Thursday, February 27, 2025

ĐỜN ÔNG ĐỜN BÀ VÀ GÀ CHỌI

Tố Nghi
 
Gà chọi
 
Phê rô nói với đức Jesus : Tui đươc dạy rằng phải tha thứ cho tha nhơn 7 lần. Trời thần ơi, 7 lần nhiều quá làm hổng nổi thày à, tui tự ý bớt xuống có đậng hôn? Đức Jesus mới nói: Phê-rô ôi, nói gần nói xa chẳng qua nói thiệt, ông phải tha chẳng những bảy lần mà bảy mươi bảy lần lận, vì rằng nhơn loại sanh ra không phải để được tha nhơn phụng sự, nhưng là để phụng sự tha nhơn... bla bla bla - khúc sau tui quên dzồi -
Hồi tướng công về tới, tui nhắc lợi bài phúc âm với chút ít dị biệt cho phù hạp tình hình thời sự: Ông chồng được tha thứ bảy lần, nhưng bà vợ thì phải được bảy mươi bảy lần tổng cộng lận. Tướng công phun cả cơm ra ngoài, hỏi ai nói câu này vậy? Tui nói đây là lời đức Jesus khuyên thánh Phê rô, và Phê rô nghe theo nên được giữ remote control cổng nhà trời. Chả lại hỏi có vậy à ? Tui nói quả là có vậy, vì vụ này đã được ghi chép đàng hoàng trong phúc âm.
 
Tướng công ngẫm nghỉ 1 chập rồi phán, vậy cũng có lý, đờn bà cần được tha thứ mười lần hơn, cũng bởi chúng phạm tội não nùng, lâu dài và thường trực. Nếu số lần tha thứ ngang ngửa cho cả hai phái thì bảo đảm... thiên đàng sẽ chỉ tuyền đờn ông thôi, do thánh phê rô đã buộc phải mời đám đờn bà rẽ sang hướng khác, cổng khác.
Nhưng... phái đẹp nghe sơ nô phụ đề thêm nè : Tội của đờn bà là tội lẻ tẻ nhỏ hìu nên tha cũng dễ. Còn cái đám lựu đạn kia kìa, chúng phạm cái đáng cái, tuyền tội trọng do cố ý không hà... Cái rồi chúng chờ tới phục sanh, khi có giải tội tập thể thì ló vô đậng xin tha thứ, cho lẹ và cho dễ. Bảy lần tha tội cho đờn ông còn quá tổ 77 lần cho đờn bà,  cũng bởi nàng vốn nhẹ dạ yếu lòng nên mới lơ đãng phạm tội chớ bộ!
 
Sáng nay ông kia dòm gương thấy mặt vàng khè, hỏi vậy chớ hồi hôm bôi kem chi vô mặt chả, tui nói bôi nước nghệ. Hỏi tại sao bôi nước nghệ, tui nói bôi nghệ cho săn da chắc thịt, cũng bởi nhà đạo đức luân lý kia mới đăng đàn, răn dạy đám đực rựa đồng bào bài học bác ái với vợ: thánh phê rô biểu phải tha nàng 7 lần thì cũng chỉ là bác ái thụ động mà thôi - bị hổng tha là khỏi cơm nước cà phê bánh ngọt tráng miệng chi ráo nữa, tha vậy là tha cho chính mình -
Bác ái tích cực là nếu bị vợ tát 1 cái, còn phải chìa má xin tát thêm 76 cái khác, giả như vụ tát ni làm nàng đẹp dạ sướng lòng. Nên dzồi... tối tối mới ráo riết bôi nghệ sửa soạn chớ bộ !
 
Chuyện bôi nghệ có căn cơ xứ sở đình huỳnh, hổng nói dỡn, bị là kinh nghiệm học hỏi từ ông Năm gà lối xóm phía sau, và là một phần tuổi thơ tại đường Lê văn Duyệt... - Nhứt định là không nhớ SG đâu, chỉ nhớ kỷ niệm cũ lúc nhỏ sống nơi đó thôi mà -
......
 
Hồi ở Lê Dzăng Duyệt, phía sau nhà có miếng đất trống, rộng bể ngang nhưng rất nông, sâu lối chứng 4 thước là hết cỡ. Cái rồi... ông Năm quây dậu rào, mang gia đình tới cắm dùi dựng nhà ở.
Lâu quá xá tui hết còn nhớ ra ông mấy đứa con, nghe nói quê ông ở Bà Điểm, chiến tranh leo thang nên thiên cư lên sài gòn. Xóm nhỏ coi vậy mà hiền lành, hồi ông bà tỉnh rụi chiếm đất dựng nhà, cũng hổng ai nói năng thưa gởi chi ráo. Và ông năm chuyên nghiệp nuôi gà đá gà chọi. Lối xóm bèn tặng ông danh hiệu năm đá gà.Sớm mơi ra vườn sau ngó qua, thấy ông năm gà ngồi ngay hàng hiên đang vấn thuốc, hay miệng bập bập điếu thuôc vấn xong, và y chang chinh tướng, đứng giữa bày "quân kê" mần màn săm soi thanh sát.
 
Gà đá hay gà chọi tuyền là gà trống, được nuôi nấng dạy dỗ khác cách. Sớm mơi ông năm lần lượt mở từng chuồng để gà đi dạo cho bớt cuồng cẳng sau một đêm... ngủ đứng. Gà chọi cao lớn, mồng và nọng cổ đỏ gay, lông cánh mượt mà, đặc biệt cập chơn lêu khêu cứng cát bự, phía sau có cái cựa dũng mãnh, đươc người nuôi ra sức dũa mài như một vũ khí tập hậu để đá giò lái hầu dứt điểm chiến trận.
Năm gà phải xuống tận Bà Điểm đặng tìm giống tốt mua về, nuôi và huấn luyện từ khi còn trứng nước. Mỗi chú gà có khai sanh lý lịch gia cảnh đàng hoàng, được người bán giới thiệu cho người mua lựa chọn, y chang ngựa đua vậy. Gà đá chuồng nhà do đích thân chủ chuồng bao dàn từ A tới Z. Vô trại nuôi gà đá săm soi, lượm ra một con vừa ý vừa túi tiền, xong mang về vỗ cho lớn và huấn nghiệp cái kiểu... dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về, dạy xong chắc cũng trần ai khoai củ hổng dỡn. Còn đi mua gà nòi có tiếng tăm rồi, đã vừa mắc lại vừa hổng đã, chỉ mấy dân chơi gà mờ tức tay mơ nhưng có của mới làm vậy.
Mỗi bữa Năm gà ôm đám gà nâng niu, tỉa lông cắt cánh mần màn chỉnh trang nhan sắc, mào nọng chơn gà đuợc bôi nghệ cho săn chắc, mỏ và cựa được mài cho nhọn sắc thêm. Đại khái con gà là dũng sĩ xông pha trận mạc dương màu cờ sắc áo cho chủ.
 
Hổng biết thực phẩm nuôi gà đá có khác thức ăn của gà thường (gà mái nuôi lấy trừng và gà nuôi lấy thịt) hay không, nhưng màn huấn nghệ mới là chuyện thứ thiệt và thứ dữ. Hồi con gà vừa dọng dọng tới tuổi dậy thì, chơn cẳng bắt đầu cứng cát là a lê hấp được mang nhốt chưồng riêng đề phòng chuyện gây gỗ có thể sanh án mạng. Án mạng xảy ra hoài hà, cũng vì chủ chuồng thiếu đất dựng chuồng, buộc phải nhốt chung cặp đám gà cứ ngỡ còn non nớt, rồi sơ ý hổng dè chú gà con chưa tới tuổi training mà máu nóng đã cuồn cuộn chảy. Sớm mơi mở của chuồng ngó vô thì một con đang nằm bẹp thở hắt, còn con kia oai vệ xử dụng cú hồi mã thương dứt điểm bạn đồng chuồng !
 
Chuồng chật thiếu chỗ bay nhảy, thành thương tích nếu có cũng hổng trầm trọng tới nỗi mất mạng. Bại tướng được lôi ra cho sang nằm ổ khác, vết thương được rửa với nước pha rựợu xong lau khô bôi thuốc đỏ, và băng bó bằng vải mùng cuộn vòng y chang thương bệnh binh nhơn loại loài người. Mỗi bữa mỗi tháo mỗi thay, đâu lối vài bữa là lành - tía nói thịt gà hiền nên thương tích dễ liền lợi, còn thit người độc, lại thêm thích thò tay sờ gãi thăm dò nên dễ nhiễm trùng -
Nghệ là một thứ không thể thiếu trong "huấn nghệ" tức "hướng nghiệp". Nghệ được mài ra, vắt lấy nước bôi vô những chỗ da thiếu lông vũ (mào, nọng cổ, chơn, móng và cựa), bôi xong còn chà xát massage cho thấm vào để săn chắc thêm. Nghệ còn được dùng trong băng bó vết thương vì có tánh sát trùng. Năm gà mua thêm trụ sanh bột (tyfomycine) khi cần sẽ rắc vào những vết thương do cựa chém quá sâu trong thịt, đề phòng chuyện nhiễm độc nữa cà.
 
