HỒ
NHĨ HẢI HỒI SINH
Một
Thí điểm của Khoa học Môi trường
Một
Thành công của Nền Văn minh Sinh thái
NGÔ THẾ VINH
Hình 1: (trên) Bản đồ lưu vực hồ
Nhĩ Hải; (dưới) Hình ảnh hải thái hoa,
một loài cây sống dưới nước rất đặc thù của vùng cao nguyên Vân Nam,
hoa trắng tinh khôi với cánh trắng nhuỵ nở trên mặt nước, nhìn từ xa như những cánh sao rơi.
Hải thái hoa rất kén nước, chỉ có thể sống được trong các hồ nước sạch, không bị ô nhiễm.
một loài cây sống dưới nước rất đặc thù của vùng cao nguyên Vân Nam,
hoa trắng tinh khôi với cánh trắng nhuỵ nở trên mặt nước, nhìn từ xa như những cánh sao rơi.
Hải thái hoa rất kén nước, chỉ có thể sống được trong các hồ nước sạch, không bị ô nhiễm.
–
Tom Mollenkopf, Chủ tịch Hiệp hội Nước Quốc tế IWA (International Water
Association) nhận định rằng: “Dự án đổi mới kiểm soát ô nhiễm hồ Nhĩ Hải và
Phát triển Lưu vực đã cung cấp những hiểu biết quan trọng cho lĩnh vực môi trường
nước toàn cầu”. Dự án được đánh giá là xuất sắc và đã được trao tặng Huy chương
Bạc tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới. [Copenhagen 08.2022]
Phan
Nhạc, sinh năm 1960, là một thứ trưởng trẻ nhất trong chính phủ Trung Quốc, người
đi đầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trước một nhóm sinh viên trẻ, ông đã
thẳng thắn phê phán: “Mô hình phát triển kinh tế hiện tại của chúng ta là không
bền vững. Ô nhiễm môi trường đã hạn chế nghiêm trọng tăng trưởng kinh tế, và bất
công xã hội dẫn đến bất công môi trường, đến lượt nó lại làm trầm trọng thêm bất
công xã hội, tạo ra một vòng luẩn quẩn gây ra bất hòa xã hội”. [2007, Pan Yue 潘岳]
*
MỘT THOÁNG 23 NĂM:
CÙNG BẦY CHIM CỐC TRÊN HỒ NHĨ HẢI / ERHAI
LAKE / 洱海
Một
ngày của trung tuần tháng Chín năm 2002, sau khi thoát ra được vòng rào con Đập
Mạn Loan, con đập lịch sử, con đập thủy điện đầu tiên trên sông
Langcang-Mekong. Từ huyện Manwan bằng đường bộ, chúng tôi lên tới cổ thành Đại
Lý (Dali) trời cũng đã sẩm chiều. Đại Lý vẫn được so sánh như một tiểu
Kathmandu của Nepal, nơi có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử của hơn 1 triệu
sắc dân Bạch (Bai) với gốc rễ văn hóa lâu đời từ hơn 3 ngàn năm. Từ thế kỷ thứ
7, đã có một nước Nam Chiếu (Nanzhao) rất hùng mạnh từng đánh bại quân nhà Đường
vào thế kỷ thứ 8. Sang thế kỷ thứ 10 trở thành vương quốc Đại Lý cho tới thế kỷ
14, thời Nguyên Mông (Mongol Yuan) thì không chỉ Đại Lý mà toàn vùng Vân Nam đã
trực thuộc vào nước Trung Hoa.
Vẫn
còn đó những kiến trúc cổ xưa như Chùa Ba Ngôi được xây cất từ thế kỷ thứ 9,
các ngôi nhà đá cổ với cả những con đường đá quanh co. Nhưng thực sự đã không
còn nguyên vẹn một cổ thành Đại Lý, bức tường thành kiên cố bằng đá không còn nữa,
các cổng thành gốc đã bị phá đi thì nay được mô phỏng xây dựng lại nhưng với
bên trong là những gian hàng bán nữ trang và đồ lưu niệm cho du khách. Đi bộ từ
Cửa Bắc tới Cửa Nam của Cổ Thành, qua những đường phố nhỏ với đường lát gạch,
hai bên đường là những quán ăn, tiệm Café Internet và luôn luôn tấp nập với các
đoàn du khách được hướng dẫn bởi những cô gái gốc Hán má phấn môi son nhưng lại
với y phục rực rỡ của sắc dân Bạch.
Hình 2: Cổ thành Đại Lý với sắc
dân Bạch
có lịch sử hơn 3 ngàn
năm, vẫn có đó một Chùa Ba Ngôi
của nước Nam Chiếu đã có
từ thế kỷ thứ IX.)
Phía
tây Đại Lý là trùng điệp núi non, phía đông là hồ Nhĩ Hải (Erhai Lake). Nhĩ Hải
là hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam (sau hồ Điền Trì) đổ vào sông Mekong
qua một phụ lưu là con sông Xi’er. Hồ Nhĩ Hải được coi như một “tiên cảnh” của
sắc tộc Bạch, là một hồ rất sâu đã từng có tới hơn 40 loại cá khác nhau nổi tiếng
nhất là loại “cá quậy” (bow fish) giống như cá chép có đặc tính ngậm đuôi vào
miệng rồi bung ra nhảy cao trên mặt nước. Vân Nam rất xa biển nên người dân Vân
Nam thích đặt tên biển cho những hồ lớn của họ. Đại Lý mưa tầm tã từ nửa đêm
kéo dài tới sáng hôm sau. Nhưng rồi mặt trời cũng ló dạng. Khí hậu đủ tốt cho một
nửa ngày đánh cá bằng chim cốc (cormorants) trên hồ Nhĩ Hải.
