Phố Văn trân trọng giới thiệu:
duyên
lê chiều giang
nguyễn thị khánh minh
Trình bày bìa: Đỗ Thanh Tùng
Trình bày trang trong: Hà Thu Hương
Tựa: Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp
Bạt: Nhà Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhận định: Nhà văn Trịnh Y Thư
Tranh chân dung: Đinh Cường – Đỗ Hồng Ngọc
Sách dày 224 trang, bìa mềm, khổ 5.5” x 8.5”
Nhà xuất bản: Văn Học Press tháng 3/2025
hoặc liên lạc:
Duyên: zooenbui@gmail.com
Lê Chiều Giang: lchieugiang@gmail.com
Nguyễn Thị Khánh Minh: ngkhanhm@gmail.com
TỰA TẬP THƠ BA NHÀ THƠ NỮ
Một ngày đầu thu, ngồi viết đôi trang về thơ
của ba nữ lưu thời nay, sao bỗng thấy lòng xúc cảm lạ thường. Như ngày nào khi
dạo chơi trong khu vườn Gitanjali bỗng gặp lại bông siêu ly thuở còn mơ mộng.
Như ngày nào khi hoàng hôn xuống lái xe qua cây cầu cao ở Baton Rouge bỗng thấy
vầng trăng lồng lộng trên sông. Hay như cách đây hơn mười năm, khi đi chơi vùng
biển Laguna bỗng gặp lại người xưa – đầu đội nón rộng vành, mang kính đen, ngồi
dưới bóng dù, tay lật xem thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Vậy đó. Xin mời bạn đọc theo
dõi những trang sau đây viết về ba nhà thơ nữ: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn
Thị Khánh Minh. Ô, lần đầu tiên ba nhà thơ nữ họp mặt nhau trong cùng một tập
thơ. Một cuộc hội ngộ tuyệt đẹp.
Xin
được mở đầu với thơ duyên.
Thơ
duyên ít xuất hiện trên sách báo nhưng bạn bè biết nhiều về duyên qua những
Blogs thân quen của Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai, và Phố Văn, hay qua
emails khi chuyện trò trao đổi. Duyên thường thực hiện những bookmarks và vẽ những
bức tranh nhỏ gợi cảm gởi tặng bạn bè có khi kèm theo những bài thơ ngắn dễ
thương. Chúng ta có thể đọc, nhìn thấy qua phần Thơ Duyên trong tuyển tập.
Riêng tôi rất thích hai bức Mùa Thu Chết và Lá Đỏ cùng những mảnh tình duyên gởi
trong thơ.
Đọc
thơ duyên ta gặp một hồn thơ mở ra với thiên nhiên, nhân hậu, hòa ái với người,
với đời. Duyên yêu mến thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Thiên nhiên trong
thơ duyên như tranh của họa sĩ hiện ra với đường nét bay múa, sắc màu rực rỡ,
như trong bài: Về. Với Mùa Thu
sau
chuyến bay dài
đêm
thâu. không ngủ
chờ.
mặt trời
đợi.
sáng, nắng bình minh.
dễ
thương chi, khi
mùa
thu. vẫn… đó
đợi.
chờ.
kìa,
cây ginkgo nhỏ
vàng
tươi.
trong
nắng sớm.
lá
nhu mì. vẫy. gọi
bước
chân ai, về
lãng
đãng. mù sương.
Duyên
yêu mùa thu. Mùa thu hiện ra với nhiều dáng vẻ trong thơ duyên:
lại
kể nhé
chuyện
vườn xưa. khi mùa thu tới
ba
cây đào, đổi lá vàng. ngập cả lối đi
cây
redwood, lá màu hổ hoàng. tuyệt đẹp
mỏng
manh trên cành, đâu sợ mùa đông
Thiên
nhiên chuyển màu rất đẹp từ thu sang đông với ý tình cảm xúc:
rồi
ngày lập đông. tuyết rơi. rơi. mãi…
cành,
trụi lá. màu chì. ảm đạm
nhìn
ra trời. trời. đất, quá bao la
mùa
đông lê thê…
nhớ.
Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng
tản
cư về. về lại, mái nhà xưa
nơi.
thi sĩ kể thơ. tình mê đắm
vẫn
lạc loài, hình bóng Lara…
Thiên
nhiên trong thơ duyên hiện ra với vẻ rực rỡ dù trong cảnh mùa đông. Thiên nhiên
hay mùa thu còn làm nền cho cái chết của người thi sĩ. Những chiếc lá khô rụng
xuống, chất chồng đủ nhóm lên lửa ngọn. thi sĩ về trong những chiếc lá khô:
gió
đã đổi mùa
không
gian. lạnh
trong
mênh mông
đất
trời
gió
cuốn. lá rơi…
đủ.
để đốt thành lửa ngọn.
ngọn
lửa. bập bùng
đêm
trăng, khuyết
người
thi sĩ
đã
về. trong
những
chiếc lá khô…
Lá
đỏ của mùa đông còn là cái chết của người bạn nhỏ, tên Ch.
