Cam Li Nguyễn
Thị Mỹ Thanh
Hoàng Tử Bé
Người ta được
nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện
kể.
Chú bé cháu
của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi
cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có
khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời
hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Rồi thì bà
kể chuyện. Từ khi chú bé chưa biết nói, bà đã kể chuyện rồi, những câu chuyện rất
ngắn, rất dễ thương, có khi chỉ là tiếng chim hót, tiếng gà gáy. Chú bé tỏ vẻ lắng
nghe. Và lớn dần, chú bé nghe những câu chuyện dài hơn, và chú hiểu. Chú còn biết
kể lại cho bà nghe, biết hỏi lại cho bà trả lời. Những câu chuyện bà kể, luôn bắt
đầu bằng câu “ngày xửa ngày xưa” như một dấu hiệu đó là truyện cổ tích.
Trong trí
nhớ của bà, cũng như nhiều người bạn cùng thời, truyện cổ tích nổi bật nhất là
Tấm Cám. Bởi vì bà đã được nghe biết bao nhiêu lần từ mẹ của bà. Mẹ là một kho
truyện cổ tích. Nhưng cứ nghe đến đoạn cuối thì bà rất sợ. Bà hứa với lòng rằng
sẽ không kể nguyên như vậy cho con cháu của mình. Cô Tấm trong truyện là một cô
gái nhân hậu, chịu biết bao gian truân vì mẹ ghẻ và em gái độc ác hại mình. Cuối
cùng, khi Tấm được Vua cưới về, cô lại dùng quyền lực để trả thù họ một cách ác
độc gấp trăm lần. Bà đã thay đổi đoạn cuối. Bà “cho” cô Tấm xin Vua tha cho họ,
rồi cô cảm hóa họ, giúp họ trở thành người tốt, có lòng nhân hậu giống như cô.
Lúc chú bé
bốn tuổi, bà kể Cha Nào Con Nấy, câu chuyện dạy người ta sống hiếu thảo với cha
mẹ. Chú bé ngồi vào lòng bà, nghe say mê, bởi vì trong truyện cũng có một đứa
bé bốn tuổi. Cha của đứa bé ấy đã mài một cái mủng vùa, tức phân nửa cái sọ dừa
khô, cho ông nội của nó ăn cơm, bởi vì ông nội đã già, đến bữa ăn thường làm
rơi vỡ chén bát. Ông nội tủi thân, vừa ăn vừa khóc. Thế rồi đến một hôm, người
cha thấy đứa bé vụng về mài một cái mủng vùa, hỏi để làm gì. Đứa bé nói để dành
cho cha ăn cơm, khi cha già như ông nội vậy. Cha của nó bừng tỉnh, hối hận.
Nghe xong, chú bé tỏ vẻ trầm ngâm. Bà hỏi:
“Con có gì
không hiểu?’
Chú bé nói:
“Bà ơi, bây
giờ không sợ bị bể chén đâu bà!”
“Vì sao?”
“Con thấy
chén nhựa có in hình bông hoa cũng đẹp lắm, mình ăn có làm rơi cũng không sợ bể.”
Bà không nhịn
được cười.
“Ừ nhỉ, cuộc
sống có những cái rất dễ giải quyết. Nhưng ngày xưa, nhất là ở thôn quê nghèo
khó, rất khác, con ạ.”
Hai bà cháu
tạm quên câu chuyện đó, vì chú bé lại đòi bà kể chuyện khác ngay.
Bà có một
kho truyện cổ tích. Chỉ riêng truyện cổ tích Việt cũng đã rất nhiều rồi, nhiều
vô cùng, kể cả tháng cũng chưa hết. Nhưng bà gạn lọc, chọn một số truyện để kể
cho chú bé, như Ăn Khế Trả Vàng, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Sự Tích Quả Dưa Hấu,
Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dầy, Thánh Gióng, Cây Tre Trăm Đốt, Sự Tích Con Muỗi, Sự
Tích Con Thạch Sùng v.v… Bên cạnh đó, bà cũng chọn lọc những truyện cổ tích Tây
phương, như Cô Bé Lọ Lem, Công Chúa Ngủ Trong Rừng, Đôi Hia Bảy Dặm, Bạch Tuyết
Và Bảy Chú Lùn, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ v.v…
Bây giờ,
chú bé đã lên mười. Đi học về, cơm nước xong, bài vở học rồi, gần đi ngủ chú bé
vẫn thích nghe bà kể chuyện. Có những câu chuyện chú bé nghe cả trăm lần vẫn
thích, và biết bình luận nữa, đôi khi làm bà phì cười, nhưng cũng lắm lúc khiến
bà nghĩ ngợi. Đúng vậy, trẻ con không phải cứ nhét vào tai là chấp nhận. Mỗi một
thời kỳ, mỗi một hoàn cảnh sống, ảnh hưởng rất nhiều đến cách suy nghĩ của con.