Con gà khi lớn đủ, liền được tập tành cách vờn cách đá cho quen. Năm gà o bế thể lực cho gà (kể ra trên kia rồi heng) rồi một bữa hai ba bận, dùng sợi dây có đầu cột vào cái que (tre hay gỗ) đầu kia tòng teng thức ăn (cào cào, trùng đất...) nhấp nhấp cho gà mổ vào. Sau đó từ từ thức ăn có thể được thay bằng một cái đầu gà (thiệt hay nhựa), mội lần mổ trúng và giựt xuống đất, gà được tưởng thưởng bằng thức ăn xịn, trùng đất hay lúa hột. Phương pháp nhử nhấp ngày càng thăng tiến đúng bài bản trường đấu, để gà xông pha chiến trận cho quen. Rồi thì... các chủ vườn nọ mới hẹn ngày ôm gà tranh tài cốt coi giò coi cẳng đám gà tập sự làm dũng sĩ.
 
Tổ chức đá gà dễ dàng hơn tổ chức đua ngựa. Chúa nhựt cuối tuần nhà Năm gà nhộn nhịp khách ôm gà tới tỷ thí cùng nhau. Nhưng đây chỉ là những buối đấu sơ khởi xã giao, cốt cho đám gá mới lớn sửa soạn tinh thần chiến trận. Không thấy bao giờ (hay có mà tui hổng biết) chuyện cá độ hơn thua tại trường gà sau nhà.
Dủng sĩ còn thơ uýnh lẹ xìu lẹ, thiệt sự hổng hào hứng chi ráo. Dũng sĩ trưởng thành có lẽ kinh nghiệm bài bản rồi nên cuộc chiến đậm sắc màu mãnh liệt phấn kích. Hai chủ vườn xách lồng gà và đồ nghề phụ trợ giữa hiệp đấu. Người coi (phần lớn là trẻ nít) bắt đầi bu lợi quây tròn, la hò cổ võ.
 
Hồi cửa lồng vừa mở cho hai dũng sĩ bước ra, có con hăng tiết xáp liền, có con đủng đà đủng đỉnh ngó chừng đối phương. Rồi chủ nhơn gà mới ôm chúng mần màn nắn bóp đập vỗ cho máu huyết lưu thông, xong mới cho xáp lá cà hiệp một, đấu nhàu một chập sơ sài gây khí thế sa trường, và đây chỉ mới chỉ là introduction thôi nha. Sau hiệp, hai chủ vườn ôm gà ra, và... teng teng teng tèng... ông năm gà khởi sự khich tướng cho gà nhà thêm hăng tiết (... vịt), ông ngậm 1 ngụm rượu, phun vô đầu cổ con gà, rồi vỗ rồi nắn chập nữa. Cũng có khi ông ôm con gà vào ngang hông, lấy tay cạy mỏ gà ra, rồi vớt nước (hay rượu ?) đổ vào họng cho gà, và đập vỗ vào nọng cổ cho nước xuống lẹ.
 
Sang hiệp nhì thì hai dũng sĩ đã hung hãn lắm rồi, vửa thả ra cái xấn xổ vô nhau, bao nhiêu ngón nghề dạy dỗ mang ra hết cốt để triệt hạ đối phương. Sau hiệp nhì thì cả hai dũng sĩ gà coi như đều hết sức, nên rồi chủ gà phải ráo riết màn giúp gà lấy sức lợi cho kịp thời. Thế là lại phun rượu, xoa bóp, cho nước... Lắm khi con gà mệt quá, rãi nhớt tràn ra mũi ra mỏ, sanh khò khè khó thở, ông năm mới rút khăn vắt vai xuống thấm lau hết đờm rãi, và nếu cần (vì đờm rãi sâu trong họng) còn kê luôn miệng vào hút thẳng ra dùm cho thằng con - hồi nớ mấy cái bơm hút mũi trẻ con chưa phát mình ra, bằng không dám đám gà đá cũng được cậy nhờ khỏi phiền hà nhơn loại –
Số hiệp trong một trận và thời lượng mỗi hiệp được ấn định trước (bị hồi đó nhỏ quá hổng để ý thành hổng rõ). Nhưng... cũng có những trận được thoả thuận "không chết không dzia" nghĩa là uýnh cho tới khi một trong hai dũng sĩ không bỏ mạng ngay sa trường thì cũng sau đó, vì thương tích đã quá nặng. Cũng không rõ như thế nào thì được trong tài xử huề nữa lận.
 
Hào hứng nhứt mà cũng não nuột nhứt là sau cuộc tranh tài. Gà thắng trận liền được chủ ôm ấp vỗ về nâng niu trìu mến, rồi được thưởng trùng đất. Ngó nó điệu đàng vờn qua vờn lợi, xong mổ gọn con trùng nuốt chửng xuống cái rột, thất kinh luôn. Gà bại trận cũng được chủ ôm ấp vỗ về, nhưng y chang gà nuốt giây thung, nằm xuội lơ, mắt lạc thần, thở thoi thóp - chờ thánh Phê rô xúc về, bỏ nồi cà ri đãi các bà các cô đã may mắn lọt cổng nhà trời do nói ít có lẽ - Có khi chủ vườn động mối thương tâm (vừa thua bạc, vừa mất gà), nhờ người trông chừng dùm thằng con giây phút lâm chung hầu tránh màn đau xót !
 
Thỉnh thoảng... trong vài trận dỏm, mới đá qua lại vài cú thì 1 con ù chạy khỏi đấu trường luôn, thế là vãn tuồng và vãn lẹ làm chủ nó ức lòng xổ nho xổ nhãn lia chia. Tía nói tối nay dám có đĩa gà xé phay trộn rau răm, còn không cũng tô cà ri ấn độ. Má biểu thịt gà đá vừa dai vừa hôi, ăn sao đặng, rồi than vãn không ngớt chuyện ác nhơn của đờn ông, nếu không tính chuyện bạo lực, thì cũng chỉ nghĩ tới miếng ăn miếng uống.
 
Vậy chớ so gà đá với cá ngựa, có lẽ là giải trí lành mạnh nhiều lần hơn. Y hình chưa nghe có người tán gia bại sản vì cá độ gà, nhưng bán vợ đợ con đặng cá độ ngựa nghe rất thường. Chưa kể là đua ngựa có gian lận bán độ mua nài, đá gà nhứt định là không. Con gà chừng thả vô đấu trường là không làm chi đậng nữa, chỉ còn biết trông cậy phó thác gà nhà trong tay chúa từ nhơn!
TỐ NGHI
 

Monday, February 24, 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Phố văn đã nhận được:
  

TẠP CHÍ NGÔN NGỮ
Ấn bản đặc biệt
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG
 
Ngôn Ngữ xuất bản 2025
Sách dày 546 trang.
Thiết kế bìa: Uyên Nguyên Trần Triết
Thiết kế sách: Lê Giang Trần
 
Xin cảm ơn Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
 
Các bạn có thể mua sách ở đây:
– Tác giả: Nguyễn Thị Khánh Minh: ngkhanhm@gmail.com
– Nhà xb Nhân Ảnh: Lê Hân: (408) 722-5626 han.le3359@gmail.com
– Hoặc mua trên mạng qua link https://www.amazon.com/
 
 
Trích Thư Đầu Sách của Luân Hoán
 
Chân dung văn học của nữ sĩ không xa lạ, không bất ngờ với bạn văn, bạn đọc. Với đời thường, chị được sinh ra năm 1951 trên vùng đất “nghìn năm văn vật” Hà Nội, sau đó được trưởng thành tại một thủ đô có nền văn minh tiến bộ nhất Việt Nam: Sài Gòn. Chưa hết, chị tiếp tục hấp thụ những tinh hoa tại một vùng đất cực kỳ tự do, giàu màu sắc văn minh, từng được gọi “thủ đô người tị nạn” hồn vía của VNCH nối dài. Trong những vùng địa linh kể trên, Nguyễn Thị Khánh Minh khởi hành văn nghiệp khá sớm (so với tuổi đời) từ năm 1966, và chỉ trong một thời gian ngắn, nữ sĩ đã gầy dựng cho mình môt gia tài văn học có giá trị vững mạnh. Cụ thể 15 đầu sách gồm các thể loại thơ, văn, nhận định, giới thiệu, biên khảo cả đến soạn tự điển. Để phổ biến, chị chỉ chọn những nguyệt san, tạp chí ưu tú nhất. Song song với tác phẩm, một kho thân tình bè bạn giao hảo cũng được chọn lọc gồm toàn những nhân vật lừng lẫy trong văn giới Việt Nam, giàu tuổi đời, tuổi nghề như học giả Giản Chi, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, hòa thượng Tuệ Sỹ, nhà thơ Bùi Giáng, Trụ Vũ, Du Tử Lê, Tuệ Mai, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, Đỗ Hồng Ngọc, họa sĩ Đinh Cường.
 
Ngôn Ngữ tạp chí khá bất ngờ được nữ sĩ đồng tình cho phép đứng tên thực hiện tuyển tập này. Chúng tôi rất vui vẻ và thực hành nghiêm túc như những tuyển tập “tác giả tác phẩm” trước đây, Sách sẽ có số trang theo sự chọn sẵn của nữ sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh, cùng sự góp ý của một số bạn thân thiết của chị như các nhà văn, nhà thơ Trịnh Y Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyễn Thị Thanh Lương, Nguyễn Đức Cường… Chân dung tác giả qua các phác họa và hình chụp của những họa sĩ tên tuổi như Đinh Cường, Trịnh Cung, Lê Thánh Thư, Trương Đình Uyên, Duyên, Lệ Dung Bùi, Phan Tấn Hải, Nguyễn Tiến Đức, Lương Lệ Huyền Chiêu, Doãn Cẩm Liên, Trần Quang Châu, Lữ Kiều, Lê Quý Sơn, Chương Chương, Nguyễn Khiết Minh, SueCong, Michael My, Bảo Huân.
 
