Thursday, May 26, 2022

MÙI HƯƠNG HOA NHÀI. VÀ NHẠC RAHAB TRÊN ĐƯỜNG PHỐ

nguyễnxuânthiệp
 
Hoa nhài
 
chiều
phố cổ
có người con gái. tên marguerite
khi xa sài gòn
nhớ mãi. mùi nhài thơm
của vùng trời. nhiệt đới
   Tôi ngồi đọc lại thơ tôi. Những ngày này tháng tư về gợi bao điều để nghĩ và để nhớ. Một cuốn sách, một bóng nắng, một mùi hương hay khúc nhạc có thể làm sống dậy những mảnh đời ở đâu đó trên thành phố một thời trẻ tuổi.
 
   “Ở một góc thành phố West Hollywood, nơi tôi đến ở một tuần, với ngọn đồi Hollywood ở phía đông, những con đường lúc nào cũng đông người đi bộ, các tiệm buôn, những tòa nhà cao ốc với những ngọn đèn neon đầy màu sắc gợi đến một góc Sài Gòn. Trên đường Santa Monica và Melrose, các quầy sách báo bày trên lề đường gợi về những ngày tháng lang thang trên đường Lê Lợi với những quầy sách trước nhà sách Khai Trí của một thời say mê sách vở.”
   Đoạn văn trên, đọc thấy trong cuốn tạp bút “Từ Bàn Viết Houston”* của Việt Nguyên, đã gợi cho Nguyễn nghĩ tới những năm tháng thanh xuân với phố xá, sách vở và bạn bè và những cây bông sứ cây ngọc lan và hoa nhài trong đêm tỏa mùi hương nồng ngát. Kết thúc bài văn, Việt Nguyên viết: “Nhà báo Bernard Weinraub rời SG nhớ mãi một SG huyền nhiệm với mùi thơm hoa lài. Thành phố West Hollywood với những giàn hoa giấy đỏ thắm trên đường Fair Fax và Santa Monica, giống như SG của tôi nhưng thiếu một mùi hương dạ lý.”
  
