện xem tem sưu tập này, là ở hàng hiên, dưới bóng mát lốm đốm của giàn hoa đã nói.

Căn nhà dạo ấy còn có một người anh họ tôi lên Sàigòn học. Anh ở với ông bà tôi nhưng con tim thì nằm cuối ngõ, nơi có một cô mang tên đầm là Monique ra vào jupe serrée (bó) bằng xe máy Bích Bà (đây không phải là xe Trung quốc mà phiên âm bình dân của hiệu Vespa).

Có bận anh rủ tôi sang nhà cô ta tập múa vòng Hula-Hoop.

Thường thì anh ngồi dưới giàn hoa giấy ở trước nhà mà uống nước chanh đá.

Anh chỉ cho tôi cách nắm một tay lại. Không nắm chặt hẳn, chừa một chỗ hở ở giữa. Hái một cái lá hoa giấy mong manh đặt lên chỗ hở của bàn tay nắm lại. Dùng tay kia để mở và vỗ lên thật mạnh. Cái lá bị ép hơi và không có lối thoát, nổ đánh bốp. Trò này, tất không vui bằng lắc mông Hula.
(Nguồn: Tiền Vệ)

Đỗ Kh.


Bài viÉt cỦa tháng tư

Nguyễn Xuân Thiệp


                       Rock & Turbulence - PamJohnsonstudio.com
  
   Ban Mai viết trên Da Màu ngày nọ: “Đọc Hợp Lưu 82, những bài Ký về cuộc di tản tháng 4 năm 75 nhìn từ miền Nam, tôi tình cờ gặp gỡ những người bạn cùng thế hệ với mình trên trang báo. Những cậu bé, cô bé tuổi 11, 12 trong sáng, thơ ngây chưa nhuốm bụi trần. Ngày xưa bạn cũng giống như tôi. Chúng ta cùng sống trong một thể chế, một nền giáo dục, cùng đọc chung những cuốn sách như nhau, cùng chơi chung những trò chơi như nhau. Năm tháng tuổi thơ là những ký ức đầu đời mà chắn chắc mãi in sâu trong cuộc đời của mỗi con người. Ba mươi năm sau, người đi, kẻ ở, đã có điều gì khác biệt trong tâm hồn chúng ta. Những con người cùng thế hệ.”
   Và Ban Mai nói tới những đau đớn, mất mát, đổ vỡ của bản thân và những người đồng thời với mình. Cô nhắc tới Linda Lê, Đinh Linh, Thơ Thơ, Cổ Ngư, Thận Nhiên… Cô nói và chúng ta có thể thông cảm được: “Bạn tự do viết lên nỗi lòng bạn, giãi bày bản ngã của bạn mà không sợ ai cấm đoán, đó là một hạnh phúc vô giá mà bạn đã phải trả giá mới có được, ấy chính là điều mà những người ở lại như tôi mơ ước mà không thể có ngay cả ngày hôm nay.
   “Đất nước ơi! Khi nào tôi mới được hưởng niềm vui tự do nói lên những điều mình suy nghĩ mà không sợ bị ảnh hưởng hệ tư tưởng này, hệ tư tưởng kia.”
   Thế giới ngày nay có thể xem như một mái nhà. Và Ban Mai khẳng định: “Con người nước nào cũng vậy, sống nơi đâu cũng vậy, cũng có bao nhiêu sắc thái tình cảm như nhau, cũng có bao nhiêu nỗi khổ của kiếp người như nhau. Vì vậy, chúng ta viết trên tinh thần xuyên lục địa, ý thức là một con người của nhân loại chứ không phải bó hẹp vì một màu da, một đất nước.”
   Tuy vậy, Ban Mai vẫn mơ ước một ngày không xa cô và bạn bè, ở bên này hay bên kia biển rộng, đều hướng về một Tổ Quốc chung, tự do và nhân ái, do chính mình xây dựng.
   Cảm thông với những tình cảm và suy nghĩ của Ban Man, đồng thời kỳ vọng ở những người bạn trẻ đã được nhắc đến, hôm nay Nguyễn viết nên bài thơ gởi cho gió cuốn bay đi.

                        Pinetree - culturatti.com

Nói với những cây xanh

Đứng cô đơn trên một ngọn đồi
lá úa. và cành đã khô
mây bay qua. như những linh hồn giã biệt
mặt trời chiều. đổ bóng
tôi
nhìn xuống. chân đồi
những hàng cây xanh. lộng gió
cất tiếng ca
về những mộng đời
nở hoa
hay đang kết trái
hoặc đổ vỡ
đớn đau
bùn. và máu. dưới chân
các bạn ơi
cũng có thể là. cỏ xanh
hơi ấm nồng nàn
của đất màu
và cả những nhánh xương khô
dòng sông ôm quanh các bạn
và gió. mãi mãi. mang đền những đổi thay
những sắc màu
u tối
hay rực rỡ
và những mùi hương. của rơm rạ. bưởi bồng. mồ hôi người. hay phân. nước tiểu
có khi là mùi xôi nếp chin
và rồi sớm mai
sớm mai. mưa về. hay nắng hoa ngâu
tôi muốn đưa tay
vẫy chào các bạn
ôi. tôi còn nụ cười
muốn trao. gửi
hỡi thận nhiên
hỡi ban mai
và cổ ngư
thơ thơ
đinh linh
bùi chát
lý đợi
và linda lê
và. vân vân
a. ngày đang lên
những mặt trời. đỏ. hồn của đá
hay mặt trăng
những vì sao. trên đồng
tiếng bò. và lợn
kêu
còn tôi
dưới chân. rễ bắt đầu mục
lá rụng. màu vàng óng. phủ xuống mỗi ngày
nhưng không hề tuyệt vọng
tôi xin chào các bạn
những thân. cành. vững chãi
chúc các bạn
tiếp tục lên đường
có thể là nước mắt
có thể là hương rơi
của mùa đang tới
điều quan trọng. phải không các bạn
là sống
với cả vui. buồn
đớn đau. phẫn nộ
và sáng tạo. mãi mãi sáng tạo
như thời tiết. như chim
như mùa màng
của trời. và mặt đất
xin cho tôi
một trái thông rụng xuống
bên triền dốc xưa
làm ngọn lửa nhỏ

