Sunday, July 29, 2018

ĐỌC ‘GIỮA HOÀNG HÔN XƯA’ CỦA ĐỖ HỒNG NGỌC


Hồ Hoàng Thanh

Tác phẩm Giữa Hoàng Hôn Xưa

Li m ca Đ Hng Ngc

Gn đây trong lúc lc son đng sách v cũ, tôi bt gp cun V Cái Chân Tht Ngh Thut ca H Hoàng Thanh, NXB Đà Nng 2002, trong đó có Thư Gi Đ Hng Ngc, tr 352-360, là nhng cm nhn ca tác gi v tp thơ Gia Hoàng Hôn Xưa ca tôi, NXB Tr Tp HCM 1993 n hành, vi hình bìa Trnh Công Sơn, ta Đ Trung Quân và L Quỳnh trình bày. May sao, tôi gp Đèn Bin và Trn Ngc Hưởng tình c Đường Sách Saigon ngày hôm kia (26.7.2018), Đèn Bin đã chu khó gõ li giùm bc thư sang word, và nh vy mà hôm nay tôi có dp chia s bài viết này cùng bè bn thân quen, như mt k nim. Bc thư đã viết t hơn 20 năm trước ri ch ít gì!

Đa t Đèn Bin.
ĐHN

Đà Nẵng, 20/8/1997

Anh Đỗ Hồng Ngọc quý mến,

Hôm nhận được thư và sách anh Châu Anh gửi cho, tôi rất ngạc nhiên nhận được tập thơ Giữa hoàng hôn xưa do chính tay tác giả đề tặng. Chỉ có điều xin thưa lại ngay để anh rõ: tôi chẳng phải là nhà văn mà chỉ là một “lều văn”, có biết chút ít gì chỉ là theo kiểu không chuyên mà thôi. Đến hôm nay, nhẩn nha đọc vừa xong lần đầu tập thơ, tôi cầm bút viết cho anh nhằm bày tỏ lời cảm ơn chân thành của một bạn đọc chưa từng quen biết và cũng xin gửi đến anh mấy cảm nhận bước đầu về tập thơ như một món quà đền ơn tri ngộ.

Đọc từng bài, cứ đọc dần, tôi càng cảm thấy ngạc nhiên, một thứ ngạc nhiên đầy thú vị, có phần giống với ý kiến Nguyễn Hiến Lê. Ngạc nhiên về những tứ thơ khá mới lạ từ những sự kiện đời thường, về những mạch thơ, lời thơ dung dị gần như lời nói thường, về những bài thơ hay, về điều gì như một sắc thái riêng của tác giả.

Hình như không phải bất cứ một bác sĩ – thi sĩ nào cũng viết nên được một bức “Thư cho bé sơ sinh” ngộ nghĩnh, ngược đời mà ngậm ngùi, chua xót đến thế. Tứ thơ mới lạ, đầy nghịch lý giữa đời thường. Hầu hết các đoạn thơ đều rất thực mà cũng rất trớ trêu. “Thư cho bé sơ sinh” là một giả tưởng rất phi lý nhằm làm nổi bật lên những điều ngang trái, rất thực trong cái xã hội đảo điên này. Tôi thiết nghĩ, đây là một bài thơ hay.

Cũng được viết từ 1965, bài “Lời ru” cũng mang tứ thơ mới vì khá phi lý. Phải chăng những lời ru, lời thủ thỉ ấy chỉ dám ghi vào trang giấy giấu kín (cũng đã “gan góc” lắm rồi) để tự giải thoát cho “hả” bớt phần nào tâm trạng dồn nén, bức bối, câm lặng mà ngay việc thổ lộ ra với vợ con cũng là mạo hiểm. Bởi cái tâm lý không quê hương ấy, cái nỗi lo “gà nhà bôi mặt” giết nhau ấy, nó ngược đời quá quắt lắm, nhưng tiếc thay nó lại là rất thực. Thật mỉa mai, chua xót.

