Đọc
TRƯỜNG
SA HÀNH
của
Tô Thùy Yên
Tô Thùy Yên. Đinh Cường vẽ
Mấy năm gần đây khi tình hình Biển Đông trở
nên căng thẳng, nhiều người trong nước đã tìm đọc bài thơ Trường Sa Hành của
nhà thơ Tô Thùy Yên. Nhiều bạn đọc tỏ ý tiếc, Trường Sa Hành là một bài thơ hay
nhưng thiếu tính chiến đấu.
Người
trong nước ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền văn học Chủ Nghĩa Xã Hội, thường
quen với quan điểm văn nghệ phục vụ cho chính trị, văn nghệ là vũ khí,... nên lấy
làm ngạc nhiên về tác phẩm lẫn tác giả.
Nói
về bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, ngoài giá trị văn chương, bài thơ còn có
một giá trị lịch sử đặc biệt. Bài thơ được sáng tác trong một chuyến du hành
thăm đảo trong bối cảnh Hoàng Sa vừa bị Trung Cộng đánh chiếm (3/1974). TTY là
một nhà thơ đầu tiên đặt chân đến Trường Sa, viết một bài thơ đầu tiên cho Trường
Sa. Bài thơ có một ý nghĩa chính trị về chủ quyền lãnh thổ mà người Việt nào
tha thiết với vận mệnh đất nước không thể không biết tới.
Nội
dung bài Trường Sa Hành diễn tả tâm trạng những người lính trấn thủ trên đảo. Ở
thời điểm đó, Trung Cộng có thể tiến chiếm Trường Sa bất cứ lúc nào. Có thể họ
sẽ là những người nối gót Ngụy văn Thà mới vừa tử thủ ở Hoàng Sa, hay theo dấu
những người lính vô danh trong lịch sử.
Trước
khi nói đến những người lính thời nay, xin nhắc sơ hình ảnh người lính thời xưa
còn sót lại.
Lịch
sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh. Thế mà trong lịch sử, qua bao nhiêu chiến
thắng lẫy lừng chống ngoại xâm, hình ảnh người lính oanh liệt ngày xưa biến đi đâu
mất. Trong văn học sử chỉ ghi lại hình ảnh người lính tầm thường, nghèo nàn đến
tội nghiệp.
“Ngang
lưng thì thắt đai vàng
Đầu
đội nón dấu vai mang súng dài
Một
tay thì cắp hỏa mai
Một
tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng
thùng trống đánh ngũ liên
Bước
chân xuống thuyền nước mắt như mưa.”
Nước
mắt như mưa thì làm sao đánh giặc?
Mà
không cứ gì đi ra trận mới khóc. Người lính đóng quân ở nơi cheo leo cũng than
thở đến xót ruột.
“Ba
năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng”
Tại
sao tác giả lại lấy hình ảnh “con cá nó vẫy
vùng” trong giếng nước trong để kết thúc bài thơ. Hình ảnh con cá này đã ám
ảnh tôi suốt từ thời đi học. “Con cá nó vẫy
vùng” mà không phải là “con cá vẫy vùng”. Chữ “nó” thêm vào có tác dụng gì?
Câu
thơ là một câu than. Nước giếng trong veo, không có mồi làm sao con cá sống? Ở
chốn thâm sơn, cơm gạo đâu ra để người lính sống?
Cái
cảnh “con cá vẫy vùng” trong giếng nước
chính là hình ảnh người lính phải xoay sở
đủ đường để tự nuôi
thân.
Nhưng
“Con cá vẫy vùng” chỉ là hình ảnh.
Thêm chữ “nó” vào thành “con cá nó vẫy vùng” Hình ảnh “con cá”
bỗng nhiên sống động. Cái khéo ở cách dùng chữ. Con cá trong thơ là con cá sống.
Cái hay của bài thơ cũng chính ở điểm này.
Người
linh trong đất liền đã khổ như vậy, trấn
thủ ở đảo còn khắc nghiệt hơn.
Trường
Sa xa mút mù khơi. “Bốn trăm hải lý nhớ không tới”. Cái đảo mơ hồ như một mảng
đất liền bị trôi dạt ngoài khơi.
“Trường
Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm
thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính
thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm
nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Đảo
còn say sóng thì huống chi người!
Làm
sao giữ đảo khi đầu óc mơ hồ, chân đi chưa vững? Những người lính trên đất liền
bị điều ra đảo ví như con cá đột nhiên bị quẳng lên bờ. Ở đây, người lính nhận
ra họ phải bảo vệ một mảnh đất mà con người không sống được. Ngàn năm ở đây chỉ
có sóng thiên cổ, chỉ có gió miên man, gió khốc liệt, đảo không nước, mưa họa hoằn, nắng lóa như kim giũa, cây bật
gốc chờ tan xác,... Cái đảo từ thuở khai thiên lập địa hầu như chưa có dấu
chân người.
“Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.”
...
“Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?”
...
“Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất, gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi...”
Con
người đột nhiên bị quẳng vào cuộc sống của người tiền sử. Môi trường khắc nghiệt,
làm sao bám được cuộc sống để tồn tại? Làm sao chống chọi với trời đất, với thiên
nhiên?
“Đám cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi.”
Ai
đã bày ra chiến tranh? Ai tạo ra thời thế để đày con người ra đến chốn này?
Thương
thân, trách phận rồi tự giận lấy mình, tự đày đọa, tự trừng phạt.
“Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.”
Chống
chọi với trời đất đã khó, chống chọi với chính mình càng khó hơn.
“Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi,
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.”
...
“Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.”
Giữa
cảnh trời nước mênh mông, sự hoảng hốt tột cùng khi bị cắt đứt liên lạc với đồng
đội, rồi với cả thế giới loài người.
“Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.”
Cảm
giác cô đơn đến tuyệt vọng đã biến Trường Sa trở thành một thế giới khác. Con
người bị nhốt trong cái thinh lặng tuyệt nhiên của trời đất. Túng quẫn trước
chiến tranh, thao thức về sự hữu hạn của đời người, chiêm nghiệm nỗi cô đơn của
nhân loại.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn.
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ”
Đứng
trước vũ trụ bao la, con người dễ nhận ra thân phận mỏng manh nhỏ nhoi của kiếp
người. Vậy mà vẫn phải đem cái “hữu hạn nhỏ nhoi” để giữ lấy cái bất biến trong
trời đất.
“Sóng thiên cổ khóc biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ.
Nên tưởng trùng dương khóc trắng
trời.”
Người
lính Trường Sa cũng khóc như người lính thú. Cũng than thở xót xa như anh lính
trấn thủ lưu đồn ngày xưa. Và rồi cũng chấp nhận số phận để vượt qua số phận. Dùng
khả năng để vượt quá bản năng.
Bài
thơ diễn ta tâm trạng những người lính trấn đảo nhưng cuối cùng trở về nỗi thao
thức thân phận của một con người. Bởi lẽ chỉ có con người là sinh vật duy nhất
biết chọn cho mình một cách chết.
Cho
tới nay, bài Trường Sa Hành là bài thơ về biển đảo hay nhất của Việt Nam. Nó ví
như một viên minh châu đang chiếu lóng lánh giữa lòng dân tộc. Không cớ gì người
Việt đọc Trường Sa Hành mà lại không giữ được Trường Sa.
Khai
bút đầu năm
Mồng
Một Tháng Giêng.
Feb.10/2013
ntta
No comments:
Post a Comment