Lên mười,
chú bé được nghe bà kể những truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine. Bà nói những
truyện ngụ ngôn ấy, bà đã được học ở trường, không phải do truyền miệng. Chú bé
say mê nghe những chuyện Cô Hàng Sữa, Con Ve Và Con Kiến, Hội Đồng Chuột, Con
Nhái Muốn To Bằng Con Bò v.v… Chú bé thích nhất là thấy những con vật đã được
mô tả như con người, biết nói, biết suy nghĩ, biết cư xử. Bà bảo những con vật
đã được “nhân cách hóa” để mang lấy những tính nết của con người, đó là lòng
tham, sự ích kỷ, tính ham chơi, sự cần cù làm việc, lòng thương yêu v.v… Lên mười,
chú bé đã có thể hiểu được hàm ý trong những câu chuyện như vậy.
Lên mười!
Cái tuổi tưởng như còn bé dại, thật ra là dấu mốc của sự chuyển mình. Bà còn nhớ,
lúc bà lên mười, đã ngâm thuộc lòng bài thơ Lửa Từ Bi của Thi sĩ Vũ Hoàng
Chương, bài thơ có hơn ba trăm chữ. Mọi người trong gia đình bảo bà là
con-bé-già-trước-tuổi. Có lẽ đúng. So với các bạn nhỏ cùng tuổi, bà có “già” thật!
Và so với chú bé lên mười này, chắc bà ngày đó còn “già” hơn gấp bội. Bởi vậy,
bà tự nhủ đừng bao giờ làm điều gì với con trẻ dựa vào chính mình ngày xưa. Thời
đại đổi khác, cảnh sống đổi khác, và mỗi một con người cũng đặc biệt. Không có
ai giống ai.
Chú bé cháu
của bà vẫn cứ mê nghe nhạc và mê nghe kể chuyện. Cái đầu óc biết phân tích khiến
chú bé hay hỏi những câu như:
“Bà ơi, sao
gọi là truyện cổ tích?”
“Cổ là xưa,
tích là dấu vết, là truyện. Cổ tích là dấu vết xưa, hay truyện xưa, nên người
ta hay nói “ngày xửa ngày xưa” tức là những chuyện xảy ra đã lâu thật là lâu,
khi mình chưa có mặt trên đời.”
“Bà ơi,
trong truyện cổ tích, vật gì cũng biết nói hở bà?”
“Ừ, thường
là vậy. Truyện cổ tích thì phải là những gì đã xảy ra từ rất xưa, trong đó con
người, con vật như chó, mèo, hổ, sư tử, chim chóc… và cả cây cỏ cũng biết nói,
con ạ.”
“Và có những
ông tiên, bà tiên làm phép giúp cho mọi vật hở bà?”
“Ừ, như Ông
Bụt trong truyện Tấm Cám, hay bà tiên trong truyện Lọ Lem đó!”
“Vậy ai đặt
ra truyện cổ tích hở bà?”
“Ừ… thì là…
người ta đặt ra.”
“Nhưng người
ta đâu có sống vào lúc chuyện đó xảy ra hở bà? Nếu có, thì đối với người đặt
ra, nó chẳng phải là truyện cổ tích.”
Chà, chú bé
lắt léo, lý sự thật! Bà ngẫm nghĩ, nhưng bà công nhận chú bé đúng. Vậy rồi bà
và cháu cũng kể đi kể lại những truyện cổ tích, kèm theo lời bình của chú bé
lên mười. Kể đi kể lại hoài, mãi rồi không phân biệt truyện tây, truyện ta, vì
nội dung và tình tiết khá giống nhau, như Tấm Cám và Cô Bé Lọ Lem vậy. Hoặc như
những truyện ngụ ngôn của La Fontaine, qua lời dịch tài tình của Học giả Nguyễn
Văn Vĩnh, đã trở thành quen thuộc như thể là chuyện kể của người xứ Việt.