Em
chiếc
lá nhỏ, thật đỏ, quá đẹp của mùa thu
sao
lìa cành vội vã. sớm đông
chiều
qua. có lẽ là em
con
chim nhỏ
về…đậu
lại trên cành cây trụi lá
trong
tuyết trắng mênh mông
chim
buồn, nên không hót.
Trong
thơ Duyên còn có tình bạn. Duyên cảm thông những mất mát đau đớn của bạn bè nên
chia sẻ cùng bạn những tình cảm chân thật. Đinh Cường, Trần Hoài Thư, Nguyễn Bắc
Sơn, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Xuân Thiệp… và nhiều người nữa được nhắc tới trong
thơ duyên. Đây là những người bạn của cõi văn chương ở những năm tháng lãng
đãng của cuộc đời.
Với
Đinh Cường, một tình bạn của hội họa và văn thơ. Đinh Cường là người hiền hòa dễ
mến, bạn bè ai cũng yêu quý. Sinh thời, Đinh Cường từng vẽ chân dung cho duyên
và làm thơ tặng. Những câu thơ, bức tranh luôn nhắc tới một tình bạn như vầng
trăng đầu núi. Trên chuyến tàu nào, lần cuối trở về, có giọt lệ trên mi mắt…
Với
Trần Hoài Thư là qua thông cảm từ trang sách đề tặng với nét chữ run run và cơn
bệnh đột quỵ của nhà văn hiền hòa. Ôi những tình cảm thân thương quý biết nhường
bao.
Nguyễn
Bắc Sơn, người đã ra đi còn để lại bóng hình và những câu thơ như Thương tiếc
đám mây bay. Cuộc chiến khốc liệt đã để lại nhiều mất mát. duyên đã cảm thông
sâu xa với phận con người trong chiến tranh.
Đỗ
Hồng Ngọc và Nguyễn Xuân Thiệp, hai người bạn văn chương khác, duyên nhớ đến,
khi lần giở những trang thơ: về thu xếp lại (ĐHN), cô bé đi vớt mặt trời (NXT),
bức tranh thơ (NXT).
Duyên
với tấm lòng nhân hậu đã cùng hai bạn tìm về những kỷ niệm đầm ấm, cả những đổ
vỡ trong đời, để cảm thông, chia sẻ.
Với
Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ đã một thời đơn phương yêu duyên với mối tình cuồng
si, yêu như thiên tai không bờ cõi – duyên nhắc về Nhiên bằng trích dẫn thơ. Và
rồi như cánh buồm la paloma xa xưa trôi đi không về lại. Còn nhiều, còn nhiều bạn
bè nữa, được gọi tên trong thơ duyên.
Tình
yêu gia đình trong thơ duyên thật thắm thiết. Nó được thể hiện qua bốn đứa
cháu. Oliver, Millie, ViVi, Larkin. Tôi biết các cháu qua hình ảnh duyên gởi.
Duyên sang thăm ViVi khi cháu đầy tháng tuổi, về lại nhà ở bên kia hồ Michigan.
Chiều xuống bà ở bên đây hồ Michigan nhìn sang bên kia, Chicago gởi những nụ
hôn cho cháu. Thiệt là dễ thương.
Với
các cháu khác, duyên đều rất thương yêu. Hãy nghe duyên trò chuyện với Oliver:
Đóa hoa đỗ quyên nở ấm áp khi nghe tin cháu ngoại Oliver nhắn qua điện thoại:
cuối tuần sẽ về thăm bà. Oliver sẽ đem soup (wonton soup) nấu cho bà vì nghe bà
đang bệnh. Đọc thơ duyên xem đối thoại giữa ba bà cháu, với ViVi và Larkin, dễ
thương quá.
Bằng
lối viết tự nhiên, thơ duyên mang đến cho người đọc lòng tin yêu. Ta thấy ở đó
một hồn thơ nhân hậu và hòa ái.
Bây
giờ xin nói về Lê Chiều Giang.
Tôi
gặp Nghiêu Đề lần đầu tiên ở Đà Lạt trước 1975 ở nhà một người bạn gái. Nghiêu
Đề nói chuyện rất vui và có duyên. Sau 1975, tôi gặp lại Nghiêu Đề và Giang ở một
quán cà phê bên chợ Thanh Đa. Tôi ở lô J và Nghiêu Đề ở lô G của cư xá. Sau này
đọc những bài viết của Chiều Giang, tôi biết thêm thời đó Nguyễn Đình Toàn,
Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Quang Lộc, Duy Trác, thường họp mặt hát hò ở căn nhà của
Nghiêu Đề hoặc trên chiếc thuyền nhỏ trên sông Thanh Đa.
Sang
Mỹ, trong một cuộc hội ngộ Văn Học ở hội báo Người Việt do Khánh Trường tổ chức,
có Thái Thanh, Mai Thảo, Lê Uyên Phương và nhiều người nữa. Nghiêu Đề nói đùa với
tôi: “Tôi đã đọc nhiều thơ của ông trên Văn Học, ông phải trả tiền cho tôi đó
nghe.” Thời gian trôi qua, Nghiêu Đề đã ra đi vào năm 1998.