Mấy bài liền viết về nỗi đau quay quắt mất con, nhất là hai bài “Con đã lớn” và “Tình yêu” chân thực bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. “Con đã lớn” hay vì tứ thơ đã xoáy vào một nghịch huống: đến khi mất con rồi. mới nhận ra được rằng thật sự con đã lớn khôn (không mãi “trẻ nít” như cha mẹ vẫn tưởng). Điều “Ý ngôn tại ngoại” là vì thế, nỗi tiếc nuối con càng cháy lòng! Các kỷ niệm về con sao bình dị mà sống động, mà thiêng liêng! Bài “Tình yêu” lại hay một cách khác. Phải chăng ở đây đã có sự vượt lên trên những kỷ niệm cụ thể, tình cảm ở đây trở thành một hoài bão về một tình yêu bộc lộ tràn đầy, một tình yêu “không bao giờ cũ” và “chẳng sợ dư thừa” bù đắp cho sai lầm về một tình yêu quá kín đáo. Ở đây không chỉ là tình yêu con mà là cái tình yêu (nói chung) đã được khái quát hóa và trừu tượng hóa. Tôi nghĩ đây là bài thơ hay nhất trong cả tập thơ, nếu còn thận trọng, chưa dám gọi là tuyệt tác. Thực ra, đó chính là nỗi lòng đích thực, là sự suy tư về một tình yêu đích đáng nảy ra từ một sai lầm cụ thể về một tình yêu quá kín đáo. Điều đó diễn ra trong tâm tư một nhà thơ nên đã trở thành một bài thơ hay, một bài thơ đích thực.

Viết đến đây, gặp lúc bà xã nhà tôi (vốn là một giáo viên) mang nước sôi lên đổ vào phích xong, tôi thử đưa hai bài thơ này cho đọc và hỏi ngay cảm tưởng. Đọc xong, nhà tôi thốt lên ngắn gọn mà súc tích cảm tưởng của mình: “Hay, hay thật. Rất thật và rất hay!” (nói thêm: vợ chồng tôi đều trải qua nỗi đau mất con).

Bài “Đạo diễn” lại góp thêm một tứ thơ mới lạ. Phải chăng từng chứng kiến nhiều cảnh đóng phim dưới bàn tay đạo diễn, mà sẵn nỗi đau mất con, tác giả lại nảy ra được thứ ao ước đầy giả tưởng mà lại thật lòng, cháy bỏng như vậy.

Bài “Đâu có phải tự nhiên” ở cuối tập thơ mộc mạc và “tự nhiên” đến “dễ thương”. Thú thật với anh, thường khi đến khám bệnh ở Bệnh viện C Đà Nẵng, nhìn thấy các sân cỏ xanh rờn, tôi từng nghĩ bụng: “sao chẳng ai nghĩ đến việc nuôi ít con dê, con bò ở đây vừa để dọn cỏ cho sạch, vừa để lấy sữa cho bệnh nhân nhỉ”. Chỉ thoáng nghĩ vậy thôi chứ chẳng từ đó nảy ra được tứ thơ như anh. Mạch diễn đạt và lời lẽ bài thơ giản dị, hồn nhiên mà rất thi vị. Qua đó nổi bật lên một tâm hồn đẹp: bình dị, hồn hậu, thanh thản, yêu đời, yêu nghề, yêu bệnh nhân, yêu gia đình bởi khéo biết chấp nhận, tự bằng lòng với vị trí xã hội bình thường mà rất cao đạo (nhân đạo) của mình.

Phải chăng mảng thơ trên đây là mảnh đất thân thuộc, phong phú, đầy hấp dẫn mà tác giả càng đi sâu khám phá càng dễ thu hái được nhiều thơ hay? Và phải chăng từ mảng thơ này và các mảng thơ sau, ta có thể nghĩ rằng hầu như phong cách riêng của tác giả là khéo biết khai thác, trộn lẫn cái thực cái hư, cái chân cái giả, cái hợp lý cái phi lý, cái bình dị cái mới lạ tân kỳ, nhờ khéo biết khai thác các nghịch lý, nghịch cảnh ngay từ trong xã hội?

