Cam
Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Mưa. tranh Đinh Trường
Chinh
Đoan
đun thêm một cây củi vào lò. Cây củi hình như còn hơi ướt. Bọt nước tươm ra,
kêu lèo xèo ở phần gốc. Khói tỏa lên làm mắt Đoan cay xé. Nhà ở thành phố, đun
củi, khói luẩn quẩn khó thoát ra, làm tường nhà vàng vọt. Đâu cũng vậy thôi,
Đoan nghĩ thế và thở dài.
Bạn
Trâm chuẩn bị nồi để nấu cơm. Đoan nói:
“Khoan
đã, Trâm, chờ mình một lát.”
Rồi
Đoan mở túi xách, lấy ra một gói nhỏ. Trâm nhìn, tỏ ý chưa hiểu. Đoan nói:
“Mình
có mang lon gạo.”
Đôi
mắt Trâm mở to, rồi nhìn xuống, nhưng Trâm không phản đối. Trâm đổ “lon gạo” của
Đoan vào nồi, rồi giở nắp thùng gạo lấy thêm hai lon nữa, đem vo.
Thấy
Trâm buồn buồn, Đoan an ủi bạn:
“Trâm
nè, ai cũng vậy, không phải chỉ tụi mình. Thời buổi này, gạo ăn theo “tiêu chuẩn”,
không phải như trước. Tụi mình phải chấp nhận và… đừng nghĩ gì hết. Mình đi học,
được bán gạo cũng khá, Trâm đừng lo. Má mình dặn đến thăm ai, ở lại ăn cơm,
cũng nhớ mang phần gạo của mình.”
Trâm
gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong
sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”,
mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng
“mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra
trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì,
cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và
một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá
cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở
thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường
bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu
có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi. Và từ lúc nào, hai chữ “tiêu chuẩn”
đã trở thành quen thuộc, thường nghe trong lời nói chuyện của mọi người. Gạo
tiêu chuẩn, thịt cá tiêu chuẩn, đường tiêu chuẩn, bột ngọt tiêu chuẩn… nghe mãi
thì quen.
Hai
đứa nấu cơm, luộc rau xong, nhưng để đó. Ăn phải có giờ! Chờ mạ và em của Trâm
về sẽ cùng ăn. Đôi bạn bắt đầu mang chồng nón lá ra, làm phần việc của mình: viền
nón lá bằng chỉ màu. Không biết ai đó đã có sáng kiến viền nón thế này, trước
đây Đoan chưa hề thấy. Có lẽ là để cho “màu mè” bắt mắt? Đoan và Trâm dùng kim
lớn và chỉ len màu xanh hoặc đỏ vắt xung quanh vành nón, ra hình rẻ quạt ba
chân, như dấu chân chim. Xem vậy chứ không hề dễ, phải làm sao cho đều và cho
nhanh thì mới kịp giao. Tiền công thì rất eo xèo, mỗi cái nón viền xong chỉ được
vài hào. Không chỉ việc này, mà Đoan cùng với nhà Trâm làm rất nhiều thứ việc lặt
vặt khác để kiếm tiền, nào dán bao giấy, nào vẽ chụp đèn, nào kết nút áo, nào vấn
thuốc lá… Chưa hết, hai đứa còn rủ nhau đi Lái Thiêu, Bình Dương mua đường tán ở
ngay lò đường về bán lẻ. Thời thế tạo việc làm! Ai cũng muốn kiếm thêm chút tiền
để mua gạo, mua thức ăn. Tất cả mọi thứ đảo lộn sau cuộc đổi tiền. Cách sống rộng
rãi của người miền Nam dần dần mất đi. Cùng lúc với chuyện đổ ra làm những việc
thủ công lặt vặt, là chuyện bán đồ đạc trong nhà để có tiền ăn. Cái gì cũng
bán, từ cái tủ gỗ chạm xà cừ hay cái mâm đồng nặng trĩu, cho đến quần áo cũ, giấy
vụn…
Viền
xong chồng nón lá, hai đứa lên lầu. Từ ngày Trâm thi rớt Tú Tài và nghỉ học,
đôi bạn chỉ còn gặp nhau vào cuối tuần. Những lần như thế hai đứa lại mang đàn
ra đàn hát với nhau. Có khi ba của Trâm nói vui:
“Hai
đứa ni, no cũng đàn, đói cũng đàn.”
