Friday, March 15, 2019

‘ÁNH TRĂNG’ CỦA NGUYỄN XUÂN THIỆP. BÀI THƠ NHƯ BÚT KÝ ĐỜI NGƯỜI


Trần Doãn Nho

Từ trái, hàng đứng: HĐNam, ĐYThảo, Thu Thuyền & Nam;
hàng ngồi: Nguyễn Xuân Thiệp, TDNho, Thận Nhiên.
(Hình: Trần Doãn Nho)

Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp trên Văn Học từ những năm 1994, 1995, nhưng đến Tháng Tám, 1998, tôi mới được gặp anh trong buổi ra mắt tập thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” ở một nơi không có vẻ gì là ra mắt sách: nhà Nguyễn Mộng Giác.

Trong ngôi nhà không mấy rộng của ông chủ bút Văn Học, có cả năm, sáu chục người, bạn văn và thân hữu, kẻ đứng, người ngồi, ai không có chỗ thì đứng hay ngồi ở ngoài vườn ngó vô, lắng nghe chị Nguyễn Xuân Thiệp đọc thơ chồng mình. Nghe nói chị thuộc thơ anh nhiều hơn cả chính anh.

Thơ Nguyễn Xuân Thiệp là một làn gió mới thổi vào sinh hoạt văn học hải ngoại đầu thập niên 1990. Kết cấu thơ không cách tân thời thượng, nhưng mới. Phảng phất không khí cổ điển, nhưng không cũ. Ngôn ngữ nhẹ nhàng, nhưng chứa chan suy gẫm.

Thơ anh tràn đầy thiên nhiên, sự vật và hoa cỏ. Nhiều gió, nhiều hoa, nhiều mưa, nhiều chim, nhiều nắng, và nhiều thứ vô cùng quen thuộc của cái thế giới thân quen chung quanh chúng ta, từ vườn, phố, núi, sông cho đến cây đàn, chiếc võng, bức tường, hiên nhà, sỏi đá rồi những sói, vịt trời, quạ, cua, cọp, dế, gà, ngựa…Và tràn trề tấm lòng.

Anh thổi lòng anh vào chung quanh và nhuốm cả chung quanh vào cõi trăn trở riêng mà cũng rất chung của anh: trăn trở tình yêu, trăn trở cuộc nhân sinh, trăn trở thế sự, trăn trở kỷ niệm, và đôi khi, trăn trở đến cả những trăn trở của chính mình.

Nhắc đến thơ Nguyễn Xuân Thiệp, người ta thường đề cập bài “Đêm Đốt Lửa Nghe Sư Đàn,” một trong những bài thơ tù độc đáo nhất trong kho tàng thơ tù sau 1975 hay “Tôi Cùng Gió Mùa,” một bài thơ tràn đầy gió cũng là tựa đề tập thơ.

Riêng tôi, tôi còn thích một bài khác, đa dạng hơn, lại thấm đẫm chất tùy bút, thơ  mà văn: “Ánh Trăng.” Đây là bài dài nhất trong “Tôi Cùng Gió Mùa”: 250 câu, làm theo thể bảy chữ, phân thành sáu đoạn, dài ngắn không đều nhau. Tất nhiên “Ánh Trăng” là nhiều trăng, không những thế, tràn trề trăng, từ đầu đến cuối: trăng lên, trăng treo, trăng soi, trăng đứng, trăng đi, trăng trôi… với nhiều hình ảnh trăng rất lạ: vầng hư tưởng, quả bóng xanh, trăng hư hay trăng bỏ neo và thú vị nhất là… búp trăng.

Trong thơ anh, trăng vừa như người bạn, người tình, người mẹ, người vợ, vừa như kẻ dẫn dường, người chia sẻ, người chăm sóc, an ủi. Bất cứ lúc nào, anh cũng có trăng. Và trăng lúc nào trăng cũng có anh. Có “vầng trăng hư tưởng” xôn xao thời trẻ dại, có vầng trăng “hong khô ngấn lệ,” “vệt trăng tìm lửa ấm” thời chiến chinh, rồi trăng “rời châu thổ,” “vầng trăng đứng cuối đường ray gió,” “vầng trăng đi trong mưa,” “trăng rét căm căm” thời đi tù, và ngày trở về, bắt gặp con trăng “nằm phủ cỏ khô” rồi “vầng trăng ngọc” soi bóng thời gian ngày đoàn tụ. Trăng trong “Ánh Trăng” là trăng đời, trăng người. Nó là dòng đời của một đời người trong cuộc nhiễu nhương: tươi mươi, khúc khuỷu, gập ghềnh, gian lao, hy vọng…