Tháng Tư 2011
NXT 




Nhà thơ Nguyễn Hàn Chung
và bản thảo “Nghịch Lưu Của Tuổi”

Hai Trầu chuyện trò với tác giả



HT:
Mến chào nhà thơ Nguyễn Hàn Chung,
Như bìa sau thi phẩm "Nghịch Lưu Của Tuổi", có ghi :
"Nguyễn Hàn Chung
Sinh quán  Điện Bàn –Quảng Nam

Tác phẩm đã xuất bản :
Tìm tôi trong bóng (thơ) 1999
Nói hộ phù du  (thơ ) 2002
Nghịch lưu của tuổi (thơ) 2011"

Anh bắt đầu mê thơ từ lúc nào? và anh có thể kể cho nghe về hai thi phẩm "Tìm Tôi Trong Bóng" (1999) và "Nói Hộ Phù Du" (2002), nội dung cùng sự ra đời của nó, thưa anh?
 
NHC:
   Rất cám ơn sự quan hoài của anh Hai Trầu khi đọc “Nghịch lưu của tuổi”. Nguyễn Hàn Chung đến với cõi thơ từ khoảng đệ thất, đệ lục ( khoảng đầu thập niên sáu mươi) lúc bắt đầu trổ mòi ''Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư'' .Bắt chước các bậc đàn anh xứ Quảng  như Hoàng Thị Bích Ni , Đynh Trầm Ca, Nguyễn Nho Sa Mạc,Nguyễn Nho Nhượn, NHC cũng vần vè đôi bài cỡ như "Thuở nhỏ ôm một cây hùng khí-Bây giờ nghĩ lại thấy ương ương-Đời loạn mà không mần tráng sĩ- Cũng chả xài đến gã văn chương -Thì thôi vỗ bung mà ca hát ...Say khước nằm lăn...'' Thế thôi , ca vung hào sảng cho vui có nghĩ cái nghiệp thơ nó ám  miết âm hồn bất tán vào mình cả đời đâu. Thôi kệ rứa mà vui mà có bạn bầu tứ xứ.
   Tập thơ đầu tay “Tìm tôi trong bóng” (1999)  tập hợp những bài thơ viết sau 1975 chât chứa nhiều trăn trở tìm sâu bản lai chân diện mục của mình với những nghịch âm,nghịch cảm trong cuộc Đánh cờ một mình.Tập thơ thứ hai ‘’Nói hộ phù du’’ (2002)  lại mở ra một hướng khác: Nói hộ cho những nỗi đời bà mẹ núi,ông lão bị lũ con cướp đất,người phu xe thổ mộ ngơ ngác giữa phố,anh kép diễn hài trong lúc cha đang hấp hối …Nói chung nói về thơ mình thì hơi khó .Anh có thể đọc bài viết sau đây của Liêu Thái(*)
(*)(NHC có gởi kèm bài”Nói hộ phù du-Cảm thức tro bụi và ý thức bền bĩ về tính hữu hạn tồi sinh” của Liêu Thái, trên trang …, ngày ….)

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Theo giới thiệu của anh về bài viết " Nói hộ phù du – Cảm thức tro bụi và ý thức bền bĩ về tính hữu hạn tồn sinh" của Liêu Thái, tôi thấy tác giả lưu ý đến khía cạnh cách tân trong thơ anh, nguyên văn: "Dường như đến đây, ý thức cách tân về hình thức lẫn nội dung trong thơ Nguyễn Hàn Chung đã bắt đầu hé lộ – một sự hé lộ hàm ẩn nhiều hệ lụy cho kẻ trót đa mang với con chữ, dự báo một nỗi cô đơn rình rập…"    tác giả kết: "Anh đã để lại cho bạn đọc quê nhà một hình ảnh đẹp về người nghệ sĩ – nhà giáo tóc muối tiêu có đôi mắt sâu thẳm, ánh nhìn tinh nghịch và nhân hậu luôn quắt quay thoát khỏi những ràng buộc của sáo mòn để tìm đến không gian mới của sáng tạo. “
   Điều đó có thật vậy không? Và nếu có, anh có thể chia sẻ một chút về việc "cách tân" trong thơ anh ?

NHC:
   Có thật không hả anh Hai?  Thì nó cũng hàm hỗn như thơ vậy, thật mà hư ,hư mà thật,cũng chả có cách tân cách cổ gì ghê gớm đâu chỉ là đổi mới tư thế làm...thơ cho nó sướng lên thôi chứ  cứ bưởi bòng rạ rơm vần vần vè vè đàng điệu  nó có vẻ giả giả thế nào ấy. Chính bản thân người viết đã chán ngấy thơ mình huống hồ ...Cũng phải nói thêm điều này một chút. Cách đây chừng hơn hai mươi năm lúc NHC còn chưa bỏ xứ viết cái gì cũng sợ bị quy chụp như cái đận bài thơ Đánh cờ một mình bị truy tung đến điêu đứng nên sau này phải ẩn điều muốn hiển lộ dười tầng tầng bóng chữ kiểu ai hiểu chết liền nếu có kêu lên gọi xuống hạch hỏi còn có cái để đốp chát: Bây giờ các cây bút hậu hiện đại cách tân đên mút chỉ  làm NHC cảm thấy thơ mình còn quê một cục chẳng qua Liêu Thái dùng lối nói  khoa trương  cho NHC uống đường ăn mật đó thôi...