Và
ông cũng là người giúp đỡ hai đứa nhiều nhất. Ông gắn điện vào cây đàn guitar
thùng của Trâm, ông lo dàn âm thanh cho lũ trẻ chơi đàn mỗi khi họp bạn, ông
lăng xăng chụp ảnh cho lũ trẻ, loại máy ảnh to cồng kềnh, mỗi lần chụp xong một
tấm hình lại phải quăng đi một cái bóng đèn.
Thế
mà…
Hai
đứa cùng thở dài khi nhìn thấy cây đàn và những tấm hình vui vẻ ông chụp cho lũ
nhóc và phóng to treo trên tường. Trâm thốt lên:
“Nhớ
Ba quá!”
Đoan
cũng nói:
“Nhớ
Ba quá!”
Rồi
hai đứa nhìn nhau, ứa nước mắt.
Đoan
biết ba của Trâm qua hình ảnh một ông già nhân hậu, tuổi ngoài bảy mươi. Ông là
Thiếu Tá Bộ Binh đã giải ngũ rất lâu rồi, nhưng vẫn phải vác hành trang đi vào
trại tập trung có tên “trại cải tạo”. Dù bề ngoài ông có vẻ khỏe mạnh, nhưng với
tuổi tác của ông, người nhà không thể nào yên tâm cho được. Mạ của Trâm khóc hết
nước mắt rồi cũng phải cam chịu làm người chinh phụ thêm một lần nữa. Thời gian
đầu không có tin tức gì. Cho đến mấy tháng sau, nhà nhận được thư ông, nói rằng
ông đang ở trại tù Suối Máu. Suối Máu, thế thôi! Không thư từ gì thêm. Không
cho thăm viếng. Không biết ngày về.
Đoan
đàn cho Trâm hát. Bài hát không còn vui vẻ. Giọng hát của Trâm như nghẹn lại.
Tiếng đàn của Đoan nghe ray rứt. Ngày mai đến trường lại họp tổ, lại học chính
trị, lại phê bình, kiểm điểm... Đoan chỉ còn đứa bạn này là không xa cách với
mình. Thôi thì viền nón, dán bao, vẽ chụp đèn, vấn thuốc lá với bạn. Thỉnh thoảng
lại rủ nhau đạp xe đi Lái Thiêu, đi Bình Dương mua đường về bán, thưởng thức tại
chỗ những mẩu đường “rẻo” nóng hổi ngon như kẹo “sô-cô-la”, quà tặng của người
chủ lò đường tốt bụng.
Trâm
chợt ngừng hát, hỏi:
“Đoan
ơi, không biết… Ba ở trong đó có được đàn không nhỉ?”
“Ồ,
không biết đâu Trâm ơi! Mà dù họ có cho Ba đàn, Ba làm sao có cây đàn?”
“Chắc
Ba sẽ tự làm cây đàn. Ba giỏi lắm mà, cái gì Ba cũng làm được.”
“Ừ,
Ba vẫn thường chế các dụng cụ cho tụi mình đó!”
“Không
biết… Ba có phải làm việc nặng nhọc không nhỉ?”
“Có
thể. Nhưng Ba đã già quá mà, chắc họ phải đối xử khá một chút.”
“Làm
sao biết được. Ba ở tù mà!”
Hai
đứa im bặt, chợt thấy mình ngô nghê như con nít. Đúng là không biết gì hết.
**
Suối
Máu! Cái tên mới nghe thì sợ, nhắc mãi cũng quen. Đoan băn khoăn tự hỏi không
biết cậu của mình có đang ở trại Suối Máu hay không. Và anh Đan nữa. Họ đều đã
đi “trình diện” và chưa thấy nhắn về, chưa biết ở đâu.