Phần nhận định, giới thiệu, phê bình, cảm nhận, tặng phẩm thi ca… viết bởi những nhà văn lẫy lừng danh xưng, cùng thân tình quý mến, xin liệt kê không thứ tự Giản Chi, Du Tử Lê, Cung Tích Biền, Phạm Thiên Thư, Trụ Vũ, Mịch La Phong, Đặng Nguyệt Anh, Thích Nhật Minh, Cao Kim Quy, Khuất Đẩu, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Lương Vỵ, Võ Công Liêm, Phan Tấn Hải, Đỗ Xuân Tê, Trịnh Y Thư, Hồ Đình Nghiêm, Tô Đăng Khoa, Vũ Hoàng Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Lạc Giao, Tô Thẩm Huy, Nguyễn Xuân Thiệp, Lê Giang Trần, Duyên, Thu Vàng, Trần Thị Nguyệt Mai, TrangĐài Glassey Tranguyen, Nguyên Khuê, Văn Giá LTT, Vương Tân, Diên Nghị, Ninh Giang Thu Cúc, Đào Mộng Nam, Triệu Từ Truyền, Đặng Ngọc Nữ, Nguyễn Âu Hồng, Trần Quí Phiệt, Một Người Bạn, Tôn Nữ Thu Thủy, Thanh Vân, Như Hiên, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Đức Cường, Nguyễn thị Thanh Lương.
 
Phần hàn huyên, phỏng vấn, được thực hiện bởi: Lê Thị Huệ, Hồ Đình Nghiêm, Triều Hoa Đại, Việt Báo… Kính mong quý bạn đọc đã từng và sắp quý mến văn tài của nữ sĩ, mang về tủ sách cho gia đình mình.

 
LUÂN HOÁN 

Sunday, February 23, 2025

SINH. VÀ LUYẾN

Hoàng Xuân Sơn
 
Picture: Amanti Art
 
Bây giờ
Sinh luyến phần ba
Hai phần tử biệt
Lụa là dung nghi
Buồn thây tôi trút lốt vì
Áo xanh mặc niệm hồi quy tục trần
Rung đời
Nợ trả phù vân
Về đâu cuộc lữ dự phần hanh hao
Tôi đau người như tôi đau
Cắm xuống hủy thể
Sắc màu âm ba
Điệu trơ của bóng sói. và
Gầy như lũng. tượng.
Chế
Pha
Tình buồn
Thất thần một nạm tà dương
Phố đông hoạn nạn trầm hương mịt mù
Rồi cất giấu
Rồi nghiệm thu
Bóng khuya cài với tâm tư
Xói mòn
Khi đá còn trồng lên non
Tưởng như huyền thoại mòn hôn dấu tình
Bây giờ đợi gió thất kinh
Gọi ai
Cứ ngỡ gọi mình du dương
Thưa em sinh luyến một đường
Tôi còn yêu với
Sâm
Thương
Bộn bề
 
@HXS.
13. 12.24
 

Wednesday, February 19, 2025

EVELINE

Truyện James Joyce
Trịnh Y Thư chuyển ngữ
 

Cô ngồi bên cửa sổ nhìn trời tối buông xuống đại lộ. Đầu cô dựa lên rèm cửa sổ và trong mũi cô là mùi vải cretonne [1] bụi bặm. Cô cảm thấy mệt mỏi.
 
Ít người qua lại. Người đàn ông bước ra từ ngôi nhà cuối dãy đang trên đường về nhà; cô nghe tiếng giày ông ta lạch cạch trên vỉa hè bê-tông và sau đó lạo xạo trên con đường rải tro đằng trước những ngôi nhà màu đỏ mới xây. Thuở xưa, nơi đó là một cánh đồng, tối tối anh em cô thường ra chơi đùa với lũ trẻ con cái những nhà hàng xóm. Rồi, có người từ Belfast đến mua cánh đồng và xây nhà trên đó – không phải những ngôi nhà nhỏ màu nâu mà là những ngôi nhà gạch màu sáng với mái nhà bóng loáng. Những đứa trẻ sinh sống trên đại lộ thường chơi đùa với nhau trên cánh đồng – nhà Devine, nhà Water, nhà Dunn, cậu bé Keogh què chân, và anh em cô. Nhưng Ernest chẳng bao giờ chịu ra chơi, anh ấy đã quá tuổi trưởng thành. Cha cô thường cầm cái roi bằng nhánh cây blackthorn [2] đuổi cả bọn ra khỏi cánh đồng, nhưng cậu bé Keogh giữ chân canh gác [3] bao giờ cũng gọi to báo động khi thấy cha cô từ xa bước đến. Thời đó trong nhà có vẻ khá hạnh phúc. Cha cô không đến nỗi tệ, và ngoài ra, mẹ cô còn tại thế. Đó là chuyện rất xa xưa về trước, cô và các anh cô đều đã trưởng thành, mẹ cô đã mất. Tizzie Dunn đã chết, gia đình Water thì dọn về lại Anh. Mọi thứ đều thay đổi. Bây giờ cô cũng sẽ ra đi như những người khác, cô cũng sẽ rời bỏ quê hương mình.
 
Nhà cửa! Cô nhìn quanh phòng, xem xét tất cả mọi đồ vật quen thuộc cô phủi bụi mỗi tuần một lần từ bao năm qua, lắm khi cô tự hỏi bụi bặm từ đất nẻ nào chui ra mà lắm thế. Có lẽ cô sẽ không bao giờ nhìn thấy lại những đồ vật quen thuộc mà cô chẳng bao giờ nghĩ có ngày phải rời xa. Vậy mà trong suốt chừng đó năm tháng, cô chưa bao giờ hỏi tên tuổi vị linh mục trong bức ảnh ố vàng treo trên tường chỗ chiếc đàn harmonium [4] bị hỏng bên cạnh bản in màu những lời hứa với Mẹ Chân phước Margaret Mary Alacoque. Ngài là bạn học của cha cô. Bất cứ khi nào có khách đến nhà, ông đều chỉ vào bức ảnh nói một câu xã giao:
 
“Ngài hiện đang ở Melbourne [5].”
 
Cô quyết định bỏ nhà ra đi. Điều đó có khôn ngoan không? Cô cố cân nhắc từng khía cạnh một của câu hỏi. Dù sao chăng nữa ở lại nhà cô có một nơi trú ẩn và không lo đói; cô có những người xung quanh mà cô đã biết cả đời mình. Tất nhiên cô phải làm việc chăm chỉ, cả trong nhà lẫn công việc. Họ sẽ nói gì về cô ở Cửa Hàng Bách Hóa khi họ phát hiện ra rằng cô bỏ nhà trốn theo một anh chàng? Có lẽ họ sẽ bảo cô là một kẻ khờ dại; và công việc của cô, họ sẽ đăng quảng cáo tìm người thay thế ngay. Bà Gavan sẽ rất vui. Bà ta luôn tỏ ra khó chịu, không vui với cô, nhất là lúc có người khác gần bên.
 
“Cô Hill, cô không thấy các quý bà đang đợi sao?”
“Cô Hill, hãy tỏ ra năng động một chút nhé.”
 
Cô sẽ không khóc chảy nhiều nước mắt khi rời Cửa Hàng.
 
Nhưng tại ngôi nhà mới của cô, ở một đất nước xa lạ, mọi chuyện sẽ không như thế. Khi đó cô sẽ kết hôn – cô, Eveline. Lúc đó mọi người sẽ đối xử với cô một cách đàng hoàng và tôn trọng cô. Cô sẽ không bị đối xử như mẹ cô từng bị. Ngay cả bây giờ, mặc dù đã hơn mười chín tuổi, đôi khi cô vẫn cảm thấy như đang sống trong nguy hiểm vì tính khí hung tợn, tàn nhẫn của cha cô. Cô biết chính điều đó đã khiến cô lúc nào cũng hồi hộp, lo âu. Khi lớn lên, người cha chưa bao giờ đối xử với cô như với Harry và Ernest, vì cô là con gái, gần đây ông còn giở giọng đe dọa cô và nói vì người mẹ đã khuất của cô mà ông phải dạy bảo cô. Cô không có ai che chở bảo vệ mình. Ernest đã qua đời và Harry, vốn làm nghề trang trí nhà thờ, gần như lúc nào cũng ở dưới quê. Hơn nữa, những cuộc cãi vã liên miên về tiền bạc vào tối thứ Bảy khiến cô mệt mỏi, chán chường khôn tả. Tiền lương kiếm được, cô luôn đưa hết cho anh và cha cất giữ – bảy shilling – Harry nếu có sẵn tiền trong túi thì luôn vui vẻ đưa tiền cho cô khi cần tiêu pha, nhưng rắc rối là xin được tiền từ cha cô. Ông thường nói rằng cô có tật phung phí tiền bạc, rằng cô không có đầu óc, rằng ông sẽ không cho cô những đồng tiền khó khăn lắm mới kiếm được của ông để cô vứt ra đường, và nhiều hơn thế nữa, bởi thái độ cùng lời nói ông thường khá tệ bạc vào tối thứ Bảy. Cuối cùng, ông đưa tiền cho cô và hỏi cô có ý định đi chợ mua thức ăn về làm bữa tối Chủ Nhật không. Sau đó, cô vội vã chạy ra phố càng nhanh càng tốt để đi chợ, tay cô nắm chặt chiếc ví da đen trong lúc chen lấn giữa đám đông và trở về nhà rất muộn với đống thực phẩm. Cô đã phải làm việc cực nhọc để giữ cho ngôi nhà đâu vào đấy và để đảm bảo hai đứa trẻ bị bỏ cho cô chăm sóc được đến trường và ăn uống đầy đủ. Đó là một công việc cực nhọc – một cuộc sống cực nhọc – nhưng giờ đây khi sắp lìa bỏ nó, cô lại thấy đó không hẳn là một cuộc sống hoàn toàn không đáng sống.
 
