Wednesday, March 9, 2011

Đêm. nghe quạ kêu & dạ quỳnh hương ở Pleiku


Đêm. nghe quạ kêu

NguyỄn Xuân THIỆP
  
   “Vùng đất, nơi em ở, trong truyện kể dân gian gọi là đất của quạ và diều. Mỗi sáng mỗi chiều, mở cửa sổ nhìn lên ngọn đồi Twelve Oaks, em đều thấy quạ họp từng đàn bay rợp, đáp xuống và kêu la. Và có đêm trăng sáng, nhìn ra vườn khuya, thấy bóng một con diều hâu (hawk) đậu trên ngọn cây khô, im lặng và cô đơn…”
   Đoạn văn trên là trong email của một người bạn gởi tới, gợi cho Nguyễn viết bài văn này khi đêm qua vừa nghe vẳng một tiếng quạ kêu trong vườn khuya.

Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẩn đêm thâu tiếng rộn ràng


    Chắc chắn bóng quạ đen kêu đêm qua trong khu vườn trụi lá của tôi chẳng phải là những con quạ đến từ bài thơ đường luật của Quách Tấn tiên sinh, lại càng không phải là những chú quạ từ Ngõ Áo Đen (Ô Y Hạng) nào đó, nơi những bác thợ nhuộm ra vào sớm tối. Cũng không phải là bóng ác điểu đậu trên nấm mồ Bích Khê ở Thu Xà Quảng Ngãi, như thi sĩ đã có lời tiên tri lúc sinh thời. Chú quạ trong bài thơ không kêu một tiếng nào -dường như là vậy. Chú im lặng. Tuyệt im lặng. Như cái chết. Như mệnh số của thiên tài.
   Mệnh số. Có không? Không ai biết. Như Edgar Poe, chỉ còn nghe nevermore (trong The Raven - Con Quạ). Only this, and nothing more… Nó là vọng âm Lenore, tên người yêu yểu mệnh của thi sĩ. Từ nay mãi mãi không thấy nhau. Mãi mãi. Trong âm vang của tiếng gọi Lenore, Nguyễn cũng muốn gọi về một mảng quá khứ của thời xanh xưa. Hỡi nàng Đường Uyển trong Vườn Thẩm bên cầu Lục Du - chỉ có những trái thông khô lăn bên triền dốc. Và bóng quạ chợt bay qua, tiếng kêu vọng lại dưới trời đêm. Nevermore. Thơ ai khắc trên đá tảng và trên vỏ cây còn mùi nhựa ngái. Còn không? Nevermore. Chỉ là mùi hương đã ở ngoài trí nhớ người.
   Ô hay! Tôi lại làm thơ như Lục Du nữa rồi. Đường Uyển ơi. Lòng những tưởng sẽ dừng lại ở dòng viết này. Như một tang khúc cho người bên cầu thuở ấy. Nhưng hốt nhiên, tiếng quạ trong vườn khuya đêm qua khiến liên tưởng đến nàng Lenore của Edgar Poe và nàng Đường Uyển của Lục Du. Đồng thời nó cũng gợi lên những bóng quạ đen trên lưu đày thời miền Nam đổi chủ. Và bóng quạ đen trên sân nắng một buổi trưa khi còn ở Mira Mesa, San Diego. Như vậy tại sao không viết tiếp để gom tất cả lại thàng một Tứ Đại Oán thời nay. Vậy xin tiếp nối sau đây.
   Thi sĩ Phạm Công Thiện đã “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” và đã nhìn thấy những bóng quạ đen. A, những con quạ đen -ở đâu vậy cà, Greenwich Village, NY- hay bên cầu Lục Du- những con quạ đen vừa đi vừa té ngã, xiêu vẹo –như bóng triết gia ngộ chân lý (?) -lại có những con đầu trọc chừng như vừa qua khổ dịch đội đá bắc cầu cho đôi lứa yêu nhau ngày nọ?