Thuở nhỏ, trăng, “vầng hư tưởng,” nhưng là sức sống, là niềm vui:

“trăng lên. ồ. một vầng hư tưởng
tuổi nhỏ. cười nhô mặt nước xanh
đâu đó. sông lam chừng trở giấc
rào rào muôn lượn sáng xô nhanh
gió như chim ngủ trong tầng lá
phút chốc xôn xao dậy khắp cành”

Vào thời chinh chiến, cũng trăng đó xuống trần hong khô lệ, an ủi, chia sẻ những bất hạnh của những thiếu phụ mất chồng trong cuộc chiến.

“trăng sáng. kìa ai nơi xóm cỏ
hong khô ngấn lệ thời gian chưa
dẫu cho thi sử đau vàng đá
thì cũng qua rồi. theo gió đưa
trăng chiếu. những ai sầu góa bụa
khăn sô. cắn giấu vành môi tươi
Trăng trở thành kẻ cứu chuộc:
những ai trót sẩy đàn tan nghé
hãy đứng trông trăng. sáng lại đời”

Cũng trăng đó không ngại rừng sâu núi thẳm, không ngại hoang lạnh, điêu tàn, lần mò đi tìm thăm  nấm mồ bằng hữu, tưởng niệm những oan hồn đã khuất:

“đêm tạnh. hồn nương bãi sậy dài
lều vắng. vệt trăng tìm lửa ấm
chồn hoang lang thang qua mồ gai
bằng hữu đem thân vùi cát bụi
tiếng tù và. động giấc bi ai”

“Vệt trăng tìm lửa ấm,” chao ơi, hình ảnh trăng đẹp và cảm động đến nao lòng!

Cũng trăng đó, sau cuộc chiến, “rời châu thổ” vì “bão cát xô thế kỷ đổi đời,” và dõi theo bước chân tủi nhục của những kẻ thua cuộc, bị đi đày.

“vầng trăng đứng cuối đường ray. gió
những toa tàu. qua. khuất. lau thưa
thức trong cây. trái tim sầu úa
như trăng. người của thuở không nhà
thức trong cây. trái tim sầu úa
như trăng. người của thuở không nhà
trăng chiếu. thành không. hào lũy sụp
còn nghe sắt thép rền cỏ khâu
tỳ bà. đá dựng. hồn u khốc
uổng ngọn cờ treo ải địa đầu”

“Vầng trăng đứng cuối đường ray. gió” ngóng theo đoàn tàu chở tù. Trăng ở đây là người mẹ, người vợ bất lực và xót xa nhìn người thân của mình đang ở trên chuyến hành trình đi vào vô định.

Cũng nói về chuyến tàu chở tù ra Bắc, ở Tô Thùy Yên, thơ nghe có khác:

“Ta nghe rêm nhói thân tàn rạc
Các thỏi xương lìa đụng chỏi nhau
Nghe cả hồn ta bị cán nghiến
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau.”

Hai nhà thơ cùng tâm trạng nhưng bày tỏ hai cảm thức khác nhau. Nguyễn Xuân Thiệp trăn trở, Tô Thùy Yên bi phẫn.

Trong những tháng ngày tù tội, trăng không bỏ cuộc, vẫn “dõi dõi soi” người tù như vầng trăng trong chinh phụ ngâm, tưởng như trăng cũng là/trở thành bạn tù của anh. Chả thế mà trái tim anh luôn luôn đầy trăng. Và trăng luôn luôn ở bên anh: trăng đội mưa, trăng “theo con đường đất đỏ,” trăng “soi đầm nước rộng,” “trăng rét căm căm.” Tóm lại, trăng ở tù.

“ôi. những vầng trăng thời biệt xứ
trôi trong tâm thức. một dòng khuya
ta nghe nước khỏa bờ lau dại
có một vầng trăng đi trong mưa
có một vầng trăng hư mọc muộn
tóc ai còn vướng cánh đồng mua
khi trăng theo con đường đất đỏ
bước cheo leo. khúc khuỷu. ngựa thồ
ta thấy trăng soi đầm nước rộng
mùa thu. mùa thu. im cành trơ
đêm tù. bạn đọc thơ đầu núi
tưởng chim rừng động ánh trăng xưa
gió mùa thổi lộng trên miền bắc
trăng rét căm căm. vệt sáng mờ.”

