Friday, November 30, 2012

‘TÔI CÙNG GIÓ MÙA’ VỀ CỐ THỔ


Phan Thị Như Ngọc



                                         NXT. Qua trí nhớ một thời Đà Lạt. 
                                                     Tranh Đinh Cường


   Đầu tháng 12, rừng miền đông khô khốc, hanh hao. Cây đua nhau trút lá. Kẻ viết bài cất nhà gần rừng, sáng chiều ngồi nghe lá rụng. Năm ngoái lên Lâm Đồng, hái một bông dã quỳ khô, về rứt cánh, thả bên hông nhà. Bây giờ, được cả cụm dã quỳ khỏe mạnh. Mỗi sáng hoa đua nhau khoe sắc, hắt những vệt vàng chói lọi lên trời, rủ rê nắng gió. Nhìn cách gió luồn vào hoa lả lướt, nhẹ nhàng. Hoa gật gù, rì rầm với gió, dễ liên tưởng chúng là đôi bạn cố tri. Gió kể cho hoa nghe những nơi chốn gió qua, những việc, những người gió gặp...
   1. Bồng bềnh qua bao nhiêu đại dương, sa mạc, phố xá văn minh, gió hạ xuống Dallas, ngay lúc buổi ra mắt sách của tác giả Nguyễn Xuân Thiệp đang vào hồi tưng bừng. Ông Th. tươi cười đứng trên sân khấu, giữa nhiều phụ nữ trẻ đẹp, hát hay. Ông Th. hân hoan trong vòng vây của hoa, rượu, bằng hữu và độc giả ái mộ. Ông Th, gương mặt đàn anh chững chạc của làng báo Dallas hôm nay. Ông Th, của thời thơ ấu Huế xưa, mưa dầm, mang mo cơm, đội áo tơi lá ngồi đò đi học. Ông Th. thời trai trẻ Mỹ Tho, Pleiku, Đà Lạt vi vu lãng mạn. Ông Th. thời trung niên tù đầy, u uất Thanh Hóa, Sài Gòn. Ông Th, thời lão niên, sang Mỹ, như chim lìa rừng, hoa lìa trời. Tất cả mọi gương mặt, mọi thời kỳ, chập lại…
   Trong những hồi ức kể lúc này lúc khác, trong những trang viết của ba tập Bên tách cà phê, Thơ Nguyễn Xuân Thiệp, Tôi cùng gió mùa, trong bài viết của bạn bè nhân ngày ông Th ra mắt sách, có những kỷ niệm thơ mộng, những tên người tên đất cụ thể, những con số năm tháng không quên nhưng tịnh không hề có bóng dáng 'thiên biên nguyệt' hẩm hiu, nhợt nhạt. Cũng là lẽ thường tình! Kẻ viết bài vào thư phòng, tìm trên kệ sách, rút cuốn thơ Tôi cùng gió mùa  được tác giả ký tặng năm 2006, thì thấy, lạ thay, ở mép cuốn sách dầy 184 trang, cuốn tròn, dính chắc từ bao giờ, một chiếc kén kết bằng lá, không biết lá gì! Nhìn chiếc kén lá, lại nhìn những con chữ bên trong cuốn thơ, kẻ viết bài thấy có chỗ giống nhau. Vì nếu chỉ bằng những chiếc lá khô từng lăn tròn mặt nhựa, cuốn theo chút nắng cuối trời, những chiếc lá đựng hoàng hôn, được trẻ con nhặt làm kèn thổi, mà hoặc sâu bướm hoặc tò vò đã tỉ mỉ, và cả mỹ thuật, kết được chỗ dung thân ấm áp thì, tương tự, ông Th, cũng đã bằng những con chữ rời rạc vô tri, kết thành một chặng đường thơ, đường đời vắt qua hai bờ Đông- Tây, hai bờ thế kỷ, hai bờ sướng khổ đời người.
    Tập Tôi cùng gió mùa của ông Th, điển hình cho kiểu thơ của người trí thức thích kết giao, yêu thiên nhiên, dễ xúc động, hay nghĩ ngợi, triết lý. Những bài thơ như Thơ viết trên trực thăng, buổi chiều dã quỳ, Âu Như Thuy, Kẻ sĩ Nga Sơn, Chiều bên sông Giăng, Trà, thơ, sinh nhật vợ… đều xuất phát từ cảm hứng thật, tình tiết thật, vì thế có lượng thông tin lớn, độ tin cậy cao. Đọc chúng, ngay người đa nghi nhất cũng không thể 'cứng', ngược lại, thấy lòng như cửa sổ đêm trăng, mở toác hoác, rưng rưng. Có thể đọc nhẩn nha, có thể đọc một mạch 43 bài thơ, 175 trang thơ, sẽ thấy đó không phải là văn bản mà là nhiều tầng bậc hỉ nộ ái ố. Có tầng hun hút gió mùa, thổi rỗng ruột gan người xa xứ với hoài niệm cỏ lá quê nhà, tuổi nhỏ, tình yêu. Có tầng toàn tù tội, chập chờn củi lửa, hắt hiu cơn mộng, tiếng đàn. Có tầng chen chật bạn bè trên toa tầu lịch sử, kẻ còn người mất khóc không ra tiếng. Lại có tầng ngẩn ngơ tự hỏi chiều mây trôi. về đâu nắng không bến đỗ... Đọc xong, bỏ sách, quay ra ngoài, quay vào trong, quay đâu cũng chỉ một gương mặt Th, trái tim Th chân thật. Bất giác, muốn lên núi Nam Hoa đốt điếu thuốc cháy hư không nhìn ngọn khói bay. Hỏi trời sao nhiều mây nổi. sao hồn tôi. như đóa phù dung. ứa đỏ trong chiều. hạt máu thơ.
2. Thơ Th, không hề đánh đố người đọc kiểu thơ hũ nút, thơ siêu thực, càng không 'bỏ bom' người đọc bằng khẩu hiệu đỏ lòm, giường chiếu lăng nhăng, hiện sinh quái dị. Nhưng thơ Th. khá kén mắt xanh. Muốn vào được 'cõi Th', ít nhiều phải 'nhúng' trong văn hóa phương đông, đọc thơ văn, lịch sử, triết học, tôn giáo, 'dắt túi' vài mươi điển tích phổ thông. Không thế, không thể hiểu Người cưỡi trâu xanh đi biệt khơi Sa mạc xa tượng nhân sư rống Không gian xanh mầu nam hoa kinh Phần thư xanh về phố ôn như. hỡi ơi một lần qua cầu thệ thủy. Xưa cổ nguyệt ven sông người dựng quán thơ Mảnh tình riêng. áo cài khuy mà cho bờ tầm xuân. ong non. dê cỏn Nhân dẫn chứng thơ Th, tới mấy dấu chấm giữa giòng, kẻ viết bài bỗng nhớ lời một độc giả nữ. Chị này nhận xét, đặc sản thơ NXT có lẽ là mấy cái dấu chấm kỳ lạ, 'không đụng hàng'. Thường ra, khi viết lách, người ta dùng dấu chấm để báo hết ý. Sau dấu chấm, câu tiếp theo hay sử dụng kết cấu chủ- vị, chữ đầu tiên của câu phải viết hoa, Đằng này, ông Th. 'chơi' dấu chấm như người đang đi bỗng 'lên máu', 'xuống máu', phải đứng dừng, thở từng hơi mệt nhọc hay như người đang thao thao bất tuyệt bỗng vịn lan can, ngửa mặt nhìn trời, nén xúc động, buông chữ lững thững. Cách chấm thay cho phết, chấm không viết hoa, chấm vẫn tiếp ý, chẳng những không gây loạn câu, đứt mạch, tối nghĩa, trái lại còn 'trang trí’ cho thơ thêm phần lạ mắt, kiểu chấm nốt ruồi duyên lên mặt người đẹp, giúp tăng nét độc đáo ưa nhìn. Lấy tỷ dụ mấy câu, trích trong bài Ánh Trăng (trang 89- bản in lần đầu)