Mỗi
ngày, ở nhà dì, mâm cơm càng lúc càng buồn. “Buồn”, thật ra là khổ. Thịt cá hầu
như còn rất ít, rau chiếm phần nhiều. Còn cơm gạo càng thảm hơn. Nồi cơm nấu
xong nhìn thấy màu xám xịt. Cơm độn, màu khoai chiếm nhiều hơn màu gạo. Có khi
đang nhai, trúng phải lát khoai sùng, nghẹn ngào không muốn nuốt. Gạo thì chẳng
khá gì, chỉ là gạo mục, gạo mốc, có lẫn sạn và sâu. Có hôm dì reo lên vì đã
“phát minh” ra cách mới để nấu bo bo cho mềm. Dì khoe đã tìm thấy chỗ có máy
xay gạo, họ nhận xay bo bo cho vỡ nhỏ ra, vỏ hạt cũng tróc đi, nấu sẽ mềm và ăn
không “chợt ruột.” Thật thế, sau một thời gian biết ăn bo bo, nhiều người đã bị
chứng đi tiêu ra máu.
Thế
nhưng cái khổ vì ăn vẫn không đáng kể. Cái khổ tâm của gia đình mới là quan trọng.
Ánh mắt, vâng, ánh mắt của những đứa con của cậu, thật khó tả. Cậu vào “trại cải
tạo”, một thời gian sau mợ gửi đám trẻ cho dì, mợ đi buôn cùng bạn bè để kiếm
tiền nuôi con. Nói là “đi buôn” cho sang, mợ chỉ là buôn bán nhỏ, tìm những mối
hàng như trà, cà phê, gạo, đi từ tỉnh này qua tỉnh nọ để bán. Những người “đi
buôn” như mợ mang những cái túi như túi quần áo, đi trên những chuyến xe đò nhếch
nhác, đa số là những chuyến xe đêm, trốn tránh các trạm thuế vụ. Có khi cũng bị
bắt vào trạm, bị tra hỏi, bị thu hàng, bị phạt tiền, mất trắng. Những đứa trẻ
thiếu tình cha mẹ, dù sống an lành với bà con, vẫn như khắc khoải, như mong chờ
một cái gì. Gia đình cậu mợ không thể trở về Đà Nẵng như những gia đình khác,
như vợ con anh Đan chẳng hạn. Lũ trẻ không có chỗ để tiếp tục đi học. Không muốn
ngồi chơi, hai đứa lớn, tuổi mười bốn mười lăm, ngày ngày vác túi trên vai đến
nhà người bà con để vấn thuốc lá bán lẻ. Mấy đứa nhỏ ở nhà. Chờ, và chờ. Buổi tối,
hai cháu lớn về nhà, người nhễ nhại mồ hôi, ánh mắt mệt mỏi. Những ánh mắt khi
vào bàn ăn cơm mới thật là khó tả. Cơm độn. Cơm rau. Không có gì hấp dẫn. Cả
nhà dì không biết phải làm sao. Mọi người ăn cơm nhưng tránh nhìn ánh mắt của
nhau. Tội nghiệp.
Thương
cậu và anh Đan đi mà chưa có tin về. Họ có ở đó, Suối Máu, hay không? Suối Máu, nghe đã quen dù chưa đến. Nhưng có
một điều khá chắc chắn, là ba của Trâm đang ở đó.
Ý
nghĩ đến thật đột ngột nhưng đủ mạnh mẽ để Đoan chia sẻ với Trâm. Và, đôi bạn
đã quyết định làm một chuyến đi.
**
Hai
đứa không dám nói cho nhà biết, hẹn nhau ra ga xe lửa, đi từ Sài Gòn ra Biên
Hòa. Mỗi đứa đi một chiếc xe đạp, chọn đi toa chở hàng để có thể bỏ xe đạp lên,
nhưng người thì phải đứng vì không có ghế. Toa xe chật ních các bạn hàng, họ
cũng đứng, bên cạnh là những túi, những bao, hoặc cả gióng gánh.