Tôi
đọc được những bài thơ ngắn của Giang trên Văn Học. (Bút hiệu Lê Chiều Giang chỉ
bắt đầu có khi Giang tham dự bài trong “Nguyễn Xuân Hoàng trong và ngoài văn
chương” do Da Màu thực hiện năm 2014).
Trong
một dịp gặp lại Lê Chiều Giang sau đó tại nhà Nguyễn Mộng Giác, tôi xin Giang
đăng lại một số bài thơ đó trên Phố Văn, và cho Giang biết tôi đã viết bài tiễn
đưa Nghiêu Đề trên tạp chí Phố Văn.
Từ
đó không có dịp gặp lại Chiều Giang nữa. Mấy năm sau, tôi được đọc thơ Giang và
cảm thấy yêu thích. Thơ của Giang thường là ngắn, như một tiếng kêu đau đớn biến
thành uất hận, như một cơn đồng thiếp của cảm xúc và chữ nghĩa.
Qua
những gì đọc được, ta biết tình yêu của Giang và Nghiêu Đề gần như một huyền
thoại giữa đời thường. Từ lúc còn là học trò dưới bóng mẹ cha, Giang đã thường
xuyên bỏ học, trốn nhà thờ, đến với giới họa sĩ chỉ vì mê mùi sơn dầu của những
bức tranh. Cuối cùng đã mê luôn chàng họa sĩ tài hoa.
Mối
tình đó theo Trịnh Cung là một tình yêu đẹp, mê muội và dữ dội. Dù không đưa
Chiều Giang đến chỗ phải tự tử theo chồng như nàng Hébuterne của họa sĩ
Modigliani. Giang vẫn tiếp tục sống trong cơn mê loạn, và Thơ đã cứu rỗi nàng
cũng như đã làm thăng hoa mối tình khiến nó trở thành vĩnh cửu. Cũng như
Hébuterne, Giang là người mẫu của Nghiêu Đề trong nhiều bức tranh. Bức tranh cuối
Nghiêu Đề vẽ Giang. “Vệt màu đỏ mỏng chàng vẽ dưới mi mắt nàng như sợi máu rỉ
ra từ tình yêu dành cho nàng mà chàng sắp phải từ biệt.” Trịnh Cung đã nhận xét
như thế.
Ta
phủ xác người bằng bức tranh xưa
Nét
vẽ sắc
Như
ngàn dao cắt
Vẽ
mắt ta từ ngày mới gặp
Mắt
tàn phai. Mắt của tàn phai. (Một chín chín tám)
Thơ
của Giang đúng là một thiên tình sử đầy giông gió thỉnh thoảng ẩn hiện một vầng
trăng ảo.
Tôi
gọi nó là Thiên Tình Sử của Trái Tim Điên. Theo bước chân thơ của Chiều Giang
ta đi vào cuộc lữ hành của cõi mê hoang, nghe ra tiếng thét, tiếng cười khan,
và cả tiếng khóc.
Ta
chôn chồng ta
Một
lần.
Duy
nhất.
Ở
giữa rừng gai không hoa trái mọc
Đất.
Đá.
Rực
cháy những lửa điêu tàn
Ta
đứng giữa trời
Lặng
thinh.
Không
khóc. (Một chín chín tám)
Ta
ngồi một mình
Trên
nóc nhà
Buổi
sáng
Trước
ngày bỏ đi
Khói
thuốc tan trong mây
Rượu.
Đổ
đầy máng xối
(Lên đồng)
Chiều
Giang ngồi trên nóc nhà và la hét, thấy những hồn ma cũ vật vờ bay, nghe những
tiếng xưa vang vọng và hát như điên trong cơn đồng thiếp. Và có lúc đành phải đốt
nhà…
Bới
tung.
Từng
góc nhà
Xó
bếp
Tay
nâng niu những tháng ngày xưa
Có
bao năm?
Mà
như thiên cổ
Nhà
ơi.
Giữ
lại giùm ta những gió mưa
Giữ
lại giùm ta ngàn tiếng nói …
…
Ra đi
Đốt
lửa căn nhà trống
Vung
vãi tàn tro
Khắp
đất trời. Và
Xóa
bàn đi làm lại hết
Ta
thả đời ta. Giữa
gió
bay. (Đốt
nhà)
Ta
biết Giang từng là người mẫu, nhưng đứng mãi trong tranh làm góa phụ cũng chán,
nên phải bước ra với mặt trời. Nhìn quanh đã chẳng thấy ai, cất tiếng gọi cũng
không ai trả lời bèn bước trở lại trong tranh như bỏ một cuộc chơi.