Chiếc
xe phải len lách giữa những thửa ruộng trên một con đường đất đá để tới được
làng đánh cá nhỏ bên bờ tây của hồ Nhĩ Hải, gặp bác ngư dân sắc tộc Bạch da sạm
nắng tuổi cũng gần 60, bác sống với đàn chim cốc cũng phải tới hai chục con đã
được thuần hóa. Có khách tới, bầy chim được tự do ra khỏi những chiếc lồng,
tung tăng duỗi chân duỗi cánh hân hoan. Thay vì đeo vào cổ chim những chiếc
vòng, rất nhanh và thành thạo người đàn ông dùng mớ lạt, buộc cổ từng con chỉ vừa
đủ chặt để ngăn chúng nuốt xuống những con cá lớn bắt được, rồi ra lệnh cho đàn
chim tung mình xuống nước và bơi theo ghe ra hồ.
Hình 3: Trước buổi săn cá trên
hồ Nhĩ Hải,
một ngư ông sắc dân Bạch
đang dùng dây lạt thắt vòng trên cổ
mỗi con chim Cốc, ngăn
không cho chim nuốt những con cá lớn để sau đó thu hoạch;
(trái) đàn chim Cốc đã
được thuần hóa, trở nên rất dạn dĩ và thân thiện với du khách,
(phải) Ngô Thế Vinh chèo
thuyền trên hồ Nhĩ Hải; [tường
trình từ Vân Nam, Đại Lý 09.2002]
Gần
bờ, nước hồ Nhĩ Hải ô nhiễm đặc sánh lại một màu xanh của tảo và rong rêu, cũng
không ngạc nhiên khi thấy các rãnh nước thải từ thành phố chảy qua các ruộng
lúa rồi đổ thẳng xuống hồ. Phải thật xa bờ, nước hồ mới một phần trở lại trong
xanh.
Như
những người bạn thân thiết, bầy chim cốc và ngư ông hoạt động nhịp nhàng. Cảnh
tượng thật kỳ lạ chỉ bằng khẩu lệnh với những âm thanh sắc ngắn là cả một bầy
chim từng đợt từng đợt vỗ cánh rồi cùng ngụp lặn sâu dưới mặt nước. Phải một
lúc sau mới thấy từng con trồi lên, con chim nào với chiếc cổ phồng to phía
trên nút lạt thắt là dấu hiệu bắt được cá lớn, ngư ông chỉ cần tới gỡ mỏ từng
con chim cốc và thu hoạch. Mẻ cá đầu tiên của một chú chim cốc là hai con cá
chép chỉ nhỏ hơn nửa bàn tay.
Bầy
chim tỏ ra rất thân thiện, nhảy lên ghe, đậu trên mái chèo hay trên tay khách.
Cảnh trí thiên nhiên hữu tình, chủ khách và bầy chim thực sự giao hòa. Tỏ tình
thân, người đàn ông gốc Bạch mời tôi điếu thuốc hút. Cũng đã 30 năm rồi, lần đầu
tiên tôi đã lại vui vẻ đón nhận và cả thưởng thức điếu thuốc thơm Vân Nam trên
mặt hồ Nhĩ Hải.
Cách
đây ngót 8 thế kỷ (1278), Marco Polo trên Con Đường Tơ Lụa Phương Nam (Southern
Silk Route) đặt chân tới đây và ghi nhận cá ở hồ Nhĩ Hải là “nhất thế giới” sau
đó Marco Polo đã vượt qua sông Mekong phía tây Vân Nam để ra khỏi Trung Hoa.
Sáu
thế kỷ sau Marco Polo (1868), đoàn thám hiểm Pháp với Doudart de Lagrée &
Francis Garnier khởi hành từ Sài Gòn bằng cuộc hành trình gian truân ngược dòng
sông Mekong kéo dài hai năm. Cuối cùng Francis Garnier cũng tới được hồ Nhĩ Hải
phía đông khu cổ thành Đại Lý, nhưng Francis Garnier đã bị vị Sultan, vua Hồi từ
chối tiếp kiến và buộc đoàn phải rời Đại Lý ngay sau đó.
Hơn
130 năm sau Francis Garnier, chúng tôi đang trở lại với sinh cảnh đẹp đẽ nhưng
đã quá mong manh và có lẽ là những năm tháng cuối cùng của hồ Nhĩ Hải với nước
hồ ngày càng ô nhiễm, đổ thoát ra bằng một phụ lưu lớn là con sông Xi’er để rồi
cuối cùng cũng đổ dồn vào dòng chính con sông Lancang-Mekong.
…
Sau
hai điếu thuốc, chủ và khách đều hân hoan. Lão ngư ông cao hứng bảo sẽ hát cho
chúng tôi nghe một bài tình ca có tự lâu đời của sắc dân Bạch. Tuy không hiểu
được lời ca nhưng những nốt nhạc rất du dương trầm bổng. Theo Wu, là tài xế
cũng là nhà giáo khi đưa chúng tôi tới đây, thì bài hát kể lại mối tình thơ mộng
và say đắm của đôi trai gái sắc tộc Bạch, cùng chèo thuyền trên hồ Nhĩ Hải cảnh
sắc hữu tình, dưới bầu trời xanh, bên dãy núi cao, trên biển nước mênh mông, mỗi
nốt nhạc lời ca là tiếng lòng thổn thức của họ. Ở tuổi gần 60, da sạm nắng và gầy
khắc khổ nhưng người đàn ông đã hát với tất cả vẻ đam mê như đang sống lại với
mối tình đầu của tuổi thanh xuân ngày nào. Bầy chim cốc vẫn bơi sát theo thuyền,
mấy con nhảy đỗ trên ghe thì nghển cổ như để lắng nghe chủ hát.