   Thi sĩ Phạm Công Thiện “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” và thấy được những hình ảnh vừa âm u vừa thơ mộng, lại vang vang tư tưởng của triết gia. Riêng Nguyễn và các bạn đồng hội đồng thuyền đã đi cho hết cả ba ngàn đêm hoang vu trên mặt đất quê nhà thời đổi chủ và đã thấy những bóng quạ đen như ác mộng trên phần kiếp của mình. Thuở ấy, những thân tù xanh lướt như rau tàu bay, như ngải đắng của vùng gió Mán mưa Tày, soi bóng xuống mặt nước xanh chàm của Thác Bà  cùng với bóng những cây trầm thủy. Những cái bóng ấy, dừng lại một hai nơi, rồi lại đi khi có “lệnh trên” (đây là trên “khung”, bộ chỉ huy trại tù của VC) vì kẻ thù từ Trung Quốc tràn qua bám theo đuôi ngựa. Đi, đi… Qua đồi sắn, nương khoai, ruộng bậc thang và bóng nhà sàn vọng tiếng mỏ trâu trong chiều, qua những đồi cọ dưới trời Hà Tuyên nắng rực trên vai áo rách bạc màu, hướng về những đồi chè Bắc Thái. Dừng lại rồi đi tiếp vì kẻ thù vẫn bám riết. Đi, qua ngã ba Đồng Lộc về tới Thành Đá Xanh Thời Trung Cổ.
   Vâng. Ngày ấy, năm 1979, Nguyễn và các bạn làm thơ làm nhạc bị giam ở Thanh Chương, Nghệ Tĩnh  -có Hà Thượng Nhân, Vũ Đức Nghiêm, Tô Thùy Yên, Chu A Hạnh, Nguyễn Trung Dũng, Xuân Bích…- cùng khoảng một ngàn anh em khác. Thanh Chương là vùng đất khô cằn, núi đá trùng điệp, ngay bên cạnh trại cũng có một ngọn núi đá. Từng ngày, tiếng mìn phá núi vang dội, đôi khi có cả những cục đá to rơi kinh hoàng trên mái trại. Từng ngày, anh  em bạn tù dung xe cải tiến (xe cút kít) đi xúc đá, chở đá. Cả một vùng đá núi khô cằn, cỏ cây xơ xác. Và những cơn gió Lào  trong mùa nắng cháy không ngớt thổi về làm đỏ hoe con mắt, khô héo ruột gan tù.  Ở đây, chỉ khoảng một năm, đã có ba ban tù rũ áo: Lê Thơm, Hậu và một người nữa không nhớ tên (có phải là Nghĩa?). Đây là đất của diều và quạ. Đêm thường nghe vọng
Ác điểu ngày đêm gào xáo xác
Dường như cả thế giới lâm chung
                            (Tô Thùy Yên)
Đêm qua. trăng chết. đầu ngọn  khuya
Quạ quắp. trái tim ta. lên núi
                             (Nguyễn Xuân Thiệp)
   Như thế đấy, bóng quạ kêu trong đêm nguyệt tận nào phải “nguyệt minh tinh hi… ô thước nam phi”  như trong bài phú Tiền Xích Bích của ông Tô Tử ngày xưa.  Cũng không phải tiếng quạ trên bến cây phong “nguyệt lạc ô đề…” Ôi, tiếng quạ kêu dưới những lán trại xác xơ trong thành đá xanh ngày ấy. Rồi cũng ở Thanh Chương Nghệ Tĩnh, những trưa tù đốt rừng, hừng hực nóng, khói và sâu bọ cuồn cuộn lên, khiến lũ quạ bay đảo đầy trời. Chúng kêu rân, họng đầy máu… Tiếng kêu của những phù thủy áo đen ấy, tưởng như  báo điềm gở, làm cho bầu trời lạnh băng, không gian chợt tối lại.
   Gĩa từ tiếng quạ của đất tù ngày ấy, tôi đi… qua biển rộng, qua những chiếc cầu hoàng hôn, những bến cảng sương mù, những xa lộ thời gian… Để đến trên ngọn đồi Penasquitos
buổi trưa nhìn nắng xế
trên sân. bóng quạ què
kêu. kêu. từng giọt máu…

