Monday, November 26, 2018

CHÙA ĐÀN & MÊ THẢO. THẾ GIỚI CỦA HỒN OAN


nguyễnxuânthiệp

Đốn cây hoa gạo

Trong bài Từ Chùa Đàn Đến Mê Thảo, Nguyễn tôi có nói lên ước mong: Bao giờ mới được xem Mê Thảo. Lời ước đó được viết ra từ năm 2003. Nhiều năm đã trôi qua, không ngờ giờ đây ước mơ đó trở thành sự thật.

Đúng như vậy đó. Nhờ một cơ duyên đẹp đẽ, Nguyễn chẳng những đã được xem Mê Thảo mà còn được đọc lại Chùa Đàn. Cả một thế giới nơi âm dương chập choạng hiện lên trước mắt: ánh lửa mê hoang và tiếng đàn u uất cùng hòa quyện với bi kịch n người trong tiếng mưa đêm… đem đến cho người đọc và người xem nhiều cảm xúc. Đó là nói theo chủ quan của người viết. Có thể bạn trẻ bây giờ không ưa lắm đâu vì văn của Nguyễn Tuân khó đọc và diễn biến trong phim có phần chậm chạp trong một không gian nhiều bóng tối của hồn oan.

Đọc Chùa Đàn cũng như xem phim Mê Thảo, trước tiên người đọc bị lôi cuốn ngay vào cảnh đốn cây hoa gạo. A, đây rồi cây hoa gạo mà Nguyễn thường hình dung trong trí tưởng qua những hồi ức thơ. Chợt nhớ lại những câu thơ Xuân Diệu hồi đầu kháng chiến: Tháng ba hoa gạo nở / Mở cánh ngập đồi xa / Máu đào tung tóe vỡ / Chân mây thở sáng lòa… Và nhớ Quách Thoại, ôi Quách Thoại ngày nào: Mặt trời mọc, mặt trời mọc / Rưng rưng mùa hoa gạo / Lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo/ Còn sáng tạo, ta vẫn còn sáng tạo… Riêng Nguyễn tôi, trong một truyện thật ngắn, tựa đề Bến Lú, đã viết mở đầu: Trời sẫm tối. Gió từ mặt sông thổi lạnh buốt. Cây hoa gạo trên đầu dốc, cạnh cái điếm canh xiêu xó, phát ra những tiếng thầm.
Cây gạo là như thế: thân nó đen đủi, nhánh cành cong queo, hoa màu đỏ. Hãy nghe dân ấp Mê Thảo nhận xét: “Cây gạo thì quý gì. Gỗ nó chỉ dùng làm áo quan cho bọn nghèo. Hoa thì chỉ quyến rũ được sáo đá và quạ thôi.” Đó là chưa kể người ta đồn nó có ma. Nó thường đứng trơ vơ trên đầu quán dốc. Cô đơn dưới nắng mưa. Ở Mỹ, ta chưa thấy một cây nào như thế. Nhưng nó là hình ảnh quen thuộc của vùng quê đất Bắc. Nó có một vẻ đẹp riêng nên các nhà thơ thỉnh thoảng mới nhắc đến, như trên ta đã thấy. Và bởi vì nó có vẻ đẹp nào đó nên Nguyễn Tuân mới mở đầu chính truyện Chùa Đàn bằng cảnh đốn cây gạo về trồng trong sân nhà Lãnh Út nhân kỳ hết giỗ Mợ Lãnh. Ta hãy đọc lại ở đây:
“Mặt giời lệch bóng, ba chục dân ấp Tháo lực lưỡng bắt đầu thắt cổ cây gạo sừng sững trên dòng suối Vầu. Nhiều múi thòng lọng dây thừng thít mãi vào những cành to dang ra như cánh tay đầu hàng. Những cật người uốn cong gò bấy nhiêu đầu thừng về một phía. Cây gạo xiêu dần rồi vật mạnh xuống như một kẻ chiến tranh bị trúng độc kế ở mặt trận, làm tung bắn lên những thân hình người đang oằn oại trên những đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ gốc. Suối Vầu tung nước. Rừng Vầu vang bật lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn tợ máu phun. Bọn người đánh cổ thụ ấp Tháo dúi ngang vào dưới thân cây gạo rồi đẩy dần cây to xuống dốc. Đến những chỗ không thả đà được thì họ lại lồng đầu thừng vào cánh nách mà kéo, vừa kéo vừa hò dô ta. Thân họ vẹo về một chiều trước, như xống ngọn cỏ bị gió lùa mau.”
Nguyễn tôi cũng đặc biệt thích đoạn phim mở đầu chính truyện trong Mê Thảo khi đàn ông trai tráng của ấp, mình trần nhễ nhại mồ hôi, quấn dây thừng, ra sức kéo ngã cây hoa gạo đưa xuống bè chở về. Đây quả là một cảnh đặc sắc trong phim của đạo diễn Việt Linh. Đẹp, hùng tráng và gây ấn tượng.