Tôi
hỏi về mức thu hoạch cá với đàn chim cốc. Ông nói đã sống với nghề săn cá bằng
chim cốc từ 40 năm và cách đây hơn 10 năm thôi, vẫn có được những mẻ cá lớn
nhưng về sau này thì không, lượng cá không hiểu tại sao càng ngày càng ít hẳn
đi, chỉ còn lại đàn chim cốc vẫn nuôi sống được gia đình ông chủ yếu bằng tiền
của du khách.
…
HỒ ĐIỀN TRÌ / DIANCHI滇池, VÀ CON SÔNG HỒNG.
Điền
Trì là một biển hồ lớn nhất phía nam thủ phủ Côn Minh, đã từng được Marco Polo
tới thăm vào thế kỷ thứ 13 mô tả như “một hồ lớn cả trăm dặm và lưới được rất
nhiều cá”. Hồ có chiều dài hơn 40 km, diện tích 300 km2 (gần bằng nửa diện tích
đảo quốc Singapore), phía tây là núi đồi, phía đông hồ, địa hình bằng phẳng,
nguyên là khu chài lưới rất thịnh vượng nhưng rồi do ô nhiễm chất thải từ các
khu kỹ nghệ bờ đông nam nên đã không còn cá và thực sự đã không còn một nền ngư
nghiệp.
Wu
đã cho biết chính quyền không sao xử lý
được hồ nước thải, không giải quyết được cả một khối lượng nước đã quá ô nhiễm
trong hồ lớn Điền Trì – nên đã thuật cho chúng tôi nghe về một kế hoạch táo bạo
của chính quyền Vân Nam: dự trù chi phí 2 tỉ yuan để khai thông một đường dẫn
cho thoát nước hồ ra sông Hồng, chảy qua Việt Nam rồi đổ ra Biển Đông, sau đó sẽ
thay thế bằng nước con sông Dương Tử dẫn vào hồ. Tuy chưa thể kiểm chứng được
là có bao nhiêu phần trăm sự thật trong kế hoạch đầy sáng tạo nhưng độc ác của
các “công trình sư Đại Hán”, nhưng có thể chắc chắn một điều người giáo viên
trung học này không đủ giàu tưởng tượng để bịa đặt ra câu chuyện ấy. Đổ tất cả
ô nhiễm của hồ Điền Trì vào con sông Hồng như một đường cống rãnh thì hậu quả sẽ
ra sao trên bao nhiêu triệu cư dân Việt Nam nơi đồng bằng châu thổ đang sống bằng
nguồn nước con sông Hồng và đây là điều sẽ được ai quan tâm tới? Việt Nam được
biết gì về một kế hoạch “giải quyết môi sinh” theo lối ném bùn sang ao của
chánh quyền Vân Nam? [hết trích dẫn
Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch – Tường Trình từ Vân Nam 9.2002, Nxb Văn Nghệ]
Trong
chuyến đi Vân Nam 2002, người viết đã được tận mắt thấy một hồ Điền Trì lớn nhất
Vân Nam gần như đã chết và một hồ Nhĩ Hải lớn thứ hai thì đang chết dần. Để rồi
23 năm sau được chứng kiến những “cái chết đi và sống lại” của các hồ nước ngọt
Trung Quốc như một phép lạ không do Thượng Đế mà do chính con người đã tạo ra…
CHÂU ĐẠI LÝ VÀ HỒ NHĨ
HẢI NGÀY NAY
Hồ
Nhĩ Hải trên cao nguyên Vân Nam, độ cao 1972 m trên mực nước biển, cách thủ phủ
Côn Minh 265 km về phía tây bắc, là một trong số 16 hồ nay thuộc khu bảo tồn
thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc. Hồ có chiều dài bắc nam 40 km, chiều rộng
đông tây 8 km, diện tích 250 km2 với chu vi 116 km, có chiều sâu trung bình khoảng
11m. Dung tích hồ biến động theo mùa khoảng 2,5 tỉ m3 tới 2,8 tỉ m3.
Đây
là một hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam nổi tiếng về cảnh quan và hệ sinh
thái phong phú. Vào những năm trước 1970, hồ Nhĩ Hải vẫn được coi như một “tiên
cảnh hạ giới” với nước hồ trong như ngọc
và trên mặt hồ có điểm xuyết một loài hoa quý: hải thái hoa / 海菜花 / haicaihua, tên khoa
học là Ottelia acuminata. Hoa có ba cánh trắng, nhị vàng. Hải thái hoa không chỉ
nổi tiếng vì đẹp, chỉ có ở Vân Nam, vùng tây nam Trung Hoa. Những thân non và nụ
hoa còn được sắc dân Bạch thu hoạch, chế biến thành các món ăn ngon truyền thống
rất được ưa chuộng. Y học Trung Hoa còn ghi nhận hải thái hoa là một loại dược
thảo trị được một số bệnh.
Vì
loài hoa này rất dễ bị tổn thương, và không sống được trong môi trường ô nhiễm,
nên sau này được các nhà khoa học môi sinh coi hải thái hoa như một “chỉ số
sinh học” về phẩm chất nước (biological indicator of water quality). Bấy lâu, hồ
Nhĩ Hải có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước, tưới tiêu nông nghiệp,
và điều hòa khí hậu cho các khu vực xung quanh. Dân địa phương vẫn chủ yếu sống
bằng nghề nông, chăn nuôi, đánh bắt cá theo phương thức cổ truyền, vận chuyển
và du lịch trên hồ.
Năm
1981, hồ Nhĩ Hải và núi Thương Sơn / 蒼山 / Cangshan đã được
chính quyền tỉnh Vân Nam quy hoạch là Khu bảo tồn thiên nhiên và sau đó năm
1994 được nâng cấp thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, với mục tiêu bảo quản
hồ nước ngọt cùng những cảnh quan với hệ động thực vật thủy sinh phong phú – được
coi như một vùng chuyển tiếp nam-bắc của Trung Quốc với cả những di tích địa chất
còn sót lại từ thời kỳ băng hà.