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Không có lửa làm sao có khói, phải không anh ? Và có "cách tân" hay không ở thơ anh như Liêu Thái nhận định chắc người đọc cũng đã thấy rồi, nhưng có điều này, anh còn nhớ những bài thơ cũ một thời của anh không? Hy vọng anh cho bạn đọc nghe lại chút hương xưa một thời qua những vần thơ cũ ấy, anh Nguyễn Hàn Chung ? .

NHC:
Kính anh Hai Trầu!
   Vâng ,thưa anh. Có bạn văn khi đọc Nghịch lưu của tuổi có comment với tác giả là trong tập thơ hầu như không có thơ tình. Quả vậy NHC cũng không biết tại làm sao mình  không thể ...Thôi thì nhân anh nhắc, NHC chép lại một  vài đoạn  thơ tình tang tình gửi tặng anh cùng bạn đọc gọi là bổ sung vào phần khiếm khuyết :
             
''Nhà vắng lục tìm sách cũ
Lạc vào một cõi em xưa
Những lá thư vàng ố chữ
Lời yêu khi tỏ khi mờ...

Cổng trường Văn khoa quá chật
Anh đi kiếm lá mỏi mòn
Mối tình đầu như đốm lửa
Mỗi khi lòng không củi nhen...

Và nhớ những ngày mưa Huế
Thu lu quán xếp bên trường
Sóng sóng trăm tà áo trắng
Anh vẫn nhìn ra mắt em...'''

Tiếng vợ nựng con bên cửa
Anh biết giấu em vào đâu
Nào bướm nào hoa nào tóc
Anh còn nâng níu trên tay...
(Ký ức đầu)

"Nửa đi là mất nữa rồi
Nửa vể, câm, một nửa vùi trong đau
Nửa trời cho dễ nữa đâu
Nửa rưng rức sóng chân cầu nửa em

Nửa chiều nửa sáng nửa đêm
Nửa xanh biếc rụng nửa mềm môi khô
Anh còn có nửa chi mô
Nửa em giàn giụa tan bờ nửa anh
(Nửa)

''Biết rồi sẽ chuốc đa đoan
Mà không ngăn nổi quáng quàng đường say
Lâu rồi cứ tưởng ,ô hay
Trái tim ta cũng bàn tay ai cầm
Mây bời bời cỏ rối câm
Thời gian vò sợi tóc xanh trắng mù
Hôn liều lên chúm chím thu
Bờ môi như sóng nhiễm từ xa xăm

Giá trời bỏ quách tháng năm
Tôi hao khuyết hết trăng rằm cho em
(Tuổi tình )
   Những đoạn trích trên từ hai tập thơ ''Tìm tôi trong bóng'' và ''Nói hộ phù du ". Anh thấy có ''mềm ''hơn thơ trong NLCT không anh?

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Giờ xin bắt đầu với "Nghịch Lưu Của Tuổi" của anh . Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 1, trang 172 :  "Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đóng ở thành ngày nay (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đấp thành nhỏ thôi, có người thầy xem đất bảo rằng: Sức ông không đấp nổi thành lớn, độ năm mươi năm nữa về sau tất có người họ Cao đến đây  đóng đô dựng phủ ..."(*) Như vậy "nước chảy ngược", theo anh có phải là "nghịch lưu" không? Và sao anh lại chọn bốn chữ  "Nghịch Lưu Của Tuổi" làm cái tựa cho thi phẩm  lần này, thưa anh ?

NHC:
   Lương tiên sinh quả thật là đại hành gia trong lĩnh vực truy nguyên nhưng NHC không thể trả lời câu hỏi nầy của anh Hai được đâu.Trúng thì không sao chứ sai thì chết bỏ xừ. Có điều khi chọn bốn chữ Nghịch lưu của tuổi làm tiêu đề cho tập thơ NHC cũng có chút hàm ý. Thông thường theo hành trạng xuất xử của người xưa ''Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi-Hương âm vô cải mấn mao tồi -Tạm dịch : Lúc trẻ bỏ xứ ra đi lúc già mới trở về -Tóc râu đều bac cả  mà giọng quê không đổi (Hạ Tri Chương). NHC đi ngược với cái trình tự kinh điển ấy. Gần sáu mươi năm quẩn quanh đi học rồi làm nghề gõ đầu trẻ ở một xó xỉnh quê nhà Quảng Nam - Đà Nẵng bây giờ già khèn trí cùn lực đoản ''bách niên đa bệnh độc đăng đài'' còn bán mạng ly gia hành cu li đất khách  phải quên cái hương âm uốn môi, uốn lợi học tiếng nước người nên liều mạng đặt tên tập thơ để đánh dấu một chặng cuối đường lưu lạc. Thế thôi chẳng có ý tứ mới lạ gì đâu anh ạ!

HT:
Anh Nguyền Hàn Chung,
   Cảm ơn anh. Vừa rồi anh có nhắc "hành cu li", tôi tò mò tìm trong tập bản thảo
bài "hành cu li ca”nơi trang 10, làm tại Louisiana với tứ thơ mang nhiều chua xót, đắng cay; mỗi chặng dừng chân của Nguyễn Hàn Chung là mỗi vết cắt dù qua lâu rồi nhưng vẫn còn ê ẩm, khó lành. Nhưng câu cuối "Mây nước trùng trùng  thề không trắng tay…", lại là dấu hiệu của một quyết chí. Có phải Louisiana lại là một bến bờ nào nữa mà anh đã dừng lại trên dòng đời lưu lạc này ? Và nay, anh có thêm được gì trong tay sau bao năm mải miết trong dòng đời này hay chỉ mới là"Nghịch Lưu Của Tuổi" không thôi, thưa anh?