Đương nhiên còn có các mảng thơ khác. Một mảng thơ gần gũi với mảng thơ trên cho thấy thêm đời sống nội tâm của tác giả, một công dân, một trí thức trước thời cuộc. Có thể xếp vào đây các bài “Buổi tiễn đưa”, “Dỗ em”, “Tôi còn nợ”, “Biển xa”, “Mai sau dù có bao giờ”, “Giờ mới nên quen”, “Giới tuyến”, “Gặp lại người bạn cũ”, “Đi cho đỡ nhớ”…

“Buổi tiễn đưa” như một dạng “Tống biệt hành” (Thâm Tâm) mới, mang tâm trạng u uất mới: “Người hành trang nỗi tuyệt vọng rã rời Và khí phách thôi một thời trẻ dại”. Hai đoạn thơ cuối bài hay, nhất là đoạn cuối, câu cuối. “Dỗ em” khá ray rứt. “Đi cho đỡ nhớ” ánh lên một niềm vui, một nguồn hy vọng. Nguồn hy vọng ấy, sau giải phóng ít lâu, lại là một thời điểm đầy thử thách. “Tôi còn nợ là lời hạ quyết tâm “ở lại” bởi những món nợ khó lòng trả xong. Trong “Mai sau dù có bao giờ”, tôi thích hai câu: “Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má. Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”…

Ở mảng thơ “quê nhà”, với những “Mũi Né”, “Trên sông khói sóng”, “Gió bấc”, “Đêm trên biển Lagi”, không hiểu sao tôi thích nhất “Gió bấc”. Ngắn gọn mà súc tích, ý vị. Cũng không hiểu sao tôi lại chú ý bắt gặp thứ gió bấc ấy trong một đoạn thơ “Quê nhà”: “Hái đóa hoa màu biển biếc… Bâng khuâng một mái nhà”, lại thoáng thấy nó trong đoạn đầu “Mũi Né”: “Hình như gió bấc lùa trong tết Những chuyến xe đò giục bước chân”. Ở đoạn 2 bài “Trên sông khói sóng” lại thấy hơi gió đó: “Gió ở đâu về thơm bước khuya”.

Đến mảng thơ tình yêu, gồm hầu hết những bài còn lại, nổi bật lên bài “Có một vì sao”. Tôi thích những câu mặn mòi vị biển Bình Thuận: “Nhưng đêm ở đây… Đêm rất mặn vì đêm xanh bát ngát” và đặc biệt là câu kết “Để anh được làm kẻ chăn cừu khờ dại…”. Bài “Viết tên lên cát” đưa đến “Tên em mênh mông đại dương” mang dáng vẻ khoa trương nhằm nói lên cái rất thực của ý tình. Bài “Giữa hoàng hôn xưa” hay ở đoạn kết “Thiếu em hoàng hậu ngai vàng như không”. Có những bài tứ tuyệt đáng chú ý như “Võ vàng”, “Cố nhân”. “Võ vàng” nhận ra sự tàn phai trong lòng người. Đến “Cố nhân”, sự e ngại đó đã trở thành sự khẳng định một hiện thực đáng buồn. Bài “Lục địa giận hờn” hay ở tứ thơ vũ trụ. “Hành hương” nói lên ước vọng đạt đến một nơi “chỉ có anh và em” lý tưởng…

Cố gắng điểm hết các mảng thơ như vậy cũng chỉ nhằm muốn tìm hiểu được những dáng vẻ đa dạng khác nhau của hồn thơ tác giả và tìm hiểu được phần nào sắc thái riêng của tác giả. Nhưng đương nhiên, chỉ qua lần tiếp xúc buổi đầu, khó mà hiểu được điều gì sâu sắc.

Về mặt hình thức nghệ thuật, qua tập thơ này, tôi cảm nhận được rằng anh vốn am hiểu các thể loại thơ trước nay. Và có những tứ thơ được thể hiện qua những thể quen thuộc, cũng có không ít bài được thể hiện bằng thơ tự do. Nói thật với anh, tôi cũng vốn am hiểu ít nhiều các thể loại thơ lâu nay, nhất là từ cao trào “thơ mới”, tôi cũng có làm thơ và cũng nhận ra được xu thế tiến tới thơ tự do là điều tất yếu. Tôi đã từng viết bài “Xu thế tự do hóa hình thức thơ” đăng trên tạp chí Văn học năm 1978. Nhưng trong thực tế sáng tác, do ảnh hưởng của thói quen, tuy vẫn thường viết theo thể thơ tự do, tôi vẫn chưa dứt khỏi những âm điệu quen thuộc. Tuy về nhận thức tôi vẫn cho rằng thơ tự do là sự chuyển biến nội tại cả về nội dung lẫn hình thức trong quá trình tiến triển của thơ ca Việt Nam (chứ không phải là sự bắt chước thơ tự do của nước ngoài hoặc là sự du nhập máy móc).