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CỦA
PHÁT TRIỂN
Vào
cuối thập niên 1970s và 1980s, khi một Trung Quốc bắt đầu mở cửa và đổi mới – tạo
được những bước phát triển kinh tế nhảy vọt – khởi đầu từ các tỉnh miền đông và
đông nam. Riêng vùng tây nam – như cao nguyên Vân Nam trong đó có Châu Tự Trị Đại
Lý thì vẫn chìm trong cảnh nghèo khó. Nhưng rồi, tuy muộn màng, cuối cùng Vân
Nam cũng được thụ hưởng ánh sáng tăng trưởng kinh tế của cả nước. Với chiến dịch
“xóa đói giảm nghèo”, được phát động từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Vân Nam –
trong đó có Châu Đại Lý với ngót nửa triệu cư dân được coi như đã thoát khỏi mức
nghèo khó, họ đạt được mức sống cao hơn (i) với thu nhập trên mức tối thiểu;
(ii) được đảm bảo thức ăn và quần áo; và (iii) được đảm bảo các dịch vụ y tế cơ
bản, nhà ở có điện nước, và giáo dục miễn phí.
Các
bước phát triển của Trung Quốc với mở mang các khu kỹ nghệ mới, phải kể tới kỹ
nghệ hóa chất với phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, ban đầu đã tạo được những cải
tiến trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế phát triển đưa tới sự bùng phát của du
lịch nội địa và quốc tế.
Hệ
quả đưa tới là tình trạng đô thị hóa, với chuyển dịch dân cư, làm gia tăng dân
số trong vùng – cùng với cái giá phải trả về môi trường – khiến chất lượng nước
trong hồ Nhĩ Hải ngày càng xấu đi và chủng loại hải thái hoa / haicaihua dần dần
biến mất. Người ta đã phải chứng kiến sau đó một hồ Nhĩ Hải trải qua những đợt
bùng phát tảo xanh (blue-green algae), không những thế nước hồ còn phát ra mùi
hôi thối và chất lượng nước được coi là không phù hợp để tiếp cận với con người.
NGUỒN Ô NHIỄM HỒ NHĨ HẢI
ĐẾN TỪ ĐÂU?
_
Từ các điểm nguồn (point source): các con sông. Từ năm 2013, các nhà khoa học tỉnh
Vân Nam phát hiện ra rằng những con sông bấy lâu chảy vào hồ Nhĩ Hải có chất lượng
nước được đánh giá là rất ô nhiễm; các chất gây ô nhiễm chính là nitrogen và phốt
pho có nguồn gốc từ phân bón nông nghiệp. Tất cả nước sông ô nhiễm này chảy vào
hồ, gây ra hiện tượng phú dưỡng / eutrofication*.
[*phú
dưỡng / eutrofication là tình trạng nước chứa quá nhiều chất dinh dưỡng từ phân
bón, nước thải đưa tới tình trạng bội phát các loại rong rêu /algae, phiêu sinh
vật/ plankton, làm cạn kiệt nguồn oxy trong nước, tạo ra các vùng chết trong hồ].
Ba
con sông chính gây ô nhiễm hồ Nhĩ Hải là (1) Vĩnh An Giang / Yong’anjiang, (2)
La Thập Giang / Luoshijiang, và (3) Bạch Hạc Khê / Baihexi. Chỉ riêng con sông
Vĩnh An Giang đã đổ vào hồ Nhĩ Hải 20% tổng số chất thải.
GIẢI
PHÁP: Nhóm dự án đặc biệt nghiên cứu các phân đoạn con sông chảy vào hồ Nhĩ Hải,
từ thượng nguồn xuống tới cửa sông, để xây dựng một kế hoạch quản lý hệ sinh
thái sông toàn diện. Chỉ riêng nguồn nước từ con sông La Thập Giang, đã đổ 40
triệu tấn nước thải vào hồ Nhĩ Hải hàng năm. Nhóm nghiên cứu đã thảo một kế hoạch
với chi phí thấp để làm sạch nguồn nước của sông La Thập Giang. Ở khu vực thượng
nguồn, kế hoạch tập trung vào các biện pháp ‘bảo tồn sinh thái’; ở các vùng
trung lưu chủ yếu là đất nông nghiệp và làng mạc, kế hoạch tập trung vào ‘phục
hồi sinh thái và tái cấu trúc kinh tế’, hướng dẫn nông dân xung quanh trồng các
loại cây trồng thương mại ít ô nhiễm, năng suất cao và xây dựng các mương lọc dọc
theo bờ sông để làm sạch sơ bộ nước ruộng và nước thải của làng; ở các khu vực
hạ lưu đông dân, kế hoạch tập trung vào ‘kiểm soát ô nhiễm và quản lý kỹ thuật
sinh thái‘, xây dựng 1.500 mẫu Anh một vùng đất ngập (wetlands) nhân tạo trước
khi sông chảy vào hồ. Các vùng đất ngập này được phủ dày với vật liệu lọc phốt
pho, với các bức tường thực vật thủy sinh để làm lắng các chất ô nhiễm và làm sạch
nước trước khi chảy vào hồ.
Đến
tháng 6 năm 2011, sau 5 năm thực hiện, chất lượng nước tại cửa sông La Thập
Giang chảy vào hồ đã được cải thiện đáng kể, chất lượng nước phù hợp để con người
sử dụng, và cây hải thái hoa / Ottelia acuminata được trồng nhân tạo đã sống lại
sau nhiều năm vắng bóng. Nhờ bước thành công này, trong giai đoạn Kế hoạch 5
năm tiếp theo (2011–2015), mô hình hiệu quả từ sông La Thập Giang đã được mở rộng
sang các con sông khác chảy vào hồ Nhĩ Hải.