NHC:
Anh Hai ơi!
Phải nói Ông Hai Trầu và gã ‘’trai già Quảng Nam’’nầy có mối ‘’đồng thị thiên nhai ‘’  sao đó nên trong cả tập hơn bảy chục bài mà anh lại tò mò đọc hơi bị kỹ bài hành cu li ca lại đặc biệt chú ý tới câu cuối cùng ‘’Mây nước trùng trùng thề không trắng tay’’ tiếp theo là địa danh  Louisiana không ngày tháng. Con mắt  ‘’thấu thị xuyên tầng’’ của anh Hai chiếu như muốn thấu tâm can tỳ phế  tác giả.Thật ra không có thề thốt gì lắm đâu anh. Anh biết bài hành cu li ca  NHC sáng tác trong hoàn cảnh nào không?Trên chiếc tàu casino ở Louisiana đó. Nướng hết chút tiền còm dành dụm trong trò đen đỏ rồi ra đứng trước boong tàu nhìn mây trắng sóng xanh đất khách tự thề với mình hành cu li kiếm sống để viết cái gì đó cho mai hậu chứ không phải để lao vào cái trò bác thằng bần như bao bậc tiền nhân tán gia bại sản trên đất Mỹ nầy.Thế thôi anh ạ!
   Còn anh hỏi ngoài NLCT, NHC còn có những gì sau bao năm mải miết không? Còn chứ anh, NHC còn viết một tập cảm, bình từ những ngày còn ở trong nước khoảng 40 bài thơ theo chủ quan tác giả là sướng ,là tới bởi có cái để mà ngẫm ngợi. Các tác giả bị NHC chọn là bất kỳ không nhất thiết phải là nhà thơ có tên tuổi. Chỉ khoái là chọn là bình thôi. Hy vọng trong năm 2012 NHC sẽ trình làng tập bình có cái tiêu đề “Thầm thức cùng thơ”  sau khi  khoái thêm vài mươi bài nữa .

HT:
Thưa anh Nguyễn Hàn Chung,
   Bài thơ “Bí ẩn tháng giêng”(**) mở đầu thi tập “Nghịch Lưu Của Tuổi”, với đoạn thứ nhì:
“……
Tháng giêng tàng trữ mầm xanh lao lực trong                           
bụi bặm
ẩn nhẫn chờ đợi một ngày  ấm áp
giống như chu kỳ của người đàn bà hoài thai   
cánh đồng
tháng giêng tạm trú vào đàn bướm tơ sắp đến
kỳ sinh nở
mặc những cơn gió ganh tị chỉ chực len vào cội hoa ức hiếp … “             
 (NLCT, trang 5 và 6)
   Trong một bài viết của nhà thơ Quỳnh Thi về tập thơ này với tựa đề: “Một số suy nghĩ về thi tập Nghịch Lưu Của Tuổi” đăng trên Talawas Blog, ngày 25 tháng 10 năm 2010, tác giả viết :
   “Bài “Bí mật tháng Giêng” có những câu “Bí ẩn của tháng Giêng cũng là bí ẩn của những điều không thể nói ra”, “Mặc những cơn gió ganh tỵ chỉ chực len vào cội hoa ức hiếp”. Trong câu thơ trên, chúng ta thấy Nguyễn Hàn Chung dùng nhóm chữ “Những cơn gió ganh tỵ” một cách tài tình. Chẳng rõ “cơn gió ganh tỵ” là cơn gió gì; liệu đó có phải là một ám chỉ cho “Bí mật tháng Giêng” không? Rồi còn “Con bướm khấp khởi đôi cánh mỏng – nương nhờ chiếc lá khô chờ hơi xuân hé”. Chiếc lá khô là của mùa Đông. Con bướm nương nhờ mùa Đông lúc còn nằm trong cái kén! Thật thâm thúy. Đó cũng là phong cách dùng chữ để diễn tả ý tưởng riêng biệt của thơ Nguyễn Hàn Chung vậy.”
     Là tác giả làm ra những câu thơ “bí ẩn” này, anh nghĩ sao về nhận định của tác giả Quỳnh Thi?

NHC:
Thưa anh Hai !
   Kim Thánh Thán trong lời đề tựa Tây sương ký của Vương Thực Phủ  đời Nguyên có viết "Chỗ mà lòng tới rồi bút bất tất phải nói nữa".Anh Quỳnh Thi có những cảm nhận của riêng anh  ấy về bài thơ Bí ẩn tháng giêng , NHC không thể chuyển sự phản ánh cảm tính của mình  thành khái quát của tư duy được. Hơn nữa dù NHC là tác giả chăng nữa cũng chỉ là người đứng sau cánh gà sân khấu hình tượng .Và thưa anh, NHC nghĩ rằng hình tượng ngôn từ thường tạo ra ảo giác cho nên bất khả tạo ra độ sáng rõ, độ phân giải như ở các loại hình nghệ thuật khác.Chính vì muốn phá vỡ những hình thức  khô cứng đã quen được thừa nhận về mùa xuân  và muốn đi sâu vào những vận động bí ẩn của tâm hồn mà NHC viết Bí ẩn tháng giêng.