… vầng trăng đứng cuối đường ray. gió
những toa tầu. qua. khuất. lau thưa
thức trong cây. trái tim sầu úa
như trăng. người của thuở không nhà

Hay một đoạn trong bài Trà oán (trang 120)

lũng thấp. đèo cao. mù núi bốc
mưa vèo bay. mùa đông. tối mặt
rét. sương thu. xanh tím thịt da
đường đi đạn nổ. máu loang cát
lối về gò nổng. mưa lâm thâm

   Cũng bàn về thơ Th, nhưng không về hình thức thể hiện mà về 'duyên' thơ, một 'nam tử hán đại trượng phu' chán mùi tục lụy (nhưng lâu lâu cũng hạ 'cờ tây'), nhân được kẻ viết bài cho mượn tập Tôi cùng gió mùa về 'ngâm cứu', đã 'lời quê chắp nhặt giông dài' như sau: Gió trời là sự chuyển động của không khí. Gió nhân gian là sự chuyển động của con người. Đi tù đi đày, đi qua đi lại, bù khú bạn bè, nghe chim nghe bướm... Đi như rứa, ngồi như rứa, nghe như rứa, lâu ngày quen nết, thành gió mùa. Mỗi người làm thơ đều có gió mùa riêng. Theo mùa, họ thả tiếng thơ của mình lên trời kiểu trẻ nhỏ thả diều. Diều đẹp hay xấu, bay cao hay thấp, tùy tài. Nhưng thả được lâu thì tùy lực, tùy thời (tiết). Người đọc thơ ngửa cổ nhìn lên, ưng diều mô, mua diều nớ. Thả diều thú. Xem diều cũng thú. Hai thú vui chung một con diều, một cánh thơ. Đọc một bài, một đoạn bất chợt, đọc buổi sáng cà phê, buổi trưa giăng võng trong vườn, đều có cảm giác vi vu cùng diều thơ, chơi nhởi cùng gió mùa. Có điều… Có điều làm sao? Có điều, thơ Th không nén, không đọng, không đặc quánh như tứ tuyệt Trung Quốc, Haiku Nhật Bản mà giãi ra, bung ra lượt thượt! Có vẻ như thế sự phức tạp, cảnh ngộ riêng- chung khốn khổ, tâm sự dồn nén đớn đau buộc nhà thơ phải nới rộng biên độ thơ như rứa. Hy vọng sau này, khi tóc hoàn toàn tuyết sương, chân hoàn toàn ngoài vòng cương tỏa, tâm đã bình, trí đã vượt, thơ Th sẽ nói được nhiều hơn bằng hình thức ngắn hơn. Lúc nớ, con diều không cần gió mùa, không cần dây nối vẫn uốn lượn trên bầu trời tự tại. Và người đọc thơ, không cần mắt, vẫn 'thông linh' cõi riêng Th. Hai chữ 'hy vọng' của vị 'nam tử hán đại trượng phu' nội địa này tự dưng gợi cho kẻ viết bài cảm giác rợn ngợp, xa ngái. 
3. Chớp mắt hơn mười năm, từ lần đầu ra mắt người đọc (1998) tới