Cô sắp khám phá một cuộc sống khác với Frank. Frank rất tốt bụng, lại nam tính, cởi mở. Cô sẽ đi theo anh trên chiếc tàu thủy chạy đêm để trở thành vợ anh và sống với anh ở Buenos Ayres [6], nơi anh có một căn nhà đang chờ đợi cô. Cô nhớ rất rõ lần đầu gặp anh; anh đang trọ tại một ngôi nhà trên phố chính nơi cô thường đến thăm. Có vẻ như chỉ mới cách đây vài tuần thôi. Anh đứng ở cổng trước, mũ lưỡi trai hất ngược ra sau, mái tóc xõa về phía trước trên khuôn mặt rám nắng. Rồi họ biết nhau. Anh thường chờ cô bên ngoài Cửa Hàng mỗi tối và đi bên cạnh cô về đến tận trước cửa nhà cô. Anh đưa cô đi xem vở Cô gái Bohemia và cô cảm thấy vui sướng khi ngồi tại một góc khuất trong nhà hát với anh. Anh rất thích âm nhạc và biết hát chút đỉnh. Mọi người ai cũng biết họ đang thích nhau và khi anh cất giọng hát bài hát về một cô gái yêu chàng thủy thủ, cô luôn cảm thấy vừa bối rối vừa vui sướng trong lòng. Anh hay gọi đùa cô là Poppens. Thoạt tiên, cô thấy rung động khi có một người bạn trai và rồi cô bắt đầu ưa thích anh. Anh kể cô nghe chuyện về những đất nước xa xôi. Anh bắt đầu cuộc sống hải hồ làm một cậu bé lau chùi dọn dẹp boong tàu với đồng lương một pound mỗi tháng trên một chiếc tàu của công ty tàu thủy Allan đi Canada. Anh kể cho cô nghe tên những con tàu anh từng phục vụ và tên những công việc khác nhau. Anh đã đi qua eo biển Magellan và kể cho cô nghe những câu chuyện về người Patagonia khủng khiếp. Anh nói có lần anh ghé đến Buenos Ayres và anh đã quyết định chọn nơi đó là nhà của mình, anh về thăm đất nước cũ chỉ để nghỉ ngơi ít ngày. Tất nhiên, cha cô phát hiện ra chuyện này và cấm cô không được nói bất cứ điều gì với anh.
“Tao biết rõ lòng dạ mấy thằng thủy thủ này,” ông bảo cô.
 
Một ngày nọ, ông cãi nhau với Frank và sau đó cô phải lẻn trốn nhà đi gặp người yêu.
 
Buổi tối càng lúc càng xuống sâu trên đại lộ. Màu trắng của hai lá thư trên đùi cô trở nên mơ hồ. Một lá gửi cho Harry, lá kia gửi cho cha cô. Trong nhà Ernest là người cô yêu mến nhất nhưng cô cũng thích Harry nữa. Cô nhận thấy gần đây cha cô già đi nhiều, ông sẽ nhớ cô biết bao. Đôi khi ông cũng dễ chịu. Cách đây không lâu lắm, có hôm cô bị ốm nằm liệt giường suốt một ngày trời, ông đã đọc cho cô nghe một câu chuyện ma và nướng bánh mì trên đống than hồng trong lò sưởi cho cô ăn. Hôm khác, lúc đó mẹ còn sống, cả nhà lên đồi Howth ăn picnic, cô nhớ cha cô đã lấy chiếc mũ của mẹ đội lên đầu để chọc cười lũ trẻ.
 
Đã đến giờ phải đi nhưng cô vẫn ngồi bên cửa sổ, dựa đầu lên bức rèm, hít mùi vải cretonne bụi bặm. Cô nghe tiếng đàn organ từ phố dưới xa xa vẳng lại. Cô biết điệu nhạc đó. Thật lạ lùng cô nghe nó vào đúng đêm nay vì nó nhắc nhở cô về lời hứa với mẹ cô, lời hứa rằng khi nào còn sức lực cô sẽ cố gìn giữ ngôi nhà cho nguyên vẹn. Cô nhớ lại đêm cuối cùng trước khi mẹ cô nhắm mắt lìa trần, cô ở trong căn phòng tối tăm chật hẹp phía bên kia hành lang với mẹ, và cô nghe một điệu nhạc buồn của Ý từ ngoài xa vẳng lại. Người chơi đàn dạo ngoài phố kiếm được sixpence và có lệnh phải rời đi ngay. Cô nhớ cha cô khệnh khạng trở lại phòng người bệnh, ông buông tiếng chửi:
 
“Bọn Ý chết tiệt! Chúng nó kéo nhau đến đây cả rồi!”
 
Cô ngẫm nghĩ đến cuộc đời quá tội nghiệp của mẹ cô, và nó đã gieo lời nguyền lên thân phận cô ngay từ đầu – cuộc sống của những hy sinh tầm thường kết thúc bằng sự điên loạn sau cùng. Cô run rẩy khi nhớ lại tràng tiếng nói liên tu bất tận của mẹ với sự khăng khăng ngu xuẩn:
“Derevaun Seraun! Derevaun Seraun!” [7]
Cô đứng bật dậy trong cơn hoảng loạn. Trốn thoát! Cô phải trốn thoát! Frank sẽ cứu cô. Anh sẽ cho cô cuộc sống, có lẽ cả tình yêu nữa. Cô muốn sống. Tại sao cô phải bất hạnh? Cô có quyền được hạnh phúc chứ. Frank sẽ ôm cô vào lòng, anh sẽ vòng hai tay ôm cô. Anh sẽ cứu cô.
 
***
Cô lọt vào giữa một đám đông rùng rùng chuyển động tại bến cảng North Wall. Anh nắm chặt tay cô và cô biết anh đang nói gì với cô, hình như anh lặp đi lặp lại về chuyến đi hay một điều gì đó cô nghe không rõ. Bến cảng đầy những người lính vai đeo ba-lô màu nâu. Nhìn qua những cánh cửa rộng của nhà kho, cô thoáng trông thấy khối đen to lớn của chiếc tàu thủy nằm cạnh kè bến cảng, tàu có những ô cửa sổ tròn sáng đèn. Cô không nói gì. Cô cảm thấy má mình nhợt nhạt và lạnh ngắt, và trong cơn mê muội đau khổ, cô cầu nguyện Chúa dẫn đường cho cô, cho cô thấy bổn phận mình là gì. Chiếc tàu thủy thổi một hồi còi dài buồn thảm vào sương mù. Nếu cô đi, sáng mai cô sẽ lênh đênh trên biển cả cùng với Frank, hướng về phía Buenos Ayres tiến tới. Chuyến đi của hai người đã được đặt trước. Chẳng lẽ cô vẫn có thể quay lui sau tất cả những gì anh đã làm cho cô ư? Nỗi đau khổ đánh thức cơn buồn nôn trong cơ thể cô và cô không ngừng mấp máy đôi môi cầu nguyện như điên dại trong câm lặng.
Một tiếng chuông vang lên trong tim cô. Cô cảm thấy anh chụp lấy bàn tay mình:
“Đi!”
Tất cả các đại dương trên thế giới đổ ập vào trái tim cô. Anh đang kéo cô vào đó, anh sẽ nhấn chìm cô. Cô giật tay ra khỏi tay anh [8] rồi bám chặt bằng cả hai tay vào thành lan can sắt.
“Đi!”
 
Không! Không! Không! Không thể nào. Hai bàn tay cô nắm chặt thành lan can sắt trong cơn điên loạn. Giữa biển khơi, cô hét lên một tiếng kêu đau đớn.
“Eveline! Evvy!”
Anh chui nhanh qua rào chắn và gọi cô đi theo. Những người đi sau quát tháo ầm ỹ bảo anh đi tiếp nhưng anh vẫn đứng đó gọi cô. Cô hướng khuôn mặt trắng bệch của mình về phía anh, thụ động, như một con vật bất lực. Đôi mắt cô không cho anh thấy một dấu hiệu nào. Không tình yêu. Không lời tạm biệt. Không chút nhận thức.
TYT
 
(Trịnh Y Thư dịch từ ấn bản Dubliners, NXB Alfred A. Knoff, 1991.)
 