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Trong trả lời cho câu trước, anh có nói: “Còn chứ anh, NHC còn viết một tập cảm , bình từ những ngày còn ở trong nước khoảng 40 bài thơ theo chủ quan tác giả là sướng ,là tới bởi có cái để mà ngẫm ngợi .Các tác giả bị NHC chọn là bất kỳ không nhất thiết phải là nhà thơ có tên tuổi. Chỉ khoái là chọn là bình thôi. Hy vọng trong năm 2012 NHC sẽ trình làng tập bình có cái tiêu đề ‘’Thầm thức cùng thơ ‘’ sau khi  khoái thêm vài mươi bài nửa .”
   Qua những điều anh vừa chia sẻ làm tôi tò mò tìm đọc trang nhà “sông thơ”, và đọc được bài bình thơ sau đây của anh :” “Bốn mươi năm mang mang hồi ức” với bài thơ “Xa Cách” của Châu Liêm mà anh dùng làm nền cho bài bình thơ này . Bài thơ theo anh ghi lại qua trí nhớ như dưới đây:

Xa cách

Hai dặm cát vàng duyên nối tiếp
Đôi bờ sông rộng mặc ai đưa
Tôi đâu dám bảo Trường giang hẹp
Chỉ hận nghìn năm với bến bờ
Đêm ấy người đi sương xuống lạnh
Trăng mùa tiễn biệt sáng mông lung
Tôi đâu dám hẹn ngày tương ngộ
Người khóc đêm nào người nhớ không?
Tuổi mới hai mươi đời xế nửa
Từ nay đâu dám hẹn tương phùng!
Ai tiễn ta qua vài bến nước
Với hai sào gió bốn sào trăng
Ai tiễn ta rơi vài giọt lệ
Lệ chảy đầy trong đôi mắt trong
Quấn bàn tay lạnh trong tà áo
Từ nay xa cách mấy con sông
Châu Liêm
  
    Sau khi giới thiệu tác giả Châu Liêm ngày xa xưa ấy chính là nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp hôm nay hiện đang ở gần đâu đây và anh có lời bình như sau :
   “Tôi nghĩ không ra làm sao một cậu bé học lớp đệ nhị mới mười sáu tuổi ( *l)ại có thể sử dụng từ ngữ điêu luyện dường ấy. Phải chăng  đó là của trời cho và tác giả với tư cách là người sáng tạo vẫn nằm ngoài hệ thống với các mối liên hệ nghệ thuật : Người chủ xướng và người đọc cũng chỉ đóng vai trò tham dự mà thôi .
   “Có những bài thơ tác giả là những nhà thơ lớn,ngôn ngữ thơ hàm súc  đặc dị,chứng tỏ tác giả uyên bác và trí tuệ cao nhưng sao người đời lại không nhớ mà kỳ lạ bài thơ Xa cách của Châu Liêm tuy không có nhiều sáng tạo về mặt thi pháp nhưng chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ được  vượt qua được một độ lùi của thời gian chiếm lĩnh và tái tạo hình tượng ngôn từ trở thành hình tượng tâm tư trong lòng người đọc gây hiệu ứng tiếp nhận  bền vững trong lòng tôi và bè bạn một thời, một đời…
   Cái cực sướng nào rồi cũng nhanh chóng qua đi tại sao cái cực sướng văn chương cử đeo dai đeo dính chúng ta đến mỏn đời làm vậy.”
(Sông thơ, ngày 02 tháng 11 năm 2009)
   Theo như anh vừa nhận định qua lời bình mà tôi vừa trích, vậy bài thơ Xa Cách này quả là một bài thơ hay hoặc rất hay, ít nữa đối với riêng anh, từ đó nên mới có “Bốn mươi năm mang mang hồi ức” . Do vậy, tôi mới nghĩ thơ cũ đâu phải bài nào cũng dở, phải không anh? Về phương diện thơ hay và thơ giá trị, là một người làm thơ rất lâu và với kinh nghiệm giảng dạy môn Việt văn hơn ba mươi lăm năm như anh cho biết cùng trong bài bình thơ này, xin anh chia sẻ thêm chi tiết nhỏ này mà tôi thắc mắc hoài nhưng không biết hỏi ai; đó là, theo anh thì khi nào bài thơ được gọi là hay và khi nào bài thơ được coi là có giá trị ? Giữa bài thơ hay và bài thơ giá trị nó là một hay là hai bài thơ đó hoàn toàn khác nhau, thưa anh?

NHC:
Anh Hai Trầu quý mến !
   Cái chi tiết nhỏ  mà anh  muốn được kiến giải không nhỏ một chút nào nếu không nói là vượt quá tầm suy nghĩ của những người cầm bút làng nhàng cỡ NHC. Nó đi vào định nghĩa  cõi thơ của các bậc hàn lâm về mỹ học, thi pháp học , về thời gian,không gian nghệ thuật, tính thời đại văn học, văn hóa một dân tộc các biện pháp nghệ thuật các trào lưu văn học, trường phái văn học khác nhau.Theo thiển ý của NHC thì thơ hay là thơ làm rung động lòng người bất kể nó được viết với phong cách nào. Có điều nó phụ thuộc vào từng  thế hệ đối tượng với các khuynh hướng thưởng thức chứ không thể cào bằng mọi đối tượng tiếp nhận được .Vì thế mỗi trào lưu văn học đều có những đối tượng tiếp nhận thẫm mỹ khác nhau.