Có một hôm,
chú bé đặt giả thuyết, nếu trong truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, nhân vật chính
không phải là Cô Bé mà là một chú bé thì có khác gì không. Rồi chú tự trả lời rằng
chú bé ấy sẽ không dại mà nghe lời phỉnh gạt của một con chó sói đâu! Bởi vì…
chú là con trai! Bà cũng phì cười vì ý tưởng ngộ nghĩnh đó. Nhưng thật dễ dãi,
chú vẫn thích nghe cái đoạn Cô Bé Quàng Khăn Đỏ đi đến nhà Bà Ngoại, lúc đó bà
đã bị Chó Sói nuốt tươi vào bụng rồi, và Chó Sói đã leo lên giường, nằm đắp
chăn giả làm Bà Ngoại bệnh. Chú thích chí, bắt bà đóng vai Chó Sói, còn chú sẽ
là Cô Bé Quàng Khăn Đỏ.
Chú bé hỏi:
“Bà ơi, hôm
nay sao tai bà to thế?
Bà giả giọng
ồ ề đáp:
“Tai bà to
để bà nghe cháu nói cho rõ.”
“Bà ơi, hôm
nay sao mắt bà to thế?”
“Mắt bà to
để bà nhìn cháu cho rõ.”
“Bà ơi, hôm
nay sao miệng bà to thế?”
“Miệng bà
to để bà… ăn thịt cháu. Quàm!!!”
Mọi khi,
nghe đến đó là chú bé giả vờ co rúm người lại, sợ hãi, hét lên. Nhưng lần này,
đột nhiên chú bé hỏi:
“Bà ơi, sao
tóc bà dài và đen thế?”
Bà giật
mình, tròn mắt, ngạc nhiên, rồi bà cười xòa:
“Bà ấy hả?
Bà… không biết. Ờ… chắc Ông Trời cho bà được vậy thôi!”
“Vậy bà đã
gội đầu bằng gì hở bà?”
“Thì bằng dầu
gội đầu bình thường, con biết đấy!”
Chú bé gật
đầu, còn muốn hỏi thêm. Bà ôm chú bé vào lòng, kể:
“Con biết
không, thời xưa, có một khoảng đời, bà và nhiều người khác rất khổ. Những vật dụng
hằng ngày rất khan hiếm. Ngay cả xà bông cũng không có mà mua. Mua được một cục
xà bông thơm cũng là chuyện xa vời. Bà đã từng pha xà bông bột giặt để gội đầu,
con nghe sợ không? Bà sợ lắm, vì làm như vậy tóc sẽ rụng hết, da đầu sẽ bong
ra, nhưng ở bẩn thì bà chịu không nổi. Vậy mà Ông Trời thương, cho đến tuổi bảy
mươi bà vẫn nuôi được mái tóc đen và dài này.”
“Để… thỉnh
thoảng bà lại cắt tặng cho các em bé bị rụng tóc hở bà?”
“Ừ.”
“Hay quá bà
ơi, giống như truyện cổ tích!”
Bà ngạc
nhiên:
“Là cổ tích
sao?”
“Con thấy
truyện cổ tích kể về những chuyện khó xảy ra.”
Bà gật gù:
“ Ờ ha! Bà
cũng thấy vậy. Bà cám ơn Trời.”
“Bà hay nói
cám ơn Trời.”
“Đúng vậy
con à! Bà luôn cám ơn Trời vì đã cho bà những điều khó xảy ra.”