————-
 
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH:
[1] “Cretonne” là một loại vải cô-tông hoặc vải lanh bền chắc thường có họa tiết hoa nhiều màu sắc và được dùng làm vỏ bọc ghế, rèm cửa và các loại vải bọc khác. Từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp, có thể bắt nguồn từ Creton, một ngôi làng ở Normandy nơi sản xuất vải lanh. Các nguồn khác cho rằng nó có thể được đặt theo tên một nhà phát minh có thể là Paul Creton, người sống trong một ngôi làng có ngành công nghiệp dệt may ở Normandy.
[2] Blackthorn: Một loại cây thuộc họ hoa hồng, ra hoa, mọc nhiều ở Âu châu và Tây Á châu.
[3] Trong nguyên tác, Joyce sử dụng một từ tiếng lóng “nix” có nghĩa là “canh gác” hoặc “theo dõi”. Nguyên thủy từ “nix” có nghĩa là “không có gì” hoặc là một từ cảm thán mang ý từ chối.
[4] Harmonium: Một nhạc cụ có bàn phím giống đàn organ hay piano nhưng nhỏ, gọn, hình dạng như một chiếc hộp lớn, thanh âm hơi giống đàn organ.
[5] Melbourne: Thành phố ở tiểu bang Victoria, Úc. Trong thế kỷ XIX, nhiều tội phạm người Ireland bị đày sang Úc và nhiều người cũng sang định cư ở đó. Vì có nhiều người Ireland theo Công giáo tại Úc vào thời điểm đó, nên chức linh mục Công giáo thường là người Ireland.
[6] Buenos Ayres: Thủ đô Argentina, Nam Mỹ. Trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Buenos Ayres là một thành phố sầm uất thịnh vượng nhờ có nhiều di dân từ châu Âu đến định cư.
[7] Không có bản dịch chính thức nào về ý nghĩa của nhóm từ “Derevaun Seraun” trong ngôn ngữ Gaelic. Có người đoán rằng nó tương đương với “kết thúc của nỗi đau” hoặc “kết thúc của nỗi đau là niềm vui” hoặc thậm chí là “kết thúc của tự do”. Chỉ nên hiểu nó là tiếng kêu của một con người biết mình sắp lìa cõi thế, tiếng kêu trung thực, gần gũi nhất với bản thể thoát ra từ đáy cõi lòng. Cảm xúc trong phần tự sự này được Joyce miêu thuật bằng cách cho nhân vật thốt lên một tiếng kêu thất thanh bằng tiếng mẹ đẻ của mình, một thủ pháp văn chương cao độ chỉ bậc thầy như Joyce mới nghĩ ra.
[8] Chi tiết “giật tay” do người dịch thêm vào, không có trong nguyên tác.
 
LỜI NGƯỜI DỊCH:
 
Eveline, truyện ngắn thứ tư trong tập truyện Dubliners của James Joyce, là một câu chuyện minh họa cho những cạm bẫy của việc bám víu vào quá khứ khi đối mặt với tương lai. Nó là bức chân dung về một cô gái trẻ bị giằng co giữa những mâu thuẫn mà nhiều phụ nữ ở Dublin đầu thế kỷ XX cảm thấy trong cuộc sống gia đình, bắt nguồn từ quá khứ không vui và hiện tại bế tắc trong những cảnh ngộ không lối thoát. Sự mâu thuẫn ấy biến thành cái gì giày vò tâm tư cô gái khi cô gặp Frank, trở thành người tình của anh, được anh yêu thương và hứa hẹn một cuộc sống hôn nhân mới ở nước ngoài. Trong một khoảnh khắc, Eveline cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến một tương lai không bị trói buộc như cuộc sống khó khăn của mình hiện tại, nhưng ngay khoảnh khắc tiếp theo, cô lo lắng về việc thực hiện lời hứa với người mẹ đã khuất. Cô cầm những lá thư đã viết cho cha và anh trai mình, đắn đo suy nghĩ, cho thấy sự bất lực của cô trong việc từ bỏ những mối quan hệ gia đình đó, mặc dù cha cô tàn nhẫn và anh trai cô không có ở bên cạnh để bảo vệ cô. Cô bám víu vào những ký ức cũ, cùng lúc, cô hy vọng Frank là người sẽ giải cứu cô. Eveline treo mình giữa tiếng gọi của quê hương cùng quá khứ và tiếng gọi của một đời sống mới với tương lai hứa hẹn hơn. Cô không thể đưa ra một quyết định nào cho con đường cô muốn bước tới.
 
Một mặt cô nhìn thấy cuộc sống cô sẽ lặp lại cuộc sống của mẹ cô, một “cuộc sống của những hy sinh tầm thường và kết thúc bằng sự điên loạn sau cùng.” Nó bắt cô phải nhận ra rằng cô phải bỏ đi theo Frank và bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời mình. Nhưng nhận thức này không kéo dài được lâu. Cô nghe thấy tiếng đàn organ từ ngoài đường phố vọng lại, và cô nhớ cũng tiếng đàn organ đó ngay đêm trước khi mẹ cô qua đời, và lúc đó cô hứa với mẹ sẽ cố giữ ngôi nhà cho nguyên vẹn. Trên bến cảng cùng Frank, xa rời sự quen thuộc của ngôi nhà, Eveline tìm kiếm sự hướng dẫn trong thói quen cầu nguyện thường ngày. Hành động của cô là dấu hiệu đầu tiên cho thấy thực tế cô chưa có một quyết định dứt khoát nào, mà thay vào đó vẫn đứng im trong vòng tròn do dự. Cô mấp máy đôi môi cầu nguyện, và trong phút giây hoảng loạn, cô bị đóng băng, cô không chịu theo Frank lên tàu.
 
Sự tê liệt của Eveline trong quỹ đạo của sự lặp đi lặp lại khiến cô trở thành một “con vật bất lực”, bị tước mất ý chí và cảm xúc con người. Câu chuyện ám chỉ Eveline không bình thản trở về nhà tiếp tục cuộc sống cũ của mình, mà cho thấy sự biến đổi của cô đã biến cô thành một người máy không có biểu cảm. Câu chuyện gợi ý rằng Eveline sẽ lơ lửng trong sự lặp lại vô nghĩa, một mình, ở Dublin, sống hết đời trong vô vọng. Chiếc tàu thủy ra khơi không có cô đã lấy đi tương lai của cô.
 
Chủ đề “tê liệt” được Joyce tiếp tục triển khai ở truyện ngắn này trong tập truyện Dubliners. Sự bất lực của con người trước những thử thách và chọn lựa có ý nghĩa đã khiến con người luôn lâm vào tình trạng lưỡng nan, không biết con đường nào đúng đắn nhất cho mình. Điều này có lẽ đúng ở mọi nơi, mọi thời đại, do đó, ý tưởng của Joyce trong truyện ngắn này có tính phổ quát, nó là một thuộc tính bất biến của con người chúng ta.
Khi dịch truyện ngắn này, tôi không thể không nghĩ đến thân phận của rất nhiều người Việt Nam, trong số có những người thân quen của tôi, đã cùng chung một cảnh ngộ với cô gái trong truyện. Mức độ của sự bất hạnh có thể hơn kém khác nhau, nhưng nỗi đau của thân phận con người là một. – TYT

  

Monday, February 17, 2025

NGÔ TỊNH YÊN. THƠ

 

Tm MƯa
 
tắm mưa nhông nhông ở truồng
thả chiếc thuyền giấy theo luồng nước trôi
chở theo mộng mị xa xôi
chuyện thần tiên của hai người bé con
chỉ biết vui chẳng biết buồn
tung tăng những buổi mưa tuôn từ trời
hai mươi năm mưa vẫn rơi
nhưng chiếc thuyền giấy và người xưa đâu ?
tan theo những giọt mưa ngâu
hay chìm trong bão sông sâu cuộc đời
mưa giăng dưới lũng trên đồi
nhớ mưa ai tắm cùng tôi thuở nào?
 
 
La rƠm
 
Để chi cho lửa gần rơm
bây giờ gạo nấu thành cơm mất rồi
đã trót cho nhau một lời
trời long đất lở chẳng rời một khi
lỡ xa nhau nhớ kể gì
chân run? mắt liếc? tay ghì? môi trao?
rơm ơi! lửa vẫn thét gào
cháy thành tro bụi khát khao bên người
 
 
Ni âm ba sáo diu
 
nối muôn xưa
đến bây giờ
sợi dây tuổi nhỏ mộng mơ cánh diều
 
nối không gian
sáng vào chiều
thương yêu nối nhớ vào điều lãng quên
 
nhớ dây đứt
lại còn nguyên
nối hiên vọng cổ, nối thềm ca dao
 
nối chua cay
với ngọt ngào
nối mương lạch với dạt dào biển sông
 
nối thân quen
với lạ lùng
nối yên vui với bão bùng gió mưa
 
nối đương nhiên
với bất ngờ
nối phụ phàng với đôi bờ nhớ mong
 
nối cỏ hoa
với mục đồng
nối con nước lớn nước ròng chia xa
 
nối sáo diều
với âm ba
 
NTY
 

Saturday, February 15, 2025

KINH VÀ KỆ

Tố Nghi
 
Kinh Thánh chữ Quốc Ngữ thời Đắc Lộ
 
1-
Tháng 11 là tháng các linh hồn. Sau lễ các thánh 1 November, là lễ các linh hồn, những người đã lìa đời. Tuần lễ 2-8 november là thời khắc để gia đình nhớ tới những người thân đã khuất. Là dịp hội họp gia đình, đi lễ cầu nguyện và ra nghĩa địa dọn dẹp. Riêng tui thì đây là dịp lết tới nhà thờ cốt để nghe kinh cầu các thánh bằng tiếng latin.
 