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Qua bài bình bài thơ Xa Cách của Châu Liêm, tôi thấy anh mê chữ “quấn” trong hai câu kết của bài thơ này và anh viết:
“và nhât là từ quấn trong hai câu thơ cuối cùng;
‘’Quấn bàn tay lạnh trong tà áo
Từ nay xa cách mấy con sông’’
   Động từ quấn bình dị dân dã  mở đầu đoạn kết lại có độ hút mà trộm vía tác giả  tôi thiển nghĩ chính anh cũng đâu có ngờ trong suốt  hơn ba mươi lăm năm làm người thầy giáo dạy văn tôi đã dẫn dắt các em học sinh chuyên văn quê nhà bình  nhãn tự trong các câu thơ ấy. Tôi đã cho các em đưa  từ xế, quấn vào trong một trục với các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa chẳng hạn để thay thế cho các từ ấy nhưng các em và cả người thầy đều bất lực”(Bốn mươi năm mang mang hồi ức)
   Và rồi tôi lại lần dở những trang thơ của anh, tôi lại thấy anh có câu thơ này với chữ “quấn” rất điệu nghệ :
“Quấn lòng anh trong tà áo em đi
Tay ram ráp bụi đường xa thiếu bạn
Anh rớt cuối bươn tràn qua vận hạn”
(À ơi điệu cũ, NLCT, trang 7)
   Ngoài ra, qua 136 trang sách với 72 bài thơ , dù tập thơ rất mỏng như vậy nhưng theo thiển ý của tôi, thơ anh có mấy nét chính sau đây:
   1/ Anh có cách cắt, ráp các chữ trong các điển tích làm thành nhóm chữ mới để anh diễn tả những suy nghĩ của anh qua các câu thơ mà anh muốn viết rất công phu. Do vậy, chữ dùng của anh lạ, khô, rất khó đọc nhưng nhờ nó hàm chứa nhiều trăn trở qua chính những bước chân lưu lạc, thăng trầm trong dòng đời của chính tác giả và nhờ tài pha chế đôi chút gia vị châm biếm nhẹ nhàng, dí dỏm, không ác ý, nên nếu ai chịu khó đọc được vài bài thơ đầu rồi thì sẽ thấy thích, và lần lần đọc tiếp cho tới hết dòng thơ cuối cùng sẽ nhận ra thơ Nguyễn Hàn Chung chan chứa biết bao trăn trở về thân phận con người giữa dòng đời với một người không còn trẻ trung gì mà rồi còn phải lo bươn chải trèo lên từng bước chân một trên những triền dốc ngược…
   2/ Về ý thơ, phần lớn thơ anh là có chủ đích “nghịch” và “phản”.  Tất thảy những bài thơ của anh lấy cảm hứng từ đáy lòng anh đã đành mà nó còn khắc họa lại những ngang trái mà anh bắt gặp, trong văn giới cũng như ngoài đời. Những “nghịch lưu”, “nghịch âm”, những “phản ca”, “phản cảm”, “phản tuyên ngôn thơ”, những “biến dị”, “hành”, “hèn ta thơ”, “mé”, “cảm thức mé” và mỗi mỗi chữ anh dùng không đơn giản chỉ là chữ, là ý, là thơ, là thẩn một cách bình thường mà là những dòng máu trong anh cứ “chảy ngược” như “nước chảy ngược” của một dòng sông phải chảy qua nhiều tảng đá ngầm nằm sâu trong đáy sông của mình. Thành ra, nếu tôi không lầm, anh rất cô đơn dù anh có rất nhiều bạn cũ và mới như trong trả lời của anh ở câu đầu tiên:”Thôi kệ rứa mà vui, mà có bạn bầu tứ xư”; nếu không muốn nói là anh chưa tìm được người đồng điệu, tri âm, tri kỷ, ít nữa là đồng điệu trong cách suy nghĩ, trong cách diễn đạt, và cả trong cách giải trí giản dị nhất mỗi ngày là anh muốn làm cho thơ mình khác với cái cũ… Và nỗi cô đơn đó, nó còn để lại rất rõ trong câu thơ mà tôi vừa nhắc bên trên:
Tay ram ráp bụi đường xa thiếu bạn
Anh rớt cuối bươn tràn qua vận hạn”
(à ơi điệu cũ, NLCT, trang 8)

hoặc trong một bài khác:
“Không đủ lực đợi những cái chớp mắt biến ảo
mặc những cơn gió  quậy phá
quẫy đạp đi tìm di chỉ cánh đồng

cánh đồng xanh mơ ở đâu?
anh mải mốt chạy  marathon tìm em mệt nhoài ký ức”
(Canh giấc cánh đồng, NLCT, trang10)

hoặc trong bài “tha phương không tám”có đoạn:
“Thì cứ tống cứ tan ngần ấy tuổi
Biết cùng ai chia sớt chuyện buông tuồng
Chiều tới sáng lục tìm mưa cắm cúi
Ngón với bàn ngong ngóng đến thê lương

Gần rất lạ xa tới tầm tay với
Sợi mong manh riết róng cột âm thầm
Lầu cây khế leo tấm thân chùm gửi
Nhướng lên mù thấy rõ  một xa xăm

Vẫn mụ mị lùng bùng  cơn cớ trước
Và ngơ ngơ ngác ngác những phương chiều
Mùa không hắt tia nắng vàng ,vô phước
Kẻ điêu nào còn léo hánh cô liêu”
(bài tha phương không tám, trang 12

Hoặc như “bước qua thì cũ mới”, anh viết :

“bơi trên sóng sợ sông dài khủng khiếp
thấy lăn tăn đã hú ba hồn bảy vía hà bá ma da
muốn tháo chạy lên bờ ngặt dưới thân toàn nước
cõi trăm năm hơi đâu đủ sức dài cút bắt khánh tận nỗi buồn
mặc cho gã niềm vui đê hèn thiêm thiếp
chắc chắn có kẻ  sẽ gõ cửa cho em lách váy vào thiên thu
 dọn sẵn một chỗ tinh tươm chơi trò rơi ngược
 nhưng bây giờ có lẽ chỉ một mình anh  đang bơi
các em còn bận lau bàn chân ướt”
(bước qua thì cũ mới, NLCT, trang 20)
   Và còn nhiều lắm những vần thơ mang mang nỗi cô đơn hiu quạnh một bóng hình ngược nước ấy mãi hoài , không kể xiết …
   Là tác giả của những bài thơ “nghịch lưu” này, anh nghĩ sao về mấy ghi nhận nông cạn, thô thiển của một người đọc già lười suy nghĩ  như tôi, thưa anh?