Hai bà cháu
cùng im lặng. Bỗng dưng bà nhớ đến một người bạn thân đã viết một bài văn ngắn,
nhắc đến truyện cổ tích kể về một người mẹ mất đi để lại một đứa con quá nhỏ,
thằng bé phải sống với một bà mẹ ghẻ. Bị bà mẹ ghẻ đày ải và hà khắc, nó đi
chăn bò và luôn phải ăn cơm hẩm. Bà mẹ ghẻ thấy nó ăn cơm hẩm mà vẫn mập mạnh,
bà cho con ruột của mình đi chăn bò với nó một bữa để theo dõi. Thằng con bà về
kể, tới giờ ăn trưa thằng bé kia tới dưới bụng con bò mẹ, kêu "Mẹ
ơi!" thì có một mâm cơm ngon lành hiện ra. Con của bà mẹ ghẻ cũng có ăn nữa,
giây sữa ra áo đem về cho bà coi. Nghe kể, bà mẹ ghẻ giết con bò, quăng xương ở
gốc cây. Tới trưa, thằng bé ra gốc cây ngồi khóc, mâm cơm lại hiện ra. Cứ thế,
cho đến khi đứa bé trưởng thành. Khi nó tự kiếm sống được thì nghe trên không
có tiếng mẹ nó giã từ.
Người bạn
viết tiếp: “Một truyện cổ tích trong rừng cổ tích của tuổi thơ, tôi đọc và quên
bẵng đi mấy mươi năm, cho đến khi má tôi mất. Má tôi mất, tôi không khóc, nhưng
lòng không sao nguôi ngoai được.
Một khuya
kiểng thức chúng, tự nhiên tôi nghe như tiếng má tôi gọi tôi. Tôi bật dậy, bàng
hoàng, chợt nhận ra truyện cổ tích có thật. Lòng tôi nhẹ bổng, thương nhớ như
nguôi ngoai. Má vẫn ở cạnh tôi, chăm chút tôi như bao giờ…” (1)
****
Tuổi thơ của
bà tràn đầy những điều tưởng tượng, do đó mà phong phú. Nhà anh em đông, đồ
chơi lại không nhiều, bà tự chế ra các món đồ chơi. Bà cũng biết xếp lồng đèn,
vẽ thiệp Nô-en, thiệp Tết. Nào có biết đến sinh nhật hay Nô-en! Rồi bà cũng làm Ông già Nô-en, rón rén đi cho
quà những người trong gia đình. Bà cũng làm cô giáo dạy học một đám học trò tưởng
tượng. Bà nghĩ, nếu không có tưởng tượng, cuộc sống của con người ta sẽ khô
đét, như cái cây không được tưới.
Nhưng tưởng
tượng nhiều quá thì có nên chăng? Không nên chút nào! Như bà thuở bé hay mơ mộng
nhìn lên mặt trăng và nghĩ về chú Cuội ngồi gốc cây đa, đó cũng là qua những
câu chuyện kể. Nhưng khi đã biết về sự thật trên mặt trăng, bà không kể cho các
bé nghe về chú Cuội cây đa nữa. Bà kể về những bước chân kỳ diệu của con người
đặt lên mặt đất cung trăng. Nói bằng cách nói của chú bé, đó cũng là những điều
khó xảy ra. Nhưng điều khó xảy ra đó lại có trong đời thật. Rất tuyệt vời!
Đến lượt
chú bé đặt ra những câu hỏi cho bà suy nghĩ.
“Bà ơi, vậy
ngoài cái thế giới của bà cháu mình, và thế giới bao la của vũ trụ, còn có thế
giới nào nữa không?”
“À… Có! Là
cái thế giới mà bà đã làm việc cùng.”
“Là gì vậy
bà?”
“Một thế giới
của những sinh vật bé nhỏ li ti, mắt thường của bà và cháu không thể nhìn thấy
được.”
“Làm sao để
thấy?”
“Không khó.
Phải dùng kính hiển vi phóng to lên để thấy. Đó là thế giới của vi sinh vật.”
“Nó có khác
biệt với mình không hở bà?”
“Không mấy
khác biệt. Vi sinh vật cũng sống, cũng cần thức ăn, cần được nuôi dưỡng tốt.
Chúng cũng phát triển, cũng già, cũng chết. Có những loại gây hại cho con người,
thú vật và cây cỏ. Nhưng đã có những loại thuốc chống lại chúng. Và cũng có những
loại vi sinh vật làm lợi cho con người. Thế giới của chúng cũng có tốt có xấu
như thế giới của mình vậy,”
“Bà ơi, vậy
bà có nhân cách hóa những con vi trùng của bà không?”
“Có chứ! Mỗi
khi làm phản ứng về chúng, bà thường thuận theo sở thích của chúng, vì bà hiểu
chúng như hiểu tính con người. Con biết không, chúng cũng thích ăn ngọt như
mình vậy, nhờ đó mà bà định danh chúng dễ dàng.”