_
Từ các diện nguồn (area source): vùng canh tác, chăn nuôi, khu gia cư. Với cải
cách kinh tế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hóa chất
đã dẫn đến gia tăng sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp ở Châu
Đại Lý. Tuy có hiệu quả ngắn hạn gia tăng năng suất, nhưng đồng thời với hậu quả
lâu dài là gây ô nhiễm nghiêm trọng chất lượng nước trong lưu vực. Nghiên cứu của
Tiến sĩ Chen Xiaohua và các đồng sự từ Viện Khoa học Môi trường Thượng Hải phát
hiện ra rằng từ năm 1988 đến năm 2013, khi sự phát triển kinh tế xã hội ở lưu vực
Nhĩ Hải được cải thiện, thì chất lượng nước trong khu vực cũng đã xấu đi theo
cùng tỷ lệ.
1/
Vùng trồng tỏi một củ: từ những năm 1990, nông dân ở vùng Đại Lý đã bắt đầu trồng
loại tỏi một củ hay còn được gọi là tỏi đơn với hương vị thơm ngon rất được ưa
chuộng. Đến năm 2010, diện tích trồng tỏi đơn ở Đại Lý đã lên tới 13.300 ha, với
thu nhập cao hơn nhiều so với việc trồng ngũ cốc. Tuy nhiên, việc trồng tỏi đòi
hỏi một lượng lớn nước và phân bón, chỉ một nửa trong số phân bón đó được tỏi hấp
thụ và một nửa còn lại vẫn nằm trong đất. Vào mùa mưa, dòng chảy phân bón và
thuốc trừ sâu đổ vào hồ Nhĩ Hải đã dẫn đến tình trạng dư thừa nghiêm trọng
nitrogen và phốt pho trong hồ, dẫn đến tình trạng phú dưỡng và phát triển tảo
xanh.
GIẢI
PHÁP: Các chuyên gia từ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc đã khuyến
nghị cấm trồng tỏi trong phạm vi 200 mét tính từ bờ hồ Nhĩ Hải, hạn chế trồng
loại cây này ở những khu vực cách bờ hồ từ 200 đến 2000 mét và khuyến khích cư
dân trồng các loại cây khác sử dụng ít nước và phân bón hơn trên khắp lưu vực.
Để kêu gọi nông dân ngừng trồng tỏi, không phải là điều dễ dàng nhưng rồi với
quyết tâm và kiên nhẫn thuyết phục của chính quyền, người dân sống gần hồ Nhĩ Hải
cũng đã ngừng trồng tỏi và được giúp đỡ chuyển sang trồng các loại cây trái như
lựu, đào và quất và tham gia vào hoạt động du lịch.
2/
Vùng chăn nuôi gia súc: vốn là hoạt động có truyền thống lâu đời ở Châu Đại Lý
do khí hậu và thổ ngơi thuận lợi của khu vực. Gia súc được chăn thả gần hồ, khiến
phân bò trôi vào hồ và làm trầm trọng thêm tình trạng phú dưỡng. Chỉ riêng năm
2007, ước tính có 140.000 con bò sữa được nuôi ở lưu vực Nhĩ Hải, với tải trọng
môi trường (environmental load) của mỗi con bò tương đương với 23 người. Nói
cách khác, ngành chăn nuôi bò sữa vào thời điểm đó đã đóng góp một tải trọng
môi trường tương đương với hơn ba triệu người sống trong lưu vực, trên thực tế
đã nhân đôi dấu chân môi trường của dân số toàn bộ châu Đại Lý.
GIẢI
PHÁP: Để giải quyết tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi bò sữa, sau nhiều năm điều
tra và nghiên cứu thực địa, các chuyên gia từ Đại học Khoa học và Công nghệ Côn
Minh đã đề xuất hai giải pháp chính: thứ nhất, hạn chế khoảng cách đàn bò sữa
và ngăn không cho chúng gặm cỏ quá gần hồ; và thứ hai, thành lập các nhà máy
phân bón tập trung để chế biến phân bò. Hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp
Trung Quốc, các chuyên gia đã thiết kế một nhà máy thu gom phân bò để sản xuất
phân bón hữu cơ, giúp doanh nhân địa phương xây dựng bốn nhà máy như vậy và thiết
lập 25 trạm thu gom phân bò tại các ngôi làng xung quanh lưu vực Nhĩ Hải. Các
nhà máy này đã thu gom hơn 1.300 tấn phân bò mỗi ngày và hơn 400.000 tấn phân
bò, phân lợn và phân gia cầm mỗi năm. Châu Đại Lý được trợ cấp hàng năm hơn 10
triệu nhân dân tệ cho các nhà máy phân bón để mua phân bò từ nông dân. Loại
phân hữu cơ này có hiệu quả là thân thiện với môi trường; chúng không chỉ được
sử dụng để kiểm soát nồng độ phốt pho và nitrogen trong hơn hai triệu mẫu đất
nông nghiệp ở Châu Đại Lý mà còn được bán trên toàn quốc và cả Đông Nam Á.
3/
Di cư kỹ thuật số và Du lịch: Châu Đại Lý đã có một thời kỳ thu hút giới trẻ từ
các thành phố lớn tìm kiếm nơi thoát khỏi lối sống đô thị đầy khói bụi và tắc
nghẽn giao thông. Nhiều người đã bán nhà ở thành phố và chuyển đến Đại Lý cùng
gia đình để xây dựng nhà trọ sống cùng với cư dân địa phương dọc theo Hồ Nhĩ Hải.