NHC:
Anh Hai Trầu ơi!
   Anh đã  chịu khó trải lòng mà thẩm thấu thơ NHC nói chung và NLCT nói riêng đó là  sự mừng vui mong ước  rất lớn không dễ gì đạt được của người cầm bút nghịch lưu nầy. Nhất là thơ trong NLCT đúng như anh nhận xét: khô,nghịch nhiều ý còn  hàm hồ nữa.Vô cùng trân quý những nhận xét tinh tường của anh  giúp NHC bừng ngộ nhiều điều trong trò chơi con chữ gian nan  khổ ải nầy. Rất mong nghe được những lời bình sâu, chân xác hơn nữa của anh cũng như bạn đọc về tập thơ NLCT .Điều người làm thơ  hãi sợ nhất khi trình thơ  ra làng đã được NHC thắc thỏm  trong  mấy câu cuối bài làm thơ và múa dao. Xin được mạn phép lặp lại :
   ''làm thơ khác gì múa dao
    nghề càng tinh
    càng mệt nhoài số kiếp
  
    cùn tóc râu
    thương tích ngữ ngôn
    hãi sợ rụng vào trăm năm mất biệt

  NHC cả nghĩ :  thơ đừng mất biệt  trong cõi vô tăm  là hạnh phúc không tưởng của bất kể nhà thơ nào? Có phải thế không anh!  Nguyễn Hàn Chung xin kính gửi đến anh Hai Trầu lời cảm tạ tri âm nhất.

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
    Tôi xin được nêu lên một ghi nhận thứ ba nữa trong cách viết tên người, tên nhân vật trong các bài thơ mà anh đề cập tới họ; đó là anh không bao giờ viết chữ hoa , dù anh có cố ý nhắc những tên người, những nhân vật ấy, nhưng anh cứ phớt lờ đi, coi như đó là những chữ bình thường không lấy gì làm quan trọng cho lắm với mục đích là anh muốn dẫn người đọc đi qua một hướng khác không có ai trong thơ anh ráo trọi .
   Điều này, anh làm tôi nhớ hồi còn đi trọ học, tôi thường phụ với chủ nhà vô lò nấu heo thợ bạc. Xin kể anh nghe diễn tiến công việc này như sau. Dân chuyên nấu heo vàng họ đi gom mua khắp Sài-Gòn Chợ-Lớn những bụi vàng nơi các tiệm thợ bạc. Gom về như vậy mỗi ngày và trong vòng vài ba tháng, số lượng heo vàng này đủ vô một lò thi bắt đầu vô lò. Trước tiên người ta đem mấy heo thợ bạc này ra trộn với cát nhuyễn và bỏ vào mấy ống vót nắn bằng đất sét trắng đã phơi khô lâu ngày, hình dáng mấy ống vót này giống như hình dạng trái bầu cắt ngang trên mặt . Vô ống vót xong xuôi đâu đấy người ta mới sắp xếp những ống vót này thẳng đứng trong lò đúc bằng xi măng; giữa những ống vót người ta bỏ xen kẻ những cục than đá vừa giữ cho các ống vót thẳng đứng, vừa giúp khi đốt lò lửa than đá sẽ làm cho cát và vàng trong ống vót chảy ra . Sau khi lò đã vô đủ số lượng ống vót heo thợ bạc cho một kỳ nấu heo như vậy, người ta bít nắp lò lại và mồi lửa đốt lò. Khi lửa cháy thì than đá trong lò bắt đầu cháy theo và đốt như vậy trong vòng năm ba ngày, có khi một tuần và coi khói trong lò lên màu trắng là bắt đầu bịt miệng lò lại, vì khói trắng là dấu hiệu các chất tạp đã cháy s ạch hết rồi ; rồi chờ khi nào lò nguội, chủ lò mới khui nắp lò và lấy các ống vót ra . Khi lửa cháy cát và vàng cùng chảy. Vì cát nhẹ hơn vàng nên cát chảy thành thủy tinh, nằm bên trên và vàng nặng hơn cát nên vàng nằm dưới đáy ống vót. Lúc bấy giờ chủ lò mới lấy búa đập ống vót và lấy vàng dưới đáy . Xong đâu đấy, người ta mới dùng acid HCL hoặc acid H2SO4 phân kim số vàng này để lấy ra bạc và vàng nguyên chất.
   Sở dĩ tôi kể dông dài với anh về việc nấu heo thợ bạc và phân kim vàng là tôi muốn ví công việc anh viết tên các nhân vật dù quen hay chưa quen đều viết ở dạng chữ thường, giống như anh muốn pha trộn giữa cát và vàng rồi cho vào lò lửa và rồi vàng và cát sẽ nhờ lửa mà phân biệt được đâu là cát đâu là vàng. Phải chăng đó cũng là cách chơi chữ với nhiều dụng công của anh không, thưa anh Nguyễn Hàn Chung?
 
NHC:
Kính anh Hai Trầu !
   Anh có lối ví von sao mà thâm thúy rứa! Chẳng qua là một thủ thuật để tránh những phiền phức có thể xảy ra thôi anh à. Động đến  tài thì không sao chứ đụng đến tật các ông nhà thơ, nhà văn là lắm chuyện .Tôi  dụng cách viết như vậy để có đường mà biện bác sau nầy  nếu ai dó có chất vấn:tại sao  và tại sao ? Một số bài dạng nầy đã lên damau.org Người đọc cũng comment lủ khủ đó anh.Hơn nữa mình chỉ cảm một mé chân dung sao dám chính danh, chứ có đãi cát đãi vàng chi mô mà anh nói quá lên rứa.Mà thật ra cũng vui thôi, nào có ác ý với ai đâu!