Nói chiệng đọc kinh tối trong gia đình là nhớ dì hai, chuyên gia hán nôm thứ thiệt: "Phục dĩ chí tôn, chân chúa cửu trùng, cao ngự tri thiên, khả tiểu phàm phu..." Hồi nhỏ hổng hiểu, chỉ nhớ được 4 câu đầu, loáng thoáng như là... “Khấu lạy đấng chí tôn, chúa thật ngự trên chín từng trời cao thẳm, đây tôi là đứa hèn mọn...".
 
Bữa nay lần trong nét và kiếm ra bài kinh Phục dĩ xưa. Kinh có tên Cảm-tạ niệm-từ, hay kinh cao sang, đọc trong ngày giỗ và trong tháng các linh hồn. Bất ngờ thêm cái nữa: Đây là một kinh cổ, rất cổ, từ thời chữ quốc ngữ chưa có hay mới chỉ chào đời - khi linh mục Đắc lộ (Alexandre de Rhodes) thuộc dòng tên Jesuits, theo bước chơn các thương nhơn hàng hải tới đàng trong rao giảng tin mừng cứu chuộc -
https://gpcantho.com/kinh-cam-ta-niem-tu/
 
2-
Tra cứu Sách vở lịch sử ra những chi tiết tóm gọn như sau:
- Thế kỷ 16, Trịnh và Nguyễn là hai công thần giúp nhà hậu Lê lấy lại sơn hà xã tắc đã mất vào tay nhà Mạc trước đó. Rồi Trịnh được phong tước chúa ở bắc hà, đàng ngoài, quyền uy rất mực. Vua Lê ngồi trên ngai vàng làm vì, quyền bính hoàn toàn trong tay chúa Trịnh.
 
- Xảy ra tranh chấp ngầm giữa Trịnh và Nguyễn. Biết mình yếu thế hơn, Nguyễn xin vua vào trấn nhậm đàng trong, một mặt củng cố thực lực, mặt khác mở mang bờ cõi biên cương xuống phía nam. Rồi tự xưng vương (tước chúa) ngang hàng với Trịnh
Cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn, tuy mặt ngoài giữ tình hoà hiếu qua lợi (gả con gái cho nhau) nhưng bên trong vẫn ngấm ngầm vây cánh chuẩn bị thời cơ loại kẻ thù, dẫn đến cuộc chiến " Trịnh-Nguyễn phân tranh" kéo dài hơn 100 năm, với sông Gianh ngăn đôi đất nước - cho tới khi một nhà Nguyễn khác, Nguyễn Tây sơn, lợi dụng việc suy yếu dần của cả hai miền, mang quân lần lượt thu giang san về một mối, thành lập vương triều Tây sơn.
 
- Theo thuyền bè thương nhân Bồ đào nha và Hòa Lan vào đàng trong buôn bán tại cảng Hội An, còn có các vị thừa sai tới rao giảng nước trời, trong đó có cha Đắc lộ dòng tên. Từ đàng trong, các giáo sĩ truyền đạo đi dần lên hướng bắc, tới luôn đàng ngoài của chúa Trịnh. Họ học nói tiếng việt, nhưng chữ viết khi ấy chưa có, buộc phải dùng hán nôm. Mãi cho tới khi cha Đắc lộ mang mẩu tự latin đưa vào chữ viết, giúp việc truyền giáo dễ dàng hơn.
 
3- Hán nôm - Hán việt.
Đọc tài liệu về kinh phục dĩ này xong hiểu ra vài chuyện
- Thời xa xưa nẳm nằm, VN mình có tiếng nói, tuy là giản dị nhưng là thứ tiếng riêng dân tộc Việt: tiếng việt. Chữ viết chưa có, buộc phải dùng chữ hán của trung hoa. Chỉ kẻ sĩ mới biết chữ hán.
Sau này, chữ nôm xuất hiện. Chữ nôm là của riêng người việt, đặt ra mần màn độc lập tự chủ, thoát khỏi văn hóa trung hoa thống trị ảnh hưởng lâu đời (từ lập quốc). Chữ nôm là chữ hán cải biên, cũng giun lươn y chang, nhưng âm đọc trại đi, người việt nghe hiểu nhưng người tàu thì không. Cái chi mới, nhứt là trong văn học, thường dễ sanh nghi hoặc, rồi dè bỉu chê bai... "nôm na là cha mách qué" y hình phát xuất từ vụ này.
 
- Hán nôm vẫn là lãnh vực riêng của kẻ sĩ, bởi muốn hiểu cho ra đám chữ nôm ấy cần phải có căn bản hán học. Người việt trần trụi đọc chữ nôm hổng ra, nghe chữ nôm giản dị có thể đoán để hiểu, nhưng nôm rắc rối kiểu hán-nôm (điển cố, ẩn dụ...) thì cần giải thích.
Rồi linh mục Đắc lộ dòng tên, trong mục đích truyền giáo, đưa mẫu tự latin vào ngôn ngữ việt, để dần dà sau này chánh thức thành chữ viết cho người việt, chữ quốc ngữ.
Hán việt là âm của hán-nôm, viết bằng quốc ngữ - cũng rắc rối cần giải thích y chang - Việt nam có lẽ là nước á châu duy nhứt có chữ viết bằng mẫu tự như âu mỹ thì phải, và đã sanh những nhà nho "bất phùng thời" vì... thiếu update như cụ Nguyễn khuyến. Cụ Khuyến mần thơ tiếng việt trăm phần dầu... ao thu lạnh lẽo nước trong veo, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo... nhưng viết xuống giấy bằng chữ nôm. Thời cụ, chỉ kẻ sĩ mới đọc được, bọn thiếu học sẽ trật trờ nếu như hổng có người đọc dùm cho nghe. Đám hậu sinh sau này hiểu ron rót nhờ có bản quốc ngữ.
 
4- Phục dĩ chí tôn.
- Khung cảnh thời gian:
Thế kỷ 14-15. Trịnh-nguyễn phân tranh, cùng chọn slogan Phù lê để hạp thức hóa tranh chấp. Và họ ít nhiều xin được viện trợ quân liệu quân nhu từ "thực dân" (bồ trước đó, và pháp sau này) Tàu thuyền ngoại quốc (bồ đào nha) bắt đầu vào VN tìm thị trường. Thương nhân ngoại quốc đổ bộ vào Phố Hiến (đàng ngoài) Hội An Đà nẵng (đàng trong) buôn bán đổi chác thương mại. Tới cùng với họ là các giáo sĩ thừa sai dòng tên xứ bồ, với linh mục Đắc lộ là vị thừa sai jesuite đầu tiên.
Đi cùng cha Đắc lộ có một linh mục trẻ mới vừa chịu chức, cha Jeromino Majorica (J.M). Nhiệm vụ truyền giáo của các thừa sai dòng tên không chỉ ở VN nhưng toàn đông nam á và các đảo phụ thuộc trong vùng.
- Cùng với việc rao giảng tin mừng cứu chuộc, đã nảy sanh những nghi ngờ về mục đích truyền giáo, và những cọ xát với dân bản địa tôn trọng giáo dục khổng mạnh. Tranh chấp dần dà khốc liệt, dẫn tới việc bắt giam trục xuất giáo sĩ ngoại quốc, bạc đãi giáo dân theo tín ngưỡng mới, và còn cấm đạo triệt để trong thế kỷ 17, dưới triều hậu duệ nhà Nguyễn Gia long (Thiệu trị, Minh mạng, Tự đức)
 
- Hoàn cảnh văn hóa phôi thai.
Thời gian đầu, sách vở tôn giáo không có, VN dùng hán tự, rồi hán nôm. Để dễ dàng thuận lợi, sách vở giáo lý buộc phải dịch ra tiếng hán và hán nôm.
Cha Đắc lộ đã giao cho cha J.M phụ trách, bởi J.M có chút ít vốn liếng hán văn
Dòng tên xuất phát từ Lisbone đất bồ, khi sang viễn đông đã lập ra sổ "hộ tịch" của riêng dòng, ghi tên tuổi, năm sanh năm mất của các vị thừa sai linh mục lẫn các thày giảng giáo lý (catechism)  thuộc dòng, để dễ bề tra cứu sau này và cầu nguyện cho họ trong những dịp lễ. Đầu bảng là Alexandre de Rhodes Đắc lộ, theo sau là J.M v.v...  Và cha Đắc lộ đã mang mẫu tự Latin vào để thành chữ quốc ngữ như đã nói.
- Jeromino Majorica (1591-1656) : Người xứ Napoli đất ý, vào dòng tên (jesuite) năm 1605 khi mới 14 tuổi. Thụ phong linh mục khi mới ngoài 30 tuổi. 1623- 1629, cha J.M sống ở đàng trong (chúa Nguyễn). Tới 1631 mới ra giảng đạo ở đàng ngoài (chúa Trịnh).
Sự nghiệp đồ sộ ông để lại sau khi mất, trên 44 tác phẩm (44-48 quyển) phần lớn dịch thuật kinh sách từ tiếng latin sang chữ hán (rồi hán nôm)
Riêng kinh "cảm tạ niệm từ" là một trước tác thẳng (không dịch thuật) bằng hán văn.
Tất cả các tài liệu này được lưu trữ tại văn khố dòng tên ở Lisbone Portugal.
Nghe nói văn khố ở Paris cũng có, không rõ là bản sao, hay bản chánh đã được nhà dòng chuyển giao sang pháp.
 