Muốn
bỏ cuộc chơi nhưng không được nên lại bước ra, tiếp nối cuộc hành trình của mệnh
số. Có khi muốn làm thiền giả, ngồi trong góc tối hay đi giữa trời lộng gió,
làm sa di ôm bình bát đứng giữa trời mưa nắng cho đến khi ngày hết, bình bát chỉ
còn chứa đầy bóng trăng. Cứ ngang ngang bương bướng để mơ thành họa sĩ, vẽ bức
tranh siêu thực với màu đỏ trên tóc và xám xanh trong mắt. Tay không mà bày cuộc
chơi vượt cả Lưu Linh, Tản Đà, Phạm Thái, Tử Kỳ.
Lưu
Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản
Đà? …Ta chấp hết
Mắt
sắc như kiếm dao
Chém
chơi. Vài
Phạm
Thái… (Bỏ
nhà)
Thơ
Chiều Giang là thế. Những bài thơ ngắn, ngôn ngữ trực tiếp, sắc bén, với lối ngắt
dòng khác lạ, tạo hiệu ứng rung cảm nơi người đọc. Thơ Lê Chiều Giang là tiếng
ca tiếng khóc trong cơn đồng thiếp của hiện sinh mê cuồng.
Thơ,
như chưa từng bao giờ có thơ như thế.
Và
đây thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.
Trước
hết, thơ ấu của Nguyễn Thị Khánh Minh đã là thơ. Đồng lúa, con sông, ngôi nhà ở
làng Thuận Mỹ, Ninh Hòa, ánh trăng bên bờ giếng cũ, những bông hoa giấy trên
sân nhà ở Nha Trang, tiếng còi tàu, bước chân của cha trở về… hồn thơ của Nguyễn
Thị Khánh Minh nở ra từ đó. Khánh Minh làm thơ ở tuổi còn để tóc bum bê cắp
sách đến trường. Ấy có lẽ do ảnh hưởng của cha mẹ. Song thân của Nguyễn Thị
Khánh Minh đều là nhà thơ, chủ nhân của lầu thơ Minh Minh. Nơi đó thường có mặt
Vũ Hoàng Chương, Hà Thượng Nhân, Hồ Điệp, Nguyễn Đức Quỳnh… Ở lầu thơ Minh Minh
của cha mẹ, Khánh Minh đóng vai cô bé pha trà và rồi ngâm thơ theo chỉ dẫn của
Hồ Điệp. Từ lầu thơ của cha mẹ, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã lớn dậy cùng với
những tháng năm với hoa lá và mây trời. Nguyễn Thị Khánh Minh mang thơ qua sân
trường Luật và những nẻo đường của phố xá Sài Gòn. Và, cho đến bây giờ.
Tôi
xin an lành gom hết những lời kinh nguyện. Bầu trời no tin cậy. Mầu xanh phủ hết
tai ương cho con người và trái đất chan hòa nương tựa. Tôi sẽ tìm về đêm bé thơ
thỏ thẻ với cha điều ước mơ chưa từng nói. Nếu có tìm tôi. Xin chờ mảnh sáng
sao băng.
Vậy
xin nương theo ánh sao đến với thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Thơ Nguyễn Thị Khánh
Minh, cũng như thơ Lê Chiều Giang, thơ duyên, không theo bất cứ khuôn khổ tiết
tấu nào. Nó là nhịp đập của thời gian và hơi thở người. Thơ Nguyễn Thị Khánh
Minh còn là thơ xuôi, thơ tản văn, mở ra một cõi trời hoang mơ.
Đọc
thơ Nguyễn Thị Khánh Minh ngay từ bài đầu tuyển chọn ở đây đã thấy tâm hồn nhà
thơ mở rộng với đất trời và nhân gian. Cảm động là cô muốn đem chia sẻ cùng cha
những tình ý ấy như thuở còn thơ.
Trong
bài thơ Khoảnh Khắc Giấc Mơ, cô bé Khánh Minh muốn dâng hết lời kinh
nguyện cho bầu trời bình yên với màu xanh phủ hết tai ương. Và cô sẽ tìm về một
nơi với vạt đèn khuya ủ những ý thơ trong cơn mơ, vì “tất cả mọi cảm hứng thi
ca đều là giải mã những giấc mơ”. Và cô nguyện nếu có bay đi xin bay về đồng
lúa thuở ấu thơ nơi quê nhà bình yên, với con tàu chuyên chở hội ngộ, tiếng cửa
mở sum vầy và bếp lửa trong căn nhà xưa. Còn nữa, thơ sẽ thắp lên ánh sáng của
sao hôm và sao mai, cô sẽ treo tiếng chim trước cửa để đánh thức ngày vui.
Trong ánh chớp của thanh xuân về lại, Nguyễn Thị Khánh Minh sẽ theo con sóng nhỏ
về nơi biển xanh hiền hậu của thời ấu thơ và ai kia muốn tìm lại hình bóng của
người làm thơ Nguyễn Thị Khánh Minh thì xin đến với hàng liễu xanh và con trăng
mới mọc…
…
Nếu có một nơi để nhớ. Vạt đèn khuya trỗi lên bài ca năm tháng. To nhỏ câu thơ
phút hôm nay ta sống cùng người. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm
tình tự. Nơi giấc ngủ một người, trái tim vẫn hoài đập trong khoảnh khắc của giấc
mơ…
…
Nếu thanh xuân là quà tặng. Sinh cho tôi đời lá non. Sẽ sống tận cùng xanh, hết
sức. Từng hạt mầm nuôi tôi trở lại cho dẫu hơi thở kia có không ngừng lặp lại nỗi
đau. Tôi sẽ về hay tôi sẽ đi. Lời chào ấy là phút tôi trao nhận một món quà vô
giá.