Vậy
mà hai đứa cũng đã đứng được mấy tiếng đồng hồ trên toa chở hàng. Xe lửa chạy ì
ạch, giục giặc như người say rượu. Lâu nay không ra khỏi thành phố, hai đứa ngắm
cảnh bên đường như người lạ mới đến. Con đường này, Đoan giật mình khi nhớ đến
những ngày ly loạn, chập chùng người và xe đổ về Sài Gòn từ các nẻo. Cũng con
đường này, Thắng trở về trên xe tải thương của đơn vị. Trong tâm, vang vọng tiếng
gọi như gió thoảng “Thắng ơi! Thắng ơi!” Đoan bàng hoàng. Thắng cũng như gió,
đã biến mất.
Đến
ga Biên Hòa, Đoan và Trâm xuống cùng với hai chiếc xe đạp. Hai đứa nhìn theo
đoàn xe lửa tiếp tục chạy. Nó sẽ chạy ra đến Bắc.
Hỏi
đường, và leo lên xe đạp, hai đứa đi vào một con đường gập ghềnh, trước đây có
lẽ đã là đường nhựa nhưng giờ thì loang lổ những ổ gà. Ngừng lại trước một hàng
rào với cửa ra vào hẹp chút xíu chỉ vừa đủ cho một người lọt qua, hai đứa bỗng
hồi hộp và hơi sợ, khi thấy cái chòi canh trong đó có khẩu súng máy chĩa vào
trong trại. Một người lính bộ đội mặt lạnh ngắt hỏi:
“Đi
đâu?”
Đoan
nói thay bạn:
“Dạ
chúng tôi muốn hỏi thăm tin tức người nhà…”
“Người
nhà là sao?”
“Dạ
người nhà… học tập ở trong trại này.”
Người
lính lắc đầu, vẫn giọng lạnh lùng:
“Không
có cho thăm hỏi gì cả.”
Trâm
nói nhanh:
“Dạ
không, chúng tôi chỉ muốn biết ba của chúng tôi có được khỏe mạnh không, xin
ông giúp giùm. Ba chúng tôi tên là…”
Giữa
câu nói của Trâm, hai đứa kịp nhìn kỹ gương mặt người lính bộ đội này trẻ măng.
Nhưng thôi kệ, cứ gọi là ông, không mất gì.
Đoan
tiếp lời:
“Thưa
ông, từ ngày ba chúng tôi đi… học tập, chúng tôi chưa được gặp. Ông đã già lắm
rồi, không biết ra sao…”
Trâm
cất giọng nài nỉ:
“Ông
giúp giùm, cho chúng tôi hỏi thăm, ba chúng tôi tên là…”
“Không
biết.”
Gương
mặt kia vẫn lạnh lùng, như thể người này đã được dạy phải làm như thế, và chỉ
được phép nói những câu ngắn ngủn. Hai đứa thất vọng. Bỗng chốc Đoan nhớ lại những
câu chuyện cậu thường kể cho Đoan nghe, khi xưa cậu đã đối xử nhân đạo với những
tù binh như thế nào. Ba của Trâm cũng vậy. Và Lưu, người bạn y tá quân đội của
Đoan, người đã gửi một cái chân trong đất, khi đối diện với thương binh phía
bên kia, cũng đã không ngại ngần băng bó, chữa bệnh cho họ.
Bây
giờ đã khác. Họ là kẻ thắng.
Hai
đứa không hẹn nhưng cùng đưa mắt nhìn vào trại. Khu đất khô khan hầu như không
có cây cỏ mọc. Nhiều ngày không có mưa đã khiến mặt đất khô nứt. Xa tít bên
trong là những dãy nhà mái tôn san sát nhau. Hai đứa cố nhướng mắt lên để nhìn.
Không một bóng người. Chắc họ đã đi lao động ở một nơi nào…
Bỗng
nhiên Trâm rơm rớm nước mắt, lại nài nỉ:
“Ông
ơi!...”
Người
lính xẵng giọng:
“Về
đi!”
Rồi
như để thị oai, hắn chạm tay vào khẩu súng máy. Hai đứa giật mình, nhìn nhau.
Trâm lắc đầu, dắt xe đạp đi trước, Đoan làm theo. Hai đứa lên xe, đi ngược trở
lại con đường đầy ổ gà. Buổi xế trưa, nắng gay gắt như vỡ vụn theo từng vòng
xe.
**
Trước
khi về đến nhà của Trâm, hai đứa đi ngang một nơi đông người đứng chen chúc.