   Quả là một khúc văn đặc sắc. Nội dung toàn bài trình bày một cái nhìn khác với trước đây của báo chí, sách vở và dư luận Hoa Kỳ về chiến tranh Việt Nam và chế độ VNCH. Chẳng hạn tờ New York TimesLos Angeles Times kể từ năm 2005 đã thay đổi bộ mặt và giọng điệu: không còn những cỗ xe tăng và đại pháo của quân Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn mà thay vào đó là hình ảnh các công nhân làm việc trong các siêu thị với những chiếc xe mua hàng treo đầy bong bóng màu… Tất cả rực rỡ trên trang nhất với hàng “tít” lớn “Chủ Nghĩa Tư Bản Đến Sau 30 Năm” cùng với hình ảnh các thiếu nữ mang dấu hiệu các công ty lớn của Mỹ. Trong khi đó, những bài xã luận không còn giọng điệu thân Cộng nữa mà đứng về phía VNCH. Ký giả Stephen J. Morris viết về chiến tranh VN với lời khẳng quyết “một trận chiến chúng ta có thể thắng”. Trong khi đó, các nhà báo cánh tả Hoa Kỳ sau 30 năm cũng đã thức tỉnh nhìn lại để thấy rằng họ đã sai lầm. Các nhân vật cao cấp của quân đội như tướng Westmoreland và tướng Abrams Creighton cho đến TT Nixon (những năm cuối đời), tất cả cũng đã đồng thanh công nhận quân lực VNCH đủ sức chiến đấu nhưng bị thua vì giới truyền thông cánh tả, đám phản chiến và quốc hội Hoa Kỳ. Nhà văn Phạm Thị Hoài, tác giả Thiên Sứ, thời ấy cũng đã để rơi những giọt nước mắt, “không phải những giọt nước mắt mừng chiến thắng mà là những giọt nước mắt giã từ”.  Giã từ… Giã từ những giấc mộng, những ảo tưởng trước hiện thực vô nhân, tàn bạo đang bày ra trên đất nước…
   Trang sử 30 tháng Tư khép lại. Nghĩ về Sài Gòn trong bóng chiều tan ở một thành phố nước Mỹ hôm nay vẫn còn thoang thoảng trong ký ức của Nguyễn mùi hương hoa nhài, hoa sứ…
   Nguyễn đã đọc bài tạp bút của Việt Nguyên với những cảm xúc và suy nghĩ như trên. Ngoài ra, trong cuốn tạp bút vừa nói, Nguyễn cũng gặp một bài khác của Việt Nguyên viết về cuốn truyện The Kite Runner (Kẻ Săn Diều) của nhà văn A Phú Hãn  (Afghanistan) Khaled Hosseini.  Đọc bài của Việt Nguyên, Nguyễn vội vàng vào Barnes & Noble ở phố Firewheel mua ngay cuốn “The Kite Runner”. Kỳ lạ thay, được khơi gợi, Nguyễn bỗng thấy mình trở lại Sài Gòn với mùi hoa sứ, hoa nhài trên sân nhà, ở bến Bạch Đằng và những khu vườn dọc theo con đường có trường Gia Long ngày trước. A, văn chương có mãnh lực huyền diệu, Nguyễn  thấy mình được sống lại với những người bạn thời trẻ trong quán sách hoặc lang thang trên đường phố, ngồi trong các quán nước,  rạp xi nê. Cuốn sách có những cảnh thơ mộng, những tình cảm ngọt ngào xen lẫn những đoạn bạo liệt. Còn nhớ, cuốn sách và bài văn của Việt Nguyên đã gợi cảm hứng cho Nguyễn viết một loạt bài về những cánh diều trên bờ biển Galveston, bờ biển Destin và trên cánh đồng làng Lại Thế, cũng như những thân diều chết treo lơ lửng trên những hàng dây điện của đường phố Sài Gòn như Bình Nguyên Lộc đã tả. Cũng trên dòng tự sự của Khaled Hosseini trong “Kẻ Săn Diều”, Nguyễn thấy lại Sài Gòn thời đổi chủ và cuộc sống ở nước Mỹ sau nhiều năm trôi giạt. Cũng như Amir chạy đuổi theo cánh diều ở Fremont, Nguyễn tìm thấy hạnh phúc bình yên trên những cánh diều ở bãi biển Galveston và Destin. Nghĩa là bài viết của Việt Nguyên và cuốn sách đã giúp Nguyễn tìm lại được hình ảnh của mình và những bầu trời thân quen. Sau đây là một đoạn văn rất đẹp và cảm động của Việt Nguyên trong bài viết về “The Kite Runner”: “Giấc mơ của Hassan, mơ thấy những đóa hoa Lawla sẽ nở lại trên những đường phố, nhạc Rahab sẽ trỗi lên nhộn nhịp trong mỗi căn nhà và những cánh diều sẽ bay trên nền trời Kabul trong khi chờ  đợi người bạn thơ ấu trở về. Amir, Sohrab và vợ Soraya tìm lại được hạnh phúc trong một buổi chiều trên cánh đồng Fremont. Amir chạy theo cánh diều trên quê hương mới, tưởng như sống lại thời trẻ”*…
   Ôi, mùi hoa lawla và nhạc Rahab trên đường phố… Giấc mơ của Hassan là như thế. Còn tôi và bạn có giấc mơ nào không? Ôi, Sài Gòn của ta.  Nếu có thể, xin cho Nguyễn được trở về đứng lặng yên nghe lại điệu blues từ phòng trà Tự Do vọng ra, nhìn những cột buồm lảo đảo ngoài bến Bạch Đằng, ngửi thấy mùi hoa nhài hoa sứ đâu đây khi “chim én vẫn bay đấy trời chiều đường phố Sài Gòn” (TTT), để thấy hồn mình biến thành ánh chiều màu đỏ thẫm rơi, rơi…Và xin bạn bè cho phép Nguyễn được mơ:
em ơi
đất ấy như lòng ta
sân gạch hồng
những cây bàng lá đỏ
và hoa nhài
hoa nhài
thơm những lu nước mưa. trăng
như mắt em
nhìn trời
trời thì cao. trong. mà đất đầy bóng tối
anh yêu em
như yêu hoa nhài
nhớ không
những bông nhài thuở ấy
kết thành chuỗi. treo trên cánh tay khẳng khiu của những em bé ngoài bến cảng
trong khách sạn majestic
ở mái hiên. bia và cà phê. continental
từ tiếng khóc lầm than. tới giấc mơ trong đêm nhiệt đới
bình minh. không mặt trời
em ơi
chính là hận thù. sự nghèo đói. và mơ mộng của thi sĩ. làm nở những bông hoa nhài
của cách mạng xanh
 
NXT
 
*“Từ Bàn Viết Houston”, Người Việt xuất bản 2008
 
 

No comments:

Post a Comment