…
Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình
nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi
thực sống…
Đó
là tiếng nói của thơ. Tôi chưa thấy ai thao thức với thơ trăn trở với thơ như
Nguyễn Thị Khánh Minh. Khi viết xong bài thơ có khi cô khóc, và lạc giữa cõi
thơ như trong cơn mộng du. Cô mê sảng, cười điên cùng bài thơ, những con chữ có
khi là những giọt lệ. Cô nằm gai nếm mật hình thành bài thơ.
Trong
cơn mộng du chữ nghĩa, Nguyễn Thị Khánh Minh muốn thơ mình lang thang qua khắp
cõi bờ nhân sinh, Thơ đi vào quán nụ cười như để tìm vui. Đi vào quán đêm xin một
giấc mơ, rồi đi vào trường kịch nhân gian, vào con đường của kiếp dã tràng, ghé
thăm quán hoàng hôn, vào lòng đóa hoa xin mật ngọt, vào chung với bầy kiến, vào
đồng lúa, vào dòng sông… Tất cả là đi tìm hơi thở của sự sống…
Đọc
thơ Khánh Minh ta như được cùng tác giả hòa chung nhịp thở với thiên nhiên, bởi
đó không chỉ là ngắm nhìn với nỗi ơ thờ mà hòa nhập với thiên nhiên. Xin cùng với
nhà thơ bước vào đêm, hóa thân với sao trời và gió như có linh hồn – sao tắt, hồn
rơi và gió khóc đưa tang. Đêm thì ngất lịm trong chiêm bao, nghe tiếng ngày đi
run rẩy, nghe hồn cỏ thao thức, cây trút lá bơ vơ – rồi ngày lên mang chút niềm
vui sót. Nhà thơ đi vào đêm, đem theo nụ cười, chia sẻ những rạn nứt đổ vỡ của
đêm, nụ cười thơ làm nở một vì sao.
Tắt
một lời, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh cảm nghe được nhịp mùa, nhịp ngày đi đêm
tới. Có thể nào ta gọi thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là bản symphony của nhịp mùa
và thời gian. Riêng với Nguyễn này như được lạc vào vùng trời của Gitanjali
nghe thi nhân thổi lên bản hòa ca trên cây sáo bằng ống sậy.
Trong
thơ Khánh Minh còn có những khoảng trời của tình bạn. Nguyễn Thị Khánh Minh
chia sẻ cùng bạn những nét đẹp của sáng tạo, những ý tình lung linh hư ảo, những
nỗi chia xa.
Với
Duyên, cùng Duyên sống lại niềm vui và vẻ rực rỡ của thanh xuân ngày ấy.
Với
Đinh Cường: cảm thông cùng tiếng cọ của người họa sĩ và những sắc màu trong
tranh và nỗi đau cùng vẻ hư ảo của cuộc đời.
Với
Trịnh Y Thư: cùng bạn cảm thông với vệt nắng chiều đang tắt, bóng người con gái
ngồi cong lưng như mảnh trăng non, trong vẻ đời ảo hoặc, chia xa.
Với
Nguyễn Xuân Thiệp, cùng nghe tiếng chiều rơi trong tiếng con chim nhại và vẻ ảo
hoặc của mùa thu với màu hoa cúc quỳ vàng trong khu vườn của ngày đã xa.
Còn
nhiều. Còn nhiều những điều chưa nói về thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nhưng thôi,
chỉ xin cùng đọc một đoạn trong tuyển tập thư hương này:
Người
đem theo nụ cười
Đi
vào giấc mộng
Những
vì sao chưa mọc
Những
vì sao đã chết
Bỗng
nhận ra mình
Mất
tích bao năm
Người
đem theo nụ cười
Đi
vào bóng tối
Những
hạt lệ lặng lẽ
Những
hạt lệ vô hình
Bỗng
nhận ra mình
Bật
khóc
Người
đem theo nụ cười
Đi
vào những biên giới…
(Có Vì Sao Mới Mọc)
NGUYỄN
XUÂN THIỆP
Dallas,
tháng 11.2024
ĐỖ HỒNG NGỌC
D U Y Ê N
nỗi lá vàng cuối thu
duyên
không chỉ làm thơ. duyên vẽ. duyên chụp hình. duyên làm những bookmark thiệt dễ
thương để gởi bạn bè, nhắc nhớ mỗi khi lật từng trang sách, vì ngoài kia…
bên
khung cửa
lặng
nhìn chiếc lá vàng. rơi
một
mình...