Thì ra là cửa hàng bán “cá tiêu chuẩn.” Trâm chép miệng, nói:
“Họ
mua cá xô, Đoan ạ.”
“Ừ,
cá xô.”
Như
cũng đã quá hiểu, nghe quen rồi, chẳng phải thắc mắc nữa. “Cá xô” là cá đủ loại,
cá tạp, người dân mua về muốn nấu món gì tùy ý, nhưng phải chuẩn bị tinh thần
là có rất nhiều xương. Gặp lúc may mắn mua được cá nạc thì đỡ khổ, còn thường
thì gặp cá lăn tăn, cá vụn, cá nát, cá ươn. Có người nói vui là “cá Liên-xô”.
Có người chua chát nói “cá xô” vì người mua tuy xếp hàng nhưng phải xô đẩy nhau
mới mua được. Mà không dễ gì được mua cá xô. Phải có sổ.
Thấy
Trâm chạy chậm hẳn lại, mắt dáo dác, Đoan hỏi:
“Sao
đó Trâm?”
“Ơ…
Trâm coi có mạ hay em Trâm ở đây không.”
“À,
mình xem thử có bác hay em không.”
Hai
đứa cùng tìm. Không thấy. Trâm lẩm bẩm:
“Lạ
vậy? Sao nhà không ra mua cá?”
Nghe
câu nói này cảm thấy tủi thân quá, hai đứa im lặng. Tủi thân vì muốn có cái ăn
thì phải xếp hàng, có khi dang nắng, đội mưa? Tủi thân vì mình tạm có cái ăn
trong khi Ba ở trong trại không biết no đói ra sao? Không giải thích được. Cảm
xúc hỗn độn trong đầu. Đoan thấy như mình bị say nắng. Mà thật, cả một buổi
trưa đạp xe nơi vùng khô cháy đó, da của hai đứa đã sạm đen, đầu óc chơi vơi,
chỉ muốn được ngả lưng đâu đó ngủ một giấc.
Đã
về tới nhà. Trời đã tối nhưng không thấy đèn. Trâm và Đoan chạy vội vào, dựng
xe đạp trong sân. Có người ở trong nhà. Tiếng khóc thổn thức vọng ra. Mạ và em
Trâm trong đó. Trâm kêu lên:
“Mạ!
Có chuyện gì?”
Đoan
nhanh tay bật đèn lên. Ánh sáng chói lòa. Mạ và em Trâm ngồi ở phòng khách, vẻ
mặt trông thật lạ. Mọi người nhìn nhau, câm nín trong một khoảnh khắc tưởng như
vô tận.
Mãi
đến một lúc, mạ của Trâm bật được tiếng nói:
“Họ
tới nhà, báo… ba con đã mất trong trại vì bệnh kiết lỵ. Họ nói mình không cần
làm gì hết. Họ đã chôn ba con trong trại… Con ơi! Mình ơi! Tôi chết mất!”
Trâm
kêu lên:
“Không!
Mạ ơi! Ba ơi!”
Đoan
ôm vai bạn. Nhưng Trâm đứng cứng ngắc như một bức tượng đồng. Cảm giác của Đoan
cũng mất hết. Trong một tích tắc, Đoan như thấy mình đang đứng trước cổng trại
Suối Máu. Nắng chiếu chói lòa, nhức nhối. Một đoàn người lam lũ đi dưới nắng.
Có cậu của Đoan trong đó không? Có anh Đan trong đó không? Một ông già ngã quỵ.
Người ta đưa ông vào một trong những dãy nhà lợp tôn. Căn bệnh quái ác hành hạ
ông, hành hạ nhiều người khác. Bệnh dịch.
Ông
già yêu văn nghệ, người lính già giải ngũ đã lâu, ở trong đó có được đàn không
nhỉ? Mà dù được, thì đàn đâu ông đàn? Chắc ông sẽ tự làm một cây đàn? Ông giỏi
lắm mà! Cái gì ông cũng làm được…
CAM
LI NGUYỄN THỊ MỸ THANH
(Trích
Chuỗi truyện ngắn “Những Ngày Nắng Vỡ”)
No comments:
Post a Comment