Cô Cam

Lãnh Út 

Cảnh mưa trên mái ngói âm dương, với Nguyễn, cũng là những hình ảnh đẹp của cuốn phim. Như mưa ngày nào ở Vương Phủ. Mưa rào qua những ngôi nhà. Những sợi mưa loang loáng ánh đèn. Mưa vỡ trên sân gạch hồng. Và những bước chân trần chạy trong mưa. Bỗng nhiên mưa rộ cười rực rỡ. Hay mưa trong Rashomon, trong Địa Ngục Môn… Và rồi hình ảnh cô Cam -cô gái câm- hiện ra từng lúc trong từng đoạn phim. Nguyễn tôi yêu nhân vật cô Cam này. Như đã nói trong bài trước, đây là một sáng tạo độc đáo của đạo diễn Việt Linh (hay của nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân?). Bên cạnh cô Cam, còn có hình tượng cô Út, người yêu trong mộng của Lãnh Út, được thể hiện khi thì trong hình nộm bằng rơm, lúc là pho tượng gỗ. Có thể nói, cô Cam là vai diễn linh động nhất, thật và sống nhất trong toàn bộ cuốn phim. Cô vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân của thiên bi kịch ở ấp Mê Thảo. Hình ảnh cô Cam nổi bật qua từng cảnh phim: cô Cam đẫm đam mê trong đêm mưa gió tìm đến phòng Lãnh Út, núp bên ngoài cánh cửa, chứng kiến cảnh hoang loạn của Lãnh Út và pho tượng… Cô Cam nổi cơn ghen khuân pho tượng gỗ xô xuống hồ và rồi sau đó cô bị Lãnh Út trừng phạt, cho vào rọ đẩy xuống nước chìm theo pho tượng. Những hình ảnh này đã hấp dẫn người xem không ít.
Ở đây, Nguyễn tôi muốn nhấn mạnh thêm về sáng tạo của nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân và đạo diễn Việt Linh: Có thêm nhân vật cô Cam và những hình nhân thì thiên bi kịch ở ấp Mê Thảo có nhiều tầng lớp hơn và phim tăng thêm độ đậm và chiều sâu, nỗi tuyệt vọng và sự điên loạn của Lãnh Út từ đó bộc phát mạnh mẽ, lôi cuốn người đọc. Mối tình thuở ban đầu của Bá Nhỡ và cô Tơ cũng giúp thêm vào biến chuyển tự nhiên của câu chuyện.

Hồi kết cuộc, của truyện cũng như phim là cảnh cô Tơ hát, Bá Nhỡ đánh đàn. Đây là đoạn tả xuất sắc trong Chùa Đàn, văn Nguyễn Tuân ở đây như một bức phù điêu được khắc với nét sâu và mạnh, làm nổi bật tính chất nghệ thuật của Chùa Đàn:
“Chưa bao giờ Cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm vô danh hiu hiu ngọc vàng so le, Nó là cái oan uổng nghìn đời của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời. Trong buồng thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị. Bát hương bàn thờ sứ chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền đất, kêu đánh xoảng. Riêng Cô Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm báo hiệu của một điều linh thiêng gì.”
{…}
Phía sau gáy Bá Nhỡ, vụt bay lên một con bướm đen loang lổ những chấm tròn hồng hoàng. Linh hồn Bá Nhỡ đã xuất thoát ra kia đang díu đôi cánh ốm rồi biến dần vào bóng khuya. Một con châu chấu ma nổ ruột trên tim nến lả lay.”

Cảnh trên đặc sắc và kinh dị. Văn Nguyễn Tuân tới đây lộ rõ sự điêu luyện ít người đạt được, kể cả ngày nay. Phim không được như thế. Cảnh Bá Nhỡ (Đơn Dương) ngồi đánh đàn quá bình thường, không diễn tả được cực hình xen lẫn hoan lạc Bá Nhỡ đang trải qua, tuy tiếng đàn như mưa đổ, lúc nghẹn ngào khi ào ạt. Tuy nhiên, tiếng hát của cô Tơ quá xuất sắc, đớn đau và vời vợi trong ca từ thoát lên từ Tống Biệt của Tản Đà: Lá đào rơi rắc lối thiên thai…
NXT
(Tổng hợp)

No comments:

Post a Comment