HT:
Thưa anh Nguyễn Hàn Chung,
   Sao tôi cứ miên man nghĩ về cái tựa “Nghịch lưu…” của anh hoài. Như anh biết quê tôi vùng sông nước miền Tây, nên đi đâu cũng gặp sông, gặp rạch, gặp kinh, gặp mương , gặp cồn, gặp bãi, và dường như chỗ nào quanh quanh nơi mình ở cũng nước là nước, mát lạnh cả một vùng … Thành ra nhà nhà đều phải có ít nhứt là một chiếc xuồng để đi lại trong vùng, khi lên ruộng, lúc ra chợ, hoặc cần đi cánh đồng xa xa giăng câu giăng lưới cũng phải nhờ tới chiếc xuồng. Việc nào cần chuyên chở hơi nhiều nhiều một chút thì người ta còn phải có chiếc ghe . Ghe thì có chiếc chở năm ba chục gịa lúa, có chiếc chở cả mấy trăm giạ lúa trở lên . Còn chở đá, chở gạch, chở cát, chở cây, chở gỗ thì ghe lại càng lớn hơn nữa như ghe cui, ghe cà dom, ghe chài, ghe mui lón, chẹt, sà lan và nhiều thứ lắm … Vì đi theo sông, theo nước như vậy, nên dân quê tụi tôi phải lựa con nước mà đi . Khi nào nước xuôi thì  nhổ sào bơi theo nước cho đở tốn sức bơi chèo và khi nào nước ngược thì tấp xuồng ghe vô bờ nổi lửa nấu cơm ăn uống no bụng rồi nằm nghỉ chờ nuớc xuôi đi tiếp cho tới khi về tới bến, tới bờ mình định tới … Tôi còn nhớ hồi học các lớp Sơ Đẳng Tiểu Học, rồi Tiểu Học Bổ Túc những năm 1940, trong các lớp học vách lá nghèo nàn nơi các làng quê thường hay treo câu cách ngôn : ”Học như chèo thuyền ngược nước, không tiến ắt phải lùi”. Nay nhớ lại anh có hơn ba mươi lăm năm dạy học, có lần nào anh dạy học trò câu ngạn ngữ này không, thưa anh ?
   Buổi trò chuyện với anh tới đây kể cũng đã dài dù tôi còn muốn hỏi anh thêm nhiều điều nữa về tập thơ “Nghịch Lưu Của Tuổi”, nhưng sợ anh không có nhiều thời giờ, nên đành hẹn lại với anh vào dịp khác vậy . Xin chân thành cảm ơn anh đã giải đáp cho các thắc mắc trong cuộc trò chuyện này rất tận tình . Kính chúc anh có nhiều hứng thú trong con đường ‘nghịch lưu” của mình và chúc anh cùng gia đình nhiều sức khoẻ, vạn an.

NHC:
Kính anh Hai Trầu
   Qua cuộc chuyện trò thật lý thú giữa ông Hai Trầu và gã Trai già Quảng Nam nầy NHC rút tỉa ra được nhiều điều cần phải hoàn chỉnh hơn khi đưa tập thơ Nghịch lưu của tuổi  tới nhà in. NHC rất trân quý tình cảm trọng thị văn chương của anh nên phải vắt hết tinh lực để trả lời những chất vấn sát sạt của anh về những vấn đề xung quanh đời thơ NHC cũng như NLCT. Có gì NHC trả lời còn hàm hồ ,chung chung mong anh thông cảm thứ lỗi vì không thể làm gì khác hơn. Nghịch lưu của tuổi để mong được hợp lưu của đời chứ chẳng ai muốn ''nghịch thiên giả vong '' đâu anh. Nhưng anh ơi lắm khi  phải chấp chịu mất để mà còn....NHC còn chờ anh vấn nữa nhưng  rất tiếc anh đã tuyên bố ngưng nghỉ rồi nên thôi chờ dịp khác vậy. Một lần nữa Nguyễn Hàn Chung thành thật tri ân anh đa quan tâm nhiều đến tập thơ đầu tiên trên đất Mỹ của NHC .
     Kính gứi đến anh chị  lời chúc sức khỏe . Nhân biết anh say mê hoa trái .hằng ngày cặm cụi bên luống cỏ, chùm hoa NHC quý tặng anh mấy câu cũng để tạm kết cuộc trò chuyên rất  thú vị và bổ ích nầy ;

                       Cầm trong tay
                       một chùm hoa
                       Sắc màu tươi
                       có phôi pha một vài...
                       ném tung
                       vào
                       cõi trần ai
                       Mầm xanh
                       từ cánh hoa phai
                       cứa mình
   Thành thật cám ơn anh vì những trao đổi rất bổ ích chung quanh  bản thảo tập thơ  NLCT của NHC

HT:
Anh Nguyễn Hàn Chung,
   Một lần nữa cảm ơn anh viết tặng cho mấy vần thơ mang chút triết lý về nhân sinh, về cuộc đời nhiều ý nghĩa và cầu chúc anh cùng “Nghịch lưu của tuổi” luôn có mặt giữa dòng đời luôn dời đổi này …

Kinh xáng Bốn Tổng, ngày 26 tháng 3 năm 2011, đọc lại 23-4-2011
HT


(*) Toàn Thư theo An Nam kỷ yếu . Lý Nguyên Gia sở dĩ xin dời phủ thành là vì thấy ở phía trước cửa thành có nước chảy ngược - tức là nước sông Tô Lịch, bấy giờ còn là phân lưu của sông Hồng, nên nước chảy từ sông Hồng ngược lên.
(**) Bài thơ này trong bài viết của nhà thơ Quỳnh Thi ghi tựa là “Bí mật tháng Giêng”