The
Last Leaf
O’Henry,
Cho
nên đọc thơ duyên cứ nghe “Chân đi nằng nặng hoang mang… Ta nghe tịch lặng
rơi nhanh. Dưới khe im lìm” (TCS)
chợt.
hiểu ra rằng
mầu
đỏ, vàng kia tự bao giờ… đã
ngấm.
ngập
trái
tim ta.
Phải,
hình như những chiếc lá vàng kia vẫn luôn xào xạc, vẫn luôn thổn thức dưới
trăng mờ của con nai vàng ngơ ngác tự thuở nào kia.
và
khi trăng mờ, trên núi xa...
có
lá vàng. lìa cành vội vã…
có
mùa Thu, lành lạnh. gió thu, sang
Cô
bé đi vớt mặt trời của Nguyễn Xuân Thiệp không về nữa... nhưng Zhivago thì vẫn
về lại mái nhà xưa
Zhivago
trên cánh đồng tuyết trắng
tản
cư về. về lại, mái nhà xưa
nơi.
thi sĩ kể thơ. tình mê đắm
vẫn
lạc loài, hình bóng Lara…
Ơi
Lara. Rồi Lara hỏi Zhivago:
lá
đỏ. lá vàng… đẹp ngỡ ngàng
mỗi
độ sang Thu
lá
vàng ơi. dặm đường xa. có mỏi
Zhivago
còn biết trả lời sao?
Tôi
một lần kia đi giữa Boston với cả một mùa thu, trọn một mùa thu. Nhớ Xuân Diệu
với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về,
mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh,
và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng
vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu
điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả,
rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng
lá từng lá tràn ngập các lối đi.
Bỗng
nhớ Em không nghe mùa thu của Lưu Trọng Lư. Rõ ràng thu không phải để
dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để
nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái
tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh
thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ.
Tôi
bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới
chân tôi từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác như
chú nai vàng “xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về” (Huy Cận) đó vậy.
Lạ,
ở Mỹ người ta không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có
lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót
xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì
Fall, mà người ta dễ “fall in love” có phải? (Nghe tiếng thu giữa Boston,
ĐHN, 1993).
ngày
cuối Thu buồn tênh…
vầng
trăng chưa tỏ
bóng
những chiếc lá
thoi
thóp trong đêm
sẽ
vùi chôn theo…
mùa
Thu chết!*
Đọc
thơ duyên không chỉ thấy nỗi buồn dằng dặc bởi thu phai mà còn thấy lòng mình
như rộng mở, như những chiếc lá thu ngập thềm nhà, đẫm ướt mưa đêm mà còn biết
chất chồng lên nhau cố giữ hơi ấm cho nhau…
trở
về. sân nhà ngập lá
phủ
kín lối đi… cây ginkgo vườn sau trơ cành. gầy guộc
sót
lại. vài chiếc lá trơ vơ
thềm
lá vàng
chất
chồng lên nhau, chen mầu nâu, đỏ
đẫm
ướt dưới mưa đêm
cố
giữ hơi ấm cho nhau…
ngày
tàn thu
Tôi
chắc, một hôm thu kia, thế nào một chiếc lá vàng sẽ lắt lay trong gió nhẹ, mênh
mang và vĩnh cửu, chiếc lá vàng được vẽ bởi duyên chớ không phải bởi O' Henry,
phải không duyên?
LÊ CHIỀU GIANG
trên sông khói sóng… (*)
Thơ
LCG không phải thơ. Nó là tiếng thét, là tiếng thở dài não nuột. Đọc LCG thấy một
người thơ, sống như thơ, thở như thơ, sáng trưa chiều tối, từ trong tranh bước
ra, ngồi đó, ngó quanh, không thấy ai, lại bước vào trong tranh.
Chợt
nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi.
Gió
âm u, gió lồng lộng rừng khuya…
Lê
Chiều Giang vẫn cứ lẽo đẽo tìm theo những rêu phong của ngày tháng cũ, nhiều
lúc muốn xổ lồng bay xa mà vẫn ngập ngừng e sợ…
Cánh
cửa
Sầm.
Đóng lại
Chìa
khóa? Quăng lên trời.
Ta.
Bước
chân phiêu bạt
Tay
không,
bày
cuộc chơi.
Rồi
hét lên tôi cứ lẳng lơ, tôi rất lẳng lơ viết những chữ mông lung, vật vờ như
gió… sáng trưa chiều tối
Vẫn
có một bờ vực không thể vượt qua, cho dù cứ lẳng lơ, rất lẳng lơ như thế! Để rồi
Đứng
mãi trong tranh
Đóng
vai:
Góa
phụ
Sáng
nay ta
Ra
với mặt trời
Như
kẻ xa xôi về lại trái đất…
nhìn
quanh quất, vội vã bước trở lại trong tranh để:
…
Diễn tiếp
Hỡi
thế gian
Ta.
Bỏ
cuộc chơi.
(Đầu
hàng).