- Cuộc tranh luận tại đàng ngoài.
Thời Trịnh Tráng, công cuộc rao giảng tin mừng cứu chuộc chỉ mới khởi đầu. Tại đàng trong, các linh mục thừa sai tới Hội an, rồi lần dần lên kinh đô phương bắc, sau tới thẳng đàng ngoài tại phố Hiến, cửa khẩu Hưng yên. Khi ấy ảnh hưởng Khổng-Mạnh và phật giáo còn bao trùm.
Thời Trịnh Tráng tại vị, ông đã mang vào phủ 10 vị quan văn, phụ trách văn học luân lý đạo đức. Đây là những vị chọn ra từ các sư tăng ở đàng ngoài, tinh thông hán học và đạo pháp.
Việc cọ sát văn hóa tín ngưỡng đã dẫn tới cuộc gặp gỡ năm 1632, giữa cha J.M và 10 vị quan văn này tại phủ chúa Trịnh . Đề tài tranh luận dựa trên nền tảng văn hóa VN, bao gồm giáo thuyết, vũ trụ nhân sanh xã hội. Hổng rõ J.M hùng biện tới cỡ nào mà sau đó đã "lung lay" được một trong 10 vị sư tăng quan văn ấy. Chúa Trịnh tráng hỡi ôi, mần màn cách chức và tống cổ luôn đứa "phản thùng" nọ ra khỏi phủ chúa. Sách vở hổng cho thêm chi tiết nên không rõ ông quan văn nọ là ai !
 
- Kinh Phục dĩ chí tôn
Tất cả các nhà nghiên cứu phê bình văn hoá đều cho đây là áng văn chương trác tuyệt trong khung cảnh văn học sử thời ấy, khi VN chưa có chữ viết riêng. Phục dĩ chí tôn là kinh nguyện đọc trong lễ an táng, giỗ chạp và suốt trong tháng 11, tháng các linh hồn.
Tuy kinh nằm trong các tác phẩm để lại của linh mục Jeromino Marorica, J.M, nhưng đây không phải bản kinh dịch từ tiếng latin sang hán tự, nhưng hoàn toàn là một trước tác viết bằng hán văn. Dù vốn liếng chữ hán J.M có, nhưng chắc chắn không đủ để có thể là tác giả biên soạn ra tuyệt phẩm này, trong khung cảnh thời sơ khai ấy. Kinh viết theo thể văn tế, kiểu sớ, đọc lên như bài kệ, nặng tinh thần thiền tông "hóa sinh trụ diệt, sinh ký tử quy" trong giáo lý phật. Đã nảy sanh nghi ngờ, rằng kinh ấy hẳn phải do một vị tinh thông hán học và phật pháp, nghĩa là một trong những cộng tác viên của J.M, viết ra. Các nhà nghiên cứu nớ mới lục lọi kiếm tìm chứng thực, nhưng... không ra thêm được chi tiết nào khác nữa.
 
Nhơn chuyện này tui mới biết về sớ, sớ táo quân chẳng hạn. Sớ là bản tường trình với "bề trên" tức boss, kết quả công việc được giao phó. Sớ có lớp lang đàng hoàng, đại khái là nhập đề (tán tụng boss nhiệt liệt), thân bài (tường trình chi tiết) rồi mới kết luận (xin xỏ lung tung). Sớ mở đầu bằng term "phục dĩ" nghĩa là khấu lạy, tấu lạy. Các bài sớ phật giáo tìm ra trong nét, luôn luôn bắt đầu bằng hai chữ phục dĩ này.
 
- Khảo nghiệm và tra cứu :
Cha phillipe Bỉnh, linh mục dòng tên VN, chuyên gia về giáo sử - lịch sử của đạo công giáo ở VN - Năm một ngàn tám trăm lâu lắm trong thế kỷ 19, ông sang và ở lợi Lisbone suốt 30 năm dài, vào văn khố dòng tên tại đây, lục tung các văn kiện lưu trữ, cốt tìm cho ra... "đáp án vụ việc". Và trong đám văn kiện cổ tích ấy, đã có vài điều liên quan khả tín về kinh Phục dĩ chí tôn này.
Theo cha Phi-líp-phê Bỉnh, sáng tác gia của bản kinh không thể là ai khác hơn vị tăng sư quan văn tinh thông hán học và đạo lý cả nho học lẫn phật học, theo J.M từ thời Trịnh tráng. Tuy tên tuổi chánh xác không có, nhưng cha Bỉnh đọc được trong sổ hộ tịch nhà dòng của VN, thấy có tên " Thày phan-xi-cô thành Phao (?- 1640) " - chết vì đức tin " - nghĩa là "tử vì đạo - Thày ở đây có thể là thày (tăng lữ nhà phật), cũng có thể là thày dạy giáo lý (công giáo, catechism). Sau khi bị trục xuất khỏi phủ chúa 1632, thày được cha J.M rửa tội vào đạo 1636, với tên thánh phan-xi-cô.
 
Từng là tiến sĩ quan văn của Trịnh Tráng, khi này có thể tuổi đã cao (không có năm sanh) nên thày chỉ phụ trách những hồ sơ văn bản về truyền giáo. Và là tác giả áng văn chương hán tự Phục-dĩ lẫy lừng trong gia tài của cha J.M để lại.
Tuy chức phận trong nhà dòng không có, nhưng vì công lao giúp đỡ cha J.M quá lớn, nên tên thày đã được ghi chép vào sổ hộ tịch nhà dòng, "thày Phan-xi-cô thành Phao". Phao sơn là tên ngôi làng ở đàng ngoài, huyện Chí linh, tỉnh Hải Hưng, có chùa Phao sơn, là chỗ cư ngụ của thày trước khi đậu tiến sĩ và được chúa vời vào phủ.
Theo như cách suy luận của cha Bỉnh thì : dùng chữ thày để phân biệt với các linh mục, và thành Phao để phân biệt với những tên phan-xi-cô khác sau này. Thày phan xi cô thành Phao mất năm 1640, 8 năm sau khi theo cha J.M truyền giáo và 4 năm sau khi rửa tội vào đạo.
 
5- Litanies- Kinh cầu
- Litanie là một loại kinh đã có từ rất lâu, khi hội thánh chúa chưa hoàn chỉnh đám kinh sách căn bản. Nên rồi... trong đám kinh cầu nọ, thường khi có những chữ cổ đã mai một với thời gian, không gian, cả trong anh pháp ngữ lẫn việt ngữ.
- Litanies không nhiều, khoảng 8 bài là hết đất, trong đó dài và bài bản nhứt là kinh cầu đức bà, ngắn và gọn gàng nhứt là kinh cầu các thánh.
- Gọi kinh cầu vì đây là hình thức cầu nguyện, tán tụng, cao rao, ngợi khen, để xin ơn phước, xin cầu bầu, thương xót, chở che, bảo ban, ủi an, vững lòng trông cậy... v.v.
- Trong buổi đọc kinh chung, kinh cầu thường đọc sau cùng, có phần xướng và đáp. Câu xướng ngắn và thay đổi, còn câu đáp giản dị, lập đi lập lại y chang (xin thương xót chúng tôi hay xin cầu cho chúng tôi), nên rồi bài kinh cầu cứ thế đều đều một giọng - và người đáp thường phải cầm lòng cầm trí để đừng... ngủ gục giữa bài kinh -
 
Dịp 1st Novemver nghe kinh cầu các thánh bằng tiếng latin, rồi lan man sang dì hai và kinh Phục dĩ.  Đọc kinh tối với dì hai, trong thánh các linh hồn, y phép sẽ được nghe kinh phục dĩ hán nôm, ngoài tháng sẽ là kinh cầu đức bà cũng hán nôm luôn. Ngộ cái, nguyên họ ngoại hổng ai thuộc ráo, chưa chừng còn hổng hiểu chi, ngay cả bà ngoại lẫn má !
Thời sanh tiền, ông ngoại rất trọng chữ nghĩa nên cho bác cả (anh của mẹ) và dì hai đi học đàng hoàng. Má cũng được đi học cho tới khi cha mất. Dì hai có học, nhưng ngó chừng lười biếng đọc sách so với má. Má do mặc cảm thiếu chữ, nên chăm chỉ tục ngữ ca dao và tự lực văn đoàn, rồi truyền lợi con gái út. Trời thần ơi, nếu hổng có má, dám giờ này tui mù tịt văn hoá việt hổng chừng !
 