Trong lối sống “như cảnh thiên đường”, một số người trẻ trong ngành kỹ thuật
cao – do họ có thể làm việc từ xa và được gọi là “người di cư kỹ thuật số /
digital migrants”. Từ năm 2014 đến năm 2016, số lượng “người di cư mới” đến Nhĩ
Hải từ các vùng khác của Trung Quốc đã tăng từ 30.000 lên gần 100.000, chiếm gần
10% cư dân quanh hồ. Cũng vào năm 2014, Châu Đại Lý đã đón 808.300 khách du lịch
nước ngoài và 25,67 triệu khách du lịch trong nước. Sự phát triển nhanh chóng của
ngành du lịch tuy có làm tăng thu nhập của người dân địa phương nhưng các biện
pháp bảo vệ môi trường lại tụt hậu. Các nhà trọ, chuỗi nhà hàng đã tạo ra một
lượng nước thải sinh hoạt rất lớn. Lượng chất thải dân dụng và liên quan đến du
lịch đổ vào hồ đã lên tới hơn 600 tấn mỗi ngày.
GIẢI
PHÁP: Chính quyền Châu Đại Lý đã yêu cầu 2.498 nhà hàng, nhà trọ và nhà dân xả
nước thải sinh hoạt vào hồ Nhĩ Hải dừng hoạt động. Ban đầu, họ đã phản đối kịch
liệt. Nhóm dự án đặc biệt của Nhĩ Hải, đã phải đích thân tiếp xúc với từng chủ
nhà trọ và cùng đi với các phóng viên báo chí và truyền hình. Các giới chức đã
phải đến các nhà hàng và nhà dân nhiều lần để giải thích cho họ về các mối đe dọa
ô nhiễm mà hồ Nhĩ Hải đang phải đối mặt. Quá trình thuyết phục người dân địa
phương và các chủ doanh nghiệp rất khó khăn, nhưng rồi cuối cùng, cũng đã đạt
được sự đồng thuận với quan điểm rằng chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế ngắn hạn
cũng giống như ‘giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng’, phá hủy tương lai của toàn
bộ cộng đồng. Cuối cùng, tất cả các chủ nhà trọ và nhà dân ở quanh hồ Nhĩ Hải
đã chấp nhận quyết định của chính phủ, tạm dừng hoạt động trong 18 tháng để tiến
hành các biện pháp di dời và cải tạo. Năm 2018, đã có 1.806 gia đình (thuộc 23
ngôi làng) trong phạm vi 15 mét tính từ hồ bị phá dỡ với sự đồng ý của chủ sở hữu,
các địa điểm đã được khôi phục thành không gian công cộng và 7.270 người đã
chuyển đến các khu dân cư mới xây dựng và được chính phủ đền bù. Để ghi nhận những
hy sinh của 1.806 hộ gia đình vì sự bảo vệ môi trường của Nhĩ Hải, khu dân cư mới
được đặt tên là ‘Thị trấn 1806’. Và cuối cùng, các nhà hàng, nhà trọ và các
ngôi làng nằm ngoài ranh giới 15 mét cũng đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống
thoát nước thải.
Ngoài
ra các ngành công nghiệp không cần phát triển ở gần hồ Nhĩ Hải cũng đã được
chuyển ra ngoài. Những thay đổi ở thành phố Đại Lý phù hợp với xu hướng rộng
hơn trong cả nước nhằm giảm bớt áp lực cho các khu vực đô thị trung tâm.
• Tiếp theo là khoản đầu
tư trị giá hàng tỷ nhân dân tệ để xây ba nhà máy xử lý nước thải, 4.660 km đường
ống nước thải và 99.000 hệ thống tự hoại được nâng cấp đã được lắp đặt trên
toàn lưu vực.
• Sinh viên từ các Đại học
Nông nghiệp Trung Quốc đã thành lập “sân khoa học và công nghệ” tại các ngôi
làng để giới thiệu các phương pháp canh tác thân thiện với môi trường và giám
sát ô nhiễm không phải nguồn điểm — giảm lượng nước chảy tràn khoảng 10%.
• Người dân địa phương
và “nhóm bảo vệ hồ” cùng tham gia vào các hoạt động dọn dẹp, duy trì thảm thực
vật ven bờ và trồng lại loài hải thái hoa (Ottelia acuminata) rất nhạy cảm— như
một chỉ số sinh học quan trọng về chất lượng nước, với kết quả tích cực và lâu
dài
Phục
hồi toàn hệ sinh thái của hồ Nhĩ Hải ở Đại Lý, Vân Nam là những câu chuyện truyền
cảm hứng trên toàn quốc:
_
Chính quyền giải tỏa và cải tạo cơ sở hạ tầng thành công
• Đến năm 2019–2020, chất
lượng nước đã liên tục đạt tiêu chuẩn Loại II–III—tươi mát và phù hợp môi trường
cho sinh vật sống dưới nước.
• Quần thể chim muông
quay trở lại mạnh mẽ và các loài thực vật nhạy cảm như hải thái hoa (Ottelia
acuminata) nở hoa trở lại, báo hiệu sự phục hồi sinh thái.
• Du lịch phục hồi: Nhĩ
Hải lấy lại biệt danh là “hồ mẹ” của khu vực, làn nước trong vắt của nó một lần
nữa thu hút các cặp đôi, người yêu thiên nhiên và các loài chim di cư.
Kết
quả tốt đẹp, hồ Nhĩ Hải đã chuyển đổi từ tình trạng dày đặc ô nhiễm với rong tảo
xanh độc để trở lại một môi trường sôi động — tràn đầy sức sống, vẻ đẹp nên thơ
và cân bằng sinh thái.
Hình 4: Cảnh quan ngày nay của
hồ Nhĩ Hải, Vân Nam (2025)
, cho thấy cả một hệ
sinh thái đang hồi sinh: độ trong của nước hồ đã được
cải thiện đáng kể, phản
ánh trạng thái khỏe mạnh của hồ. Đây chính là kết quả kỳ diệu
là mẫu mực của nhiều năm
nỗ lực làm sống lại một hồ nước đang chết dần.