Trong
tranh, Lê Chiều Giang có lúc như ngựa chứng, tóc bờm tung bay phi nước đại, cổ
vươn cao ngoằng hí vang, dưới bóng trăng huyền hoặc lẫn bóng tối u mê giữa ngàn
lá biếc. Sự cách điệu không hài hòa làm cho gương mặt có sắc sáng như trăng, lại
thêm chút bóng tối của u mê. “Mắt tôi xếch và sắc như kiếm dao, bướng bỉnh đầy
ngạo mạn, điểm thêm với miệng cười khinh bạc”.
“Chút
khinh bạc, không biết bao lần đã nương bên tôi, đứng thẳng cùng tôi giữa đất trời,
bên một dòng đời vô cùng nghiệt ngã…” (LCG).
Giờ
thì tôi hiểu có một hôm nào, LCG đã gởi tặng Đỗ Nghê bài thơ Thiền giả: Ta đảo
điên. Ta bất chấp. Ta bới tung…Ta quăng kiếm. Ta bẻ gươm. Ta nằm im. Ta giả chết…
Toàn là hư chiêu hết đó thôi nhe! Đừng vội tưởng thiệt.
Chợt
nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió
âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay
trên cao mà nhớ
Bước
chân đi…
Sấp
ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh
tâm
Ta.
Thiền định
Thì
ra, đã là Sa Di Ni… từ lúc nào không biết. Cứ tưởng ngổ ngáo, ngang tàng, chọc
trời khuấy nước… ai ngờ vẫn đắm chìm trong một cõi vời vợi, xa xăm…
Thiền
Giả
Như
đệ tử Kim Dung. Múa
trên
đầu kiếm sắc
Ta
đảo điên.
Ta
bất chấp. Ta
Bới
tung... Chẳng hiểu ra
đời.
Đã
rất bao dung
Rất
nương nhẹ
Để
ta còn sống sót
Khi
thất bại
Ta
biết vờ đợi chết
Giả
nằm im. Nghe
trái
đất ngả nghiêng
Quá
thấm đòn
Ta
quăng kiếm
Ta
bẻ gươm
Cũng
biết thân. Ta ngồi im
Góc
tối
Chợt
nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió
âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay
trên cao mà nhớ
Bước
chân đi…
Sấp
ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh
tâm
Ta.
Thiền định
Cứ
tưởng ngang tàng bướng bỉnh, “giang hồ mê chơi quên quê hương”, ai dè mới
nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà, đã thút thít. Phải chi có một ông Bụt hiện ra hỏi:
Sao con khóc?
Ta
như đêm mịt mù
Giữa
trùng trùng duyên khởi.
Quanh
một vòng trái đất
Thèm
trở lại chốn xưa
Ngồi
bên hè phố cũ
Tỉ
tê. Khóc. Nhớ nhà.
Thì
ra là một nỗi oan. Không ai thấu hiểu.
Buồn
ngang xương. Để
Thất
thoát niềm vui
Tìm
nghĩa lý trong điều
Không
ai hiểu. (Vỡ nợ)
Có
những nỗi oan
Tính
viết lời chống đỡ
Mà
mực khô, mà
Ý
cạn. Tay run. (Tịnh
khẩu )
Mổ
trái tim xem:
Không
gì trong đó
Mở
đôi bàn tay:
Những
thứ chẳng còn. (Lâm
chung)
Đọc
LCG mà thương hơn cho một nhan sắc, một tính cách, một người sống với cõi đầy
thơ… Để có những buổi “chiều buông trên dòng sông cuốn mau…”
Để
rồi, nhận ra cõi vô lượng tâm:
“Bể
sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu…”
(Chiều
về trên sông, Phạm Duy)
(*)
trên sông khói sóng cho buồn lòng ai… (Tản Đà, dịch Hoàng Hạc Lâu).
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
thơ rắc bùa hương
Khi
viết xong bài thơ
Đôi
khi. Tôi khóc
Có
phải vì lời đã nói về nước mắt
Trong
lòng đêm ma mị
Khi
viết xong bài thơ
Tôi
thường hay xóa
Dường
như tôi sợ bóng tôi
Giãy
chết giữa những con chữ đói
Khi
chấm hết bài thơ
Tôi
hụt hẫng. Như chưa thể xong lời
Là
bởi, bài thơ tưởng “hoàn tất” kia vẫn giữ mong manh những con chữ đói, giữ những
từ đợi chờ, nên thi sĩ chẳng bao giờ hoàn tất nổi một bài thơ.
Sau
một vụ mùa
Tôi
chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút
mầu vàng của nó lấp lánh trên tay
Bài
thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng
phút mong manh giữa những từ
Là
lúc đóa hoa đang nở.