Chừ nghe và hiểu rốt ráo khung cảnh thời gian lịch sử nhơn văn thì hết hồn. Mẹ cha tôi ơi, làm sao và cách nào mà dì hai đã download nổi hai bài kinh dài thoòng hán nôm thứ thiệt nọ vô đầu. Hổng biết dì có hiểu nội dung không hay chỉ thuộc như két. Giả như hổng hiểu, có thể vì nhạc tánh câu kinh đã giúp dì hai nhớ thuộc lòng chăng ?
Mỗi bận đọc kinh chung gia đình có bà ngoại và má, tới kinh Phục dĩ y phép dì hai thành solist thứ thiệt, ngân nga trầm bổng có âm có điệu đàng hoàng. Nguyên đám backup singers tụi tui (cả má và bà ngoại nữa) chỉ lên giọng Amen mần màn gia tăng hiệu ứng cầu nguyện.
Sau đây là link đầy đủ về kinh nguyện này, cả tiếng hán lẫn hán nôm và cách "ngâm" theo nốt nhạc, với bản dịch từng câu và bài phóng tác sang thơ quốc ngữ - dễ hiểu dễ nhớ hơn... chút nẹo ! Ngó nó một chập tui sanh hoa mắt nhức đầu, lòng cảm phục dì hai lên thẳng đỉnh thiên hà. Tuy vẫn được coi là có trí nhớ tốt, nhưng ngó chừng tui chưa xách được dép cho dì hai.
https://giaoxuchauson.com/chuyen-de/mot ... -1895.html
 
Từ chuyện dì hai - thuộc lòng kinh cầu Cảm tạ niệm-từ, trước tác hán nôm của thày Phan-xi-cô thành Phao - tui lần ra thêm được một kinh hán nôm nữa, cũng do dì hai đọc : kinh cầu đức bà. - chỉ nhớ láng thoáng câu "căng liên thần đẳng" thôi, kỳ dư thì hổng nhớ thêm chi khác nữa. Rà nét thì liên biến thành lân "căng lân thần đẳng" -
Cảm tạ niệm từ là kinh soạn ra bằng tiếng nôm ở thế kỷ 14-15, hổng phiên hổng dịch chi ráo. Nhưng kinh cầu đức bà là kinh dịch từ tiếng latin.
Thời nẳm kinh sách soạn rồi, phải chờ toà thánh chuẩn phê (sau khi sửa đổi chút nẹo). Và kinh cầu đức bà này đây đã được tòa thánh chánh thức cho phép phổ biến từ thế kỷ 16, chánh xác là năm 1587.  Bản dịch chữ nôm (còn gọi là quốc âm), y chang kinh Cảm tạ niệm từ, đọc lên thiệt trần ai khoai củ chớ hổng trơn tru dễ dàng chi.
Khi chử quốc ngữ chào đời và hoàn chỉnh từ từ, thì kinh cầu đức bà được "dịch" từ quốc âm sang quốc ngữ, nghĩa là chữ việt chúng ta nói và viết ngày nay. Dễ hiểu nên dễ nhớ và dễ thuộc. Thời dì hai, bảo đảm kinh cầu đức bà bằng quốc ngữ đã có rồi, có lâu rồi.
 
Hổng hiểu tại sao dì hai lại sính chữ nôm dữ dzậy? Sách "Lịch sử công giáo" nói vầy : Trong thế kỷ 17, khi vào VN để giảng đạo, các linh mục dòng tên Bồ đào nha đã dùng bảng mấu tự latin để tạo ra quốc ngữ - phân biệt với chữ quốc âm, tức chữ nôm biến thể từ chữ hán - Tới thế kỷ 19, kinh sách công giáo hầu như vẫn bằng chữ nôm. Mãi cho đến giữa thế kỷ 20, chữ quốc ngữ mới phổ cập và thực dụng. Dì sanh đầu thế kỷ 20 (1919), tuy theo tây học, nhưng vì ở họ đạo miệt quê thành đã nghe trường kỳ kinh tiếng nôm rồi thuộc lòng chăng, còn bằng không chắc là dì làm màn chảnh, chơi nổi lấy tiếng !
Vì Cảm tạ niệm từ hổng có bản quốc ngữ, nên dì hai phải "hát" nó bằng quốc âm thì còn xính xái. Chớ tới kinh cầu đức bà, dì vẫn nhứt định đọc bằng tiếng nôm thì thiệt là hỉểu hổng ra, bởi dì là người duy nhứt  có thể "hiểu" ý nghĩa bài kinh đang đọc. Đám chorist - backup singers quanh dì - hổng ai hiểu chi, bảo đảm ngay cả bà ngoại và má.
Câu hỏi to đùng ở đây là: dì hai nhứt định xài tiếng nôm với dụng ý gì ? Chảnh là cái chắc, còn không thì... có thể do dì chỉ thuộc tiếng quốc âm chớ hổng quốc ngữ. Mà cứ đọc miết vậy, dần dà đã thành thói quen.
 
Mãi tới khi cháu gái dì làm màn vùng dậy giành độc lập tự chủ cho tiếng việt với bản quốc ngữ của kinh cầu đức bà, thì... dì hai đành chịu phép, nhường microphone lợi cho nó làm soliste, và nó chăm chỉ chu toàn bổn phận. Lần cầu kinh gia đình, bất kể ở đâu (cả bên nội lẫn bên ngoại) cứ tới kinh này là... a-lê-hấp, nó mình ên xướng từ A tới Z, và toàn thể thành viên hội kinh thưa theo !
Mà rồi... ai đứng đằng sau yểm trợ cuộc cách mạng văn hoá kinh sách nớ hở? Thưa... còn ai khác hơn là tía và anh hai. Tía biểu: Hai, con ráng kiếm cho ra bản kinh cầu đức bà tiếng việt, để mẹ dạy em học thuộc, chớ nghe di hai bay ngân nga tía nổi da gà, mà hổng ai hiểu ráo trừ người đọc nọ. Rồi anh hai mang bản kinh về và tui được má dạy đọc và học thuộc không vấp váp.
 
Mấy chục năm trước, tui thuộc như két hai kinh cầu: các thánh và đức bà. Thuộc tới độ cứ ngỡ như sẽ không thể, không bao giờ có thể quên được. Mấy chục năm sau, trí nhớ mờ nhạt dần vì không còn dịp đọc lại chúng. Dịp lễ các thánh tui lần tới nhà thờ nghe kinh cầu các thánh bằng tiếng latin (y chang tiếng vọng từ trời cao). Nhưng... kinh cầu đức bà hầu như không còn dịp nghe lại nữa - tiếng việt, tiếng pháp tiếng latin cũng không luôn - Rồi yên trí minh đã quên hẳn bản tiếng việt thời nhỏ dại... Dè đâu...
Lần vào nét, tui tìm ra bài kinh cầu đức bà, đọc chỉ hai lần thôi là đã nhớ lại hết 100%. Vậy mà ông kia hổng tin heng, biểu em nói xạo. Tui bèn đọc luôn phần xướng, bắt ổng đọc phần thưa cho đủ, viện cớ kinh cầu như bài thuộc lòng đã học rồi, chừ đọc lợi phải đủ đuôi đầu từ A tới Z, thứ tự nhịp nhàng khuôn phép đề ra.
Tui đề nghị "hổng thôi... tối tối vô giường, mình đọc chung kinh cầu này làm màn hợp quần gây sức mạnh". Ông kia biểu để suy nghĩ cái đã trước khi trả lời. Ông nói: Kinh chi mà từ đầu tới cuối tuyền những lời ca tụng cao rao danh tánh phẩm hạnh cốt dọn đường, đã đời đã điếu để rồi xin xỏ lung tung. Anh mà là đức bà đức mẹ, bảo đảm từ chối hết mọi chuyện, nịnh nọt cầu lợi thôi chớ chắc gì đã thiệt lòng thiệt dạ! Giê-su, maria, giu-se... xin chúa tha tội cho thẳng ... amen!
TỐ NGHI 

Sunday, February 9, 2025

ĐÊM NAY. ANH NGỒI ĐỌC LẠI THƠ PABLO NERUDA

nguyễnxuânthiệp
 
Pablo Neruda
 
Đêm nay. anh ngồi đọc lại
thơ pablo neruda
20 bài thơ tình. và một khúc ca tuyệt vọng
twenty love poems. and a song of despair
đã gần hai giờ sáng
trăng hạ tuần. soi. trên thềm đá ẩm
bản tin thời tiết chiều nay báo
sẽ có late fleuries
anh nhìn ra ngoài trời
chỉ thấy ánh trăng. xanh màu hortensia
huyền hoặc
và anh đọc thơ pablo neruda
mà ngỡ như thơ mình
“ở nơi này. tôi nghĩ đến em
này yêu dấu em. giữa những hàng thông đen
                    thẫm. gió cũng vùng vẫy thoát bay lên
mặt trăng tỏa ánh ngần trên dòng nước phiêu bạt
những ngày. như mọi ngày. nối tiếp nhau đi…”
ôi. em
đã hơn hai giờ sáng
anh mở cửa sổ. nhìn ra
mái ngói. giờ này đã đóng băng. một lớp băng mỏng
và mặt trăng
treo trên cành khô
một tiếng chim. rơi rụng. từ trí nhớ
“đêm nay. tôi có thể viết. những câu thơ buồn
tôi yêu em. và đôi khi em cũng yêu tôi
ôi cơn đau cuối cùng này
và những câu thơ. tôi đã viết cho em”
vẫn là thơ của pablo neruda
đọc lên trong đêm. không ánh lửa
và trời sẽ có tuyết bay. bông fleuries
dẫu sao thì pablo neruda đã chết
và anh cũng sẽ ra đi
ôi thơ anh. và thơ pablo neruda
sẽ bay lên. bay lên. cùng hồi chuông cô quạnh
mỗi chiều, khi em mở cửa nhìn
và những đám mây. cũng bay đi. như những vuông
                                                khăn tiễn biệt
em ơi
 
Jan 7. 2010
NXT