   Như vậy đó, ôi cuộc hành trình nhân sinh
   và ta đã đi qua
   với tiếng quạ. bên cầu Lục Du,
   tiếng quạ. trên lưu đày Thanh Chương. đá núi
   tiếng quạ trên đồi Penasquitos
   và tiếng quạ trong vườn khuya trụi lá đêm qua.
   Ôi, phải chăng Nguyễn này đã hoàn thành một Tứ Đại Oán để gởi người thời nay?


Dạ quỳnh hương... ở pleiku

       Dạ quỳnh hương mà ở... Pleiku -có người sẽ hỏi khó: thật không đó cha nội, hay ông lại hứng chí bất tử phịa ra như thế. Xin thưa: Không dám đâu là không dám đâu. Câu chuyện có thực, đầu đuôi như thế này: Hồi làm việc ở Đà Lạt, kẻ này thỉnh thoảng lại được qua Pleiku gọi là đi công tác. Gì chứ qua Pleiku, đối với người viết, là điều gì đó rất đỗi thân thuộc và đầy hứng khởi. Bỡi lẽ giản dị là ở đó khuôn mặt chiến tranh tỏ lộ với những đường nét sần sùi mà thơ mộng. Và đó là nơi nhiều bạn bè từng lưu trú, hoặc ngắn hoặc dài: Kim Tuấn, Diên Nghị, Triều Hoa Đại, Tô Mặc Giang, Chinh Yên, Hải Phương, Vũ Hữu Định, Miên Đức Thắng, Hoàng Khởi Phong... Và trong một chuyến sang Pleiku công tác ở báo Cao Châu năm 1970, mình được Thiếu Tá Bùi Xuân My, trong một dịp hiếm có trên đời, mời về nhà uống trà xem hoa quỳnh nở trong đêm trăng sáng trên đồi. Thật là nhiệm màu: Từ giữa cuống lá, đúng vào lúc nửa đêm, những cánh hoa như san hô nở bung, tỏa mùi hương thanh khiết. Các bạn của tôi ơi, hãy tưởng tượng trong khi hỏa châu thắp sáng thành Pleime và tiếng trọng pháo từ xa ì ầm dội về, giữa lúc có những người lính chong mắt canh chừng từng lùm cây bụi cỏ để kịp thời phát hiện dấu vết của địch, và đâu đó trên những vùng đồi xa chuyến trực thăng tải thương cuối cùng cất cánh bay lên...., đúng vào giây phút đó hoa quỳnh nở. Hoa quỳnh nở như niềm vui trong cõi đá vàng, khiến người ta thấy hết lẽ vô thường của trời đất. Chợt trong giây phút ấy, kẻ này nghĩ tới Lê Thị Nguyệt Hạnh -cô học trò diễm lệ ngày xưa đã chết trên chiếc vận tải cơ C130 bốc cháy trên vùng đồi núi Pleiku-Kontum. Nguyệt Hạnh đã đi vào chiến trận và không về nữa.



   Dạ quỳnh hương năm ấy... giờ đây nơi xứ người mình được sống lại khi nghe tiếng hát Bảo Yến trong một ca khúc của Phạm Anh Dũng. Không, chỉ là hoang tưởng thôi. Không có chút gì liên hệ giữa khúc hát Dạ Quỳnh Hương với những ảnh bóng của quá khứ có hoa quỳnh nở giữa đêm trăng ở Pleiku và Lê Thị Nguyệt Hạnh. Không, không có gì hết.  Và xin lần nữa lặp lại ở đây. Only this, and nothing more…

NXT


No comments:

Post a Comment