NHỮNG ỨNG DỤNG SAU HỒ
NHĨ HẢI
Những
thách thức về môi trường mà Châu Đại Lý phải đối mặt và những nỗ lực phục hồi của
chính quyền từ trung ương tới địa phương
đã cung cấp một số bài học vượt ra ngoài khu vực. Ví dụ, trong quá trình
phục hồi hồ Nhĩ Hải, Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc đã phát triển ‘hệ thống
nhà máy công nghệ sinh thái khôi phục nước xây ngầm dưới mặt đất’ (the
distributed subsurface water reclamation ecosystem technology system), là
phương pháp quản lý dành cho các hồ lớn có diện tích trên 200 km2 chưa từng được
sử dụng ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Theo Tiến sĩ Feng Hou, chủ tịch của
Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, thì đây là một phương pháp tiếp cận mới
mang tính đột phá, làm thay đổi mô hình quản lý nước đã tồn tại hàng bao thế kỷ
trên toàn thế giới.
MỘT HUY CHƯƠNG BẠC TỪ
IWA CHO HỒ NHĨ HẢI
Vào
tháng 9 năm 2022, “Dự án Đổi mới Kiểm soát Ô nhiễm Lưu vực hồ Nhĩ Hải và Phát
triển Khu vực” đã giành huy chương bạc ở hạng mục “Thực hiện và Triển khai Dự
án Xuất sắc” tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới của Hiệp hội Nước Quốc tế
(IWA/ International Water Association) tại Copenhagen, Đan Mạch. Hội đồng
chuyên gia của IWA đã đánh giá dự án do Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, Đại
học Giao thông Thượng Hải và chính quyền huyện Đại Lý cùng đệ trình: về các
khía cạnh đổi mới, những thành tựu, thiết kế dự án và tiềm năng tác động rộng
rãi hơn. Chủ tịch IWA Tom Mollenkopf tuyên bố rằng: “Việc quản lý toàn diện Hồ
Nhĩ Hải, kết hợp cải thiện môi trường sinh thái nước với mô hình phát triển
kinh tế xã hội của lưu vực, cung cấp những hiểu biết quan trọng cho sự phát triển
của lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.
NHỮNG KỲ QUAN MÔI SINH
CỦA TRUNG QUỐC
Sau
thành công với hồ Nhĩ Hải, với chiến lược đa khía cạnh bao gồm: (1) kiểm soát
nguồn nước thải, (2) xây dựng hệ thống xử lý nước thải, (3) phục hồi vùng đệm
sinh thái và (4) tái định cư dân cư. Cho đến nay, ít nhất đã có 8 hồ nước ngọt
lớn của Trung Quốc được phục hồi – với chất lượng nước từ xấu – cấp IV và rất xấu
– cấp V, nay đạt được cấp I tới III – từ rất tốt tới tốt.
1.
Hồ Nhĩ Hải / Erhai / 洱海, Vân Nam: Là hồ đầu tiên của Trung Quốc được
phục hồi toàn hệ sinh thái với chiến lược đa khía cạnh, và là mẫu mực cho tất cả
cả các hồ nước ngọt khác sau này của Trung Quốc.
2.
Hồ Điền Trì / Dianchi – 滇池, Vân Nam: Từng là một hồ được coi là ô nhiễm
nhất Trung Quốc, phẩm chất nước dưới cấp V, cá chết hàng loạt do nước thải đô
thị và chất thải từ các khu kỹ nghệ quanh hồ. Với xây dựng 29 nhà máy xử lý nước
thải, dẫn nước và xây dựng vùng đất ngập nhân tạo, lấy nước từ sông Dương Tử
hoàn nguyên toàn bộ dung tích hồ, cùng với các sáng kiến tăng cường đa dạng
sinh học. Chất lượng nước của hồ đã được cải thiện, với phục hồi thảm thực vật,
với sự trở lại của các loài cá và chim, và ngành du lịch sinh thái đang hồi
sinh.
3. Bà Dương Hồ & Động Đình Hồ / Poyang & Dongting Lake – 鄱阳湖 &– 洞庭湖, Giang Tây: Hồ Poyang
và hồ Dongting là hai hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc, cả hai đều có liên kết
với sông Dương Tử. Hồ Poyang, hồ lớn hơn, nằm ở tỉnh Giang Tây và hồ Dongting,
nằm ở tỉnh Hồ Nam, cùng điều hòa lũ và nối kết với sông Dương Tử qua nhiều
kênh. Cả hai hồ đều đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái của sông Dương Tử
và trong việc điều hòa lũ lụt trong khu vực. Thực thi các chiến dịch cải thiện
chất lượng nước, tăng giám sát, kiểm soát nguồn thải.
4.
Thái Hồ / Taihu Lake – 太湖, Giang Tô: Một trong ba hồ lớn nhất ở Trung Quốc,
đã bị ô nhiễm trầm trọng, tảo xanh năm 2007, nước dưới cấp V là mức thấp nhất.
Với giải pháp: đóng cửa hàng ngàn nhà máy gây ô nhiễm, xây hệ thống đường ống dẫn nước, gom tảo, kiểm soát nguồn nước thải,
khôi phục vùng đệm nước ngập để giảm ô nhiễm. Đến năm 2024, phẩm chất nước đạt
cấp III đủ tốt cho các sinh vật sống và phát triển.
5.
Phủ Tiên Hồ / Fuxian Lake – 抚仙湖, Vân Nam: Hồ bị ô nhiễm
nặng từ phân bón thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và lượng rác phế thải từ khu dân
cư và sự bùng phát du lịch. Với giải pháp: qua nạo vét bùn, lập khu sinh vật lọc
và chuyển hướng dòng nước, hồ đã trả về chất lượng “cấp I” năm 2004.
6.