Dẫu thế, trong cảnh đời tan rã, anh vẫn để lòng mình lắng lại, suy gẫm cuộc nhân sinh. Vì trăng như “một loài chim quý,” không chỉ ở bên ngoài, mà còn “trôi trong tâm thức” và “soi tâm thức”:

“trăng khuya vằng vặc soi tâm thức
đêm tịnh. trời trong. gió lắng sâu
mây từng cụm nhỏ. trôi. trôi khuất
lũ vịt trời. ô. trăm ánh sao
trăng khuya. như một loài chim quý
bay suốt nghìn năm. hót một lần.”

Cũng từ đó, trong cuộc hợp tan, chàng ngộ lẽ thịnh suy, lẽ vô thường.

“dưới mái chùa tây. vang tiếng kệ
vị sư già đã thức. chuông ngân
âm thanh. như một làn hương sữa
chảy xuống hồn ta đã lặng dần
hạt lệ muốn rơi. giờ đọng lại
trăng. nguyệt cầm ơi. ngọc mới đông.”

Rồi cũng có lúc chàng được trở về. Lâu quá, nhưng may, anh vẫn nhận ra chốn cũ, dù không còn như cũ. Và người gặp lại người, “vỡ giấc chiêm bao”:

“trở về. những bảng nhà phai số
cánh cổng đong đưa. gió lọt rào
chợt tiếng người reo bên giếng nước
ai cười. như vỡ giấc chiêm bao.”

Trong nỗi vui đoàn tụ, chàng lại thấy trăng. Không còn “đứng cuối đường rây, gió,” không còn “trăng đi trong mưa” hay “dầm trong mưa,” không còn “trăng đi theo đường đất đỏ,” trăng bây giờ trẻ lại, hồi sinh, biến thành… búp: búp trăng.

“phiến lá ngời vàng óng búp trăng
hương biếc chạm vào trang sách quý
mở ra thôi. ước cũ hàng hàng…
dưới trăng. những mảnh đời han rỉ
sáng lại. ô hoa đã rộ cành.”

Rốt cuộc, trăng như một kẻ hành nhân, ròng rã đi vòng suốt cuộc nhân sinh:

“trăng khuất. nhưng mùa sau lại mọc
loài người ơi. nghe tiếng võng đưa
lên cao. thấy một vầng trăng ngọc
xuống thấp. còn trong giấc ngủ mơ
soi bóng thời gian. hồ nước tịnh
đông phương này. đêm ủ mật hoa.”

Từ đầu chí cuối, dù trong hoàn cảnh nào, niềm vui và nỗi khổ của anh lúc nào cũng dịu nhẹ, không thê thiết, bi phẫn nhưng ngấm sâu. Lại nhuốm mùi đạo sĩ qua những hình ảnh những vầng trăng thời cổ điển: quẫy sóng thiên thu, người cưỡi trâu xanh, tượng nhân sư rống, kẻ sĩ cuồng, màu nam hoa kinh. Rất dễ hiểu: anh đưa những trăn trở cá nhân lên tầm nhân loại. Trăn trở của anh là trăn trở con người. Đau khổ, cách này hay cách khác đều là đau khổ, chẳng phải của riêng ai. Như trăng, nhà thơ đi qua những nẻo đường nhân sinh:

“lòng ta. một ánh trăng trong suốt
trên những nẻo đường nhân loại qua
bên bữa ăn xanh người đạo sĩ
những buồn vui của khắp mọi nhà.”

Nguyễn Xuân Thiệp sinh trưởng ở Huế. Trước 1975, sĩ quan quân đội VNCH, làm việc cho đài phát thanh quân đội. Sau 1975, ở tù cho đến 1982. Năm 1995, định cư ở Hoa Kỳ. Làm thơ đăng báo từ 1954. Ra hải ngoại, cộng tác với các tạp chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu, Văn. Chủ biên tạp chí Phố Văn từ 2000-2008. Hiện ở Dallas, Texas, làm việc cho tuần báo Trẻ.

TRẦN DOÃN NHO
January 12, 2019



No comments:

Post a Comment