Đọc thơ anh, tôi cảm thấy anh làm thơ tự do một cách hồn nhiên phóng khoáng hơn, hầu như không bị ảnh hưởng nặng nề của thói quen cũ trong diễn đạt như tôi, hoặc anh Châu Anh chẳng hạn. Nói rộng ra một chút. Tôi có theo dõi bước tiến trong diễn đạt của một bạn thơ. Đến tập thơ tôi rất thích bởi nhận ra được một bước tiến mạnh bạo theo thơ tự do ở tác giả, khiến tôi muốn viết bài giới thiệu. Nhưng sau đó, qua những tập thơ kế tiếp, tôi lại thấy xu thế đó không được mạnh bạo tiếp tục. Cho hay, ngay với một nhà thơ tài năng, khuynh hướng tự đổi mới đó vẫn chưa thật nhất quán, chắc cũng do ảnh hưởng của thói quen nghiêng về những âm điệu thông dụng. Trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ rằng, còn phải đợi thêm ít lâu nữa, lớp nhà thơ mới ít chịu ảnh hưởng của thói quen sáng tác theo những thể điệu cũ, mới làm cho thơ tự do hồn nhiên, bình dị, phóng khoáng hơn nữa.

Đọc anh qua những bài thơ hay như “Tình yêu”, “Con đã lớn” v.v… tôi càng cảm thấy hầu như anh đã vượt qua được cái ngưỡng cửa khá tai hại của thói quen về âm điệu cũ, viết một cách dễ dàng, tự nhiên, gần như lời nói thường, chẳng ngại dùng đến những từ ngữ “nôm na” mà người  ta thường kiêng kỵ trong thơ: “Trước mộ con còn ướt Ba nói với bè bạn ba rằng…” hoặc không sợ trùng lặp: “Hãy tỏ bày đi Vồ vập đi Âu yếm ồn ào đi” bởi là sự trùng lặp cố ý. Hoặc nói năng chẳng khác gì lời nói thường: “Đút cho con ăn Gạt gẫm cho con há miệng Hù con ông kẹ bà già” (vậy mà rất hay) Hoặc nữa: “Mới ngày nào dẫn con đến trường Bỏ đi không nỡ Những lúc con ốm đau Cả nhà run sợ Con ho mà ba ran lồng ngực Con sốt mà má đắng chát môi”. Ở “Thư cho bé sơ sinh” cũng như vậy, với những đoạn thơ 2, 3, 5 chẳng hạn “Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em” Hoặc nữa ở bài “Tôi còn nợ”: “A! Ông thầy về! Tưởng đi luôn rồi chớ!… Có gì đâu em vì tôi còn nhiều nợ… “. Ở bài “Đạo Diễn” cũng vậy. Tưởng như đó là lời nói thường, viết chữ lại xuống hàng: “Bạn bè ơi sao mà giỏi thế Cứ đóng y như thiệt”.

Người quen với thơ đường luật sẽ khó lòng cho đó là thơ được. Vậy mà “rất thơ” mới lạ chứ. Đương nhiên cũng không nên quá dễ dãi.

Đến đây mới thấy thư viết đã quá dài, mong anh miễn thứ cho, bởi tôi có phần “sa đà” quá. Chẳng qua tôi như người trèo cây, gặp được cây lắm quả, tôi mải mê “khèo” xuống, “khèo” trái chín lẫn trái xanh. Chỉ mong anh thấy dùng được chút ít nào cũng đã thỏa lòng rồi!

Chúc anh và gia quyến mọi sự tốt lành. Mong được trao đổi thư từ với anh những khi anh rảnh rỗi.

Kính thơ,
Thanh

BC: Quên nói thêm với anh rằng tập thơ trình bày rất đẹp, tranh bìa của Trịnh Công Sơn rất thơ vừa rất hoàng hôn đẫm màu tím khế, vừa có bóng dáng nữ nhân, chim chóc, đuôi ngựa v.v… mà như một bào thai để tha hồ tưởng tượng.

No comments:

Post a Comment