Lô Cô Hồ / Lugu Lake – 泸沽湖, Tứ Xuyên: Bị ô nhiễm do du lịch bùng
phát, các công trình xây dựng xâm lấn hồ, lượng nước thải không được xử lý. Giải
pháp: từ 1992, xây hệ thống ống thu hồi nước thải, hạn chế sử dụng phân bón hóa
chất, thuốc trừ sâu, cấm thuyền máy; các biện pháp đa khía cạnh này từng được
đánh giá là mô hình “tiêu chuẩn”.
7.
Ô Luân Cổ Hồ / Ulungur Lake – 乌伦古湖, Tân Cương: Ở Tân
Cương, từng bị ảnh hưởng từ nước sinh hoạt và kỹ nghệ thủy sản. Giải pháp: : Từ
2005 đến 2018, xây dựng công viên đất ngập nước, xử lý nước thải, trồng lại
khôi phục hệ sinh thái – hiện là công viên đất ngập quốc gia.
8.
Bạch Dương Hà Thủy Khố / Urumqi’s Baiyangdian (Baiho) Lake – 白杨河水库, Tân Cương: Được phục hồi thành đầm sinh thái gần Urumqi
giữa 2016–2019.
Cho
tới nay Trung Quốc đã giải quyết được ô nhiễm thành công, với quy mô lớn và độ
sâu ô nhiễm cao, với áp dụng mô hình Khoa học Môi trường của hồ Nhĩ Hải. Chính
sách đồng bộ – từ ngăn xả thải, xử lý nước thải đến bảo tồn vùng ven hồ – được ứng
dụng nhân rộng ở nhiều khu vực khác trên cả nước.
BÍ QUYẾT VÀ GIẢI PHÁP:
Việc
Trung Quốc phục hồi thành công các hồ nước ngọt từng bị ô nhiễm nghiêm trọng là
một phần trong “quốc sách” cải thiện môi trường và phát triển bền vững trong những
năm gần đây. Một số bí quyết và giải pháp chính giúp Trung Quốc thành công
trong việc “làm sống lại” các hồ nước ngọt bao gồm:
1.
Kiểm soát nghiêm ngặt nguồn ô nhiễm. Đóng cửa hoặc di dời các nhà máy gây ô nhiễm:
Chính phủ yêu cầu các khu công nghiệp ven hồ phải di dời, chuyển đổi công nghệ
hoặc đóng cửa nếu không đạt tiêu chuẩn môi trường. Quản lý nước thải đô thị:
Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, yêu cầu tất cả nước thải phải được
xử lý trước khi xả ra hồ.
2.
Khôi phục hệ sinh thái tự nhiên, tái tạo vùng đệm sinh thái ven hồ. Trồng cây
thủy sinh (sen, súng, lau sậy), tạo vùng đệm lọc nước tự nhiên. Thả các loài cá
lọc nước: Như cá trắm cỏ, cá mè trắng… để kiểm soát tảo và chất hữu cơ. Hạn chế
việc nuôi trồng thủy sản theo hình thức công nghiệp, chuyển sang nuôi sinh thái
thân thiện hơn.
3.
Ứng dụng công nghệ mới: Công nghệ sinh học. Dùng vi sinh vật phân hủy chất hữu
cơ trong nước. Hệ thống giám sát thông minh: Lắp cảm biến và hệ thống AI giám
sát chất lượng nước theo thời gian thực. Kỹ thuật “nạo vét sinh thái”
(ecological dredging) là nạo vét bùn đáy ô nhiễm mà không gây ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh.
4.
Huy động nguồn lực và quyết tâm chính trị: Đầu tư mạnh mẽ của chính phủ trung
ương và địa phương, với hàng tỷ USD cho các dự án phục hồi hồ. Áp dụng chính
sách nghiêm minh: Cán bộ địa phương chịu trách nhiệm nếu chất lượng nước không
đạt. Thực hiện theo kế hoạch dài hạn (thường là từ 5 – 10 năm hoặc lâu hơn), kết
hợp giữa môi trường – phát triển đô thị – du lịch.
KẾT LUẬN VỚI BÀI HỌC
RÚT RA TỪ HỒ NHĨ HẢI:
Phục
hồi các hồ nước ngọt — không chỉ là ứng dụng triệt để những kiến thức về Khoa Học
Môi Trường, và cũng để thấy rằng không thể làm trong một thời gian ngắn – theo
kiểu tư duy nhiệm kỳ – mà cần sự kiên trì có thể từ hơn 2,3 kế hoạch ngũ niên,
với đầu tư đồng bộ và sự hợp tác giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân. Với
một chiến lược rõ ràng, một nhà nước có tinh thần trách nhiệm với lòng yêu nước
yêu dân và có quyết tâm chính trị cao, hoàn toàn có thể cứu sống và phục hồi
các hồ nước ngọt khỏi tình trạng “chết dần”.
NGÔ THẾ VINH
Erhai
& Dianchi Lakes Visited September 2002
GWRS
Visited 2017 & Revisited June 13, 2025
Long
Beach July 4, 2025
Tham
Khảo:
1/
Tường Trình Từ Vân Nam_ Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Ngô Thế Vinh 09.2002 [Nxb
Văn Nghệ 2007]
https://online.fliphtml5.com/msgrj/wcst/#p=1
2/
Reviving Erhai Lake: A Socialist Approach to Balancing Human and Ecological
Development. Xiong Jie & Tings Chak 2024
https://thetricontinental.org/wenhua-zongheng-2024-2-reviving-erhai-lake/
3/
Yunnan’s largest freshwater lake (Dianchi Lake) comes back to life. Zheng
Jinran, Peng Chao & Dang He. China Daily 24.08.2024
https://global.chinadaily.com.cn/a/202408/31/WS66d2f89ea3108f29c1fc96a6.html
No comments:
Post a Comment