“Hay quá!
Con thích học về chúng, như bà vậy!”
Bà ôm chú
bé vào lòng, âu yếm:
“Con học về
chúng, hoặc con học về vũ trụ, đều hay cả. Con mong muốn, con sẽ được.”
Chú bé lại
tỏ vẻ suy nghĩ…
“Bà ơi, con muốn tất cả các bạn nhỏ như con đều
được nghe kể những chuyện như bà kể.”
Bà im lặng.
Có vẻ như chú bé đang nghĩ đến những điều vượt xa cái thực tại của chú. Bà biết
nói sao đây, về những em bé sống ở vùng chiến tranh, về những em bé chưa lớn đã
thấy súng đạn, về những em bé sinh ra và lớn lên trong cảnh đói nghèo? Quả thật,
thế giới vẫn cần có những Ông Bụt của cô Tấm, những Bà Tiên của Lọ Lem. Vâng,
những Ông Bụt Bà Tiên bằng người thật.
****
Bà từng
nghĩ chỉ kể những truyện cổ tích cho chú bé vui. Nhưng chú bé đã tỏ ra biết suy
nghĩ và lý luận nhiều. Cho nên bà đã thêm vào “kho” truyện kể cho chú bé, một
truyện mà bà rất thích: Hoàng Tử Bé (2). Bà đã dùng lối kể đơn giản thay vì đọc
những lời dịch cao siêu thâm thúy của Học giả Bùi Giáng. Có khi bà dùng những
chữ trong bản tiếng Anh cho dễ hiểu. Chú bé đã tự đúc kết được những ý chính mà
tác giả chuyển tải đến cho người đọc, theo cách nghĩ non nớt của chú, và cũng rất
đúng với ý muốn của bà.
“Bà ơi! Ai
cũng cần có bạn phải không bà?”
“Đúng vậy.
Và cần lắm, những người bạn thiết, con ạ!”
“Muốn có bạn
thiết, cần phải làm sao?”
“Cần phải
tuần dưỡng (3) – Bà dùng chữ “tuần dưỡng” của cụ Bùi Giáng– Quen biết không phải là tuần dưỡng. Tuần dưỡng
là tạo nên sợi dây liên lạc, muốn vậy phải dành thì giờ cho nhau, hiểu biết về
nhau.”
“Như bà
cháu mình phải không bà?”
Bà bật cười:
“Đúng rồi!
Nhưng xa hơn nữa, như trong truyện, Hoàng Tử Bé và Con Chồn đã tuần dưỡng nhau,
và trở thành bạn thiết, vì họ đã dành thì giờ rất nhiều cho nhau, nói chuyện rất
nhiều với nhau, hiểu nhau, và cần nhau.”
“Con hiểu rồi!
Bà ơi, ai cũng cần có trách nhiệm với một cái gì đó phải không bà?”
“Phải. Như
Hoàng Tử Bé có trách nhiệm vĩnh viễn đối với cái gì chú đã tuần dưỡng một phen.
Hoàng Tử Bé và Đóa Hồng bé nhỏ của chú ấy đã tuần dưỡng nhau. Cho nên Hoàng Tử
Bé quyết có trách nhiệm vĩnh viễn với Đóa Hồng của chú ấy. Bằng mọi cách, chú
phải quay về với Đóa Hồng của mình.”
Thật đơn giản!
Chú bé hiểu hết. Bà đã không nói chuyện với chú bé như nói với một
cô-bé-già-trước-tuổi. Bởi ý niệm của truyện rất giản dị, nên dễ hiểu. Khi chú
bé lớn lên, ở từng thời điểm của cuộc đời, chú bé sẽ hiểu theo những cách khác
nhau, và áp dụng cũng khác nhau. Chú bé sẽ hiểu về trách nhiệm, hay nói cách
khác là lòng trung thành với một tình bạn, với một tình yêu, với một đất nước,
hay với một lý tưởng… là như thế nào.
Tháng
1/2025
CAM LI NGUYỄN
THỊ MỸ THANH
(1) Cổ
Tích, tác giả: Thuần Chánh
(2) Nguyên
tác: Le Petit Prince, tác giả: Antoine
de Saint-Exupéry
(3) tame
(E), apprivoiser (F)
No comments:
Post a Comment