Đang
tỏa hương
Tôi
có gì đâu phải vội
Cho
nên “Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự…”
Hãy
nghe thi sĩ nói những lời tình tự bằng lời ma mị, bằng thứ bùa mê, thuốc lú với
những con chữ đói như thế nào
Tình
Yêu
Trong
nét vẽ dịu dàng của vòng ôm
Tôi
chiếc lá cong
Âm thanh mềm một vũ khúc
Quyến
rũ mầu đêm phủ
Tôi
bờ đất ấm
Nghe
từng hạt cát hòa âm
Âm
thanh đi tới
Âm
thanh của hòa tan…
Nhưng
tình yêu không chỉ là đôi lứa, là vòng ôm là vũ khúc là hoà âm, mà tình yêu còn
là đồng lúa chín vàng, là con tầu chở chuyên hội ngộ, là tiếng cửa reo sum vầy,
là bếp ấm báo tin no đủ… Là nỗi ước mơ một ngày nào đó trong cõi chiêm bao
…
Tôi sẽ thắp ánh sáng của sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn
về khung trời đang mở nắng. Tôi sẽ treo trước cửa sổ phòng người tiếng hót một
loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm chở che một điều đang bắt
đầu trong khép lại một ngày ơn phước, nếu có tìm tôi…
Tôi
biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân.
Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…
Cơn
bão rớt sẽ đến rồi sẽ qua. Và, chỉ cần có thế: “me tôi ngồi may áo, bên cây
đèn dầu hao, cha tôi ngồi xem báo, tôi nghe tiếng còi tàu… “(Phạm Duy).
Phải
rồi, chỉ có ở đó, người ta mới có thể … “có tiếng chim trao lòng tin cậy; có
bờ vai nương tựa sớm hôm; có những ánh mắt sao trời thơ trẻ”; và đôi cánh bay
lên những ước mơ đằm thắm ngọt ngào của người thi sĩ, luôn nhắc nhở mình “đừng
như bóng mây tan”.
Phải
rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng reo vui Tat-bà-ha của Tâm kinh Bát nhã khi thấy biết
“ngũ uẩn giai không/ độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã (Prajnã) là cái nhận thức
có trước nhận thức, là cái trí tuệ có trước trí tuệ, không đếm đo, toan tính,
nó vậy là nó vậy. Và chỉ ở đó, người ta mới thực sự hồn nhiên, thực sự reo vui:
Tát-bà-ha!
Tiếng
chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy.
Bóng
đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.
Những
vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường
bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu.
Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã. (Khoảnh khắc giấc mơ)
Cảm
xúc với tranh Những Con Chim Ngược Gió của Họa Sĩ Đinh Cường, Khánh Minh viết,
những bùa hương: Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Bảng
pha mầu lấm lem ngày tháng bụi
Tiếng
cọ ngày xưa thở ngoài khung tranh
Trời
đóng lại. Một đường đêm thăm thẳm
Ai
đi qua. Vệt mầu bạc thếch
Sông
thời gian đặc quánh ảnh hình
Vừa
quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Và
gió, một mùi hương nồng nặc bùa mê trên sợi tóc vai người
Bay
đi. Bay đi.
Bay
qua dải thiên hà buồn bã kia. Mà về.
Trên
vai người sợi tóc thơm hương tinh tú.
Tôi
nhóm lên một ngọn lửa
Gió
thổi tắt đi
Tôi
nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió
lại thổi tắt đi
Khi
tôi không còn hy vọng
Thì
gió
Lại
làm những que tàn kia bắt lửa…
Đừng quên, chính những bùi nhùi năm tháng kia,
không mất đi đâu, chỉ ủ một mùi hương chờ đợi ngọn gió từ cõi xa kia bùng thổi.
Cho nên người thơ viết: Nên tôi quý những điều tôi đã nhận/ Nên tôi tận lòng với
những điều đang ở.
Còn
có cách nào hơn là “mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng” - Anapanasati- ở
đó, hiện tại là sát-na mênh mông không ngằn mé. Và chỉ ở đó:
Trong
sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu
hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát
của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha
lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến...
Và
một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống
với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương:
“Yêu
thương nhé” “nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”, “yêu thương ơi xin thức dậy
cùng người…” “yêu thương ơi khoảnh khắc xum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất
cánh bay”.
Rồi
tự dặn với lòng: “yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe… “Cho dẫu
chiều rồi phai nắng...” (Yêu thương ơi)
Nếu
có tìm tôi. Xin trông chờ mảnh sáng sao băng. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp
tim bổng trầm lời tình tự... Nếu có tìm tôi. Xin theo dấu sáng đom đóm quyện
hương bờ dậu quê nhà. (...). Cho tôi đôi cánh hoa bay về miền đồng lúa chín
vàng. Ngôi làng không bận lòng gì hơn là sống bình yên. Có con tầu đi về chở
chuyên hội ngộ. Mỗi tiếng cửa mở ra là một tiếng reo sum vầy. Mỗi bếp lửa là mỗi
báo tin mùa màng no đủ. Nếu có tìm tôi...Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối
cùng là phương Đông ấm một mặt trời… (Khoảnh khắc giấc mơ).
Hoang
mang thế nhưng rồi, như một nhà thơ từng viết: Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy! Khánh
Minh thì “Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi.
Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội.
Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm
xúc phục sinh.
Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy
vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…” (Trong cơn bệnh).
Phải,
“Còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm.
“Em
hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” thôi mà! Phải không?
ĐỖ
HÒNG NGỌC
Saigon,
30.10.2024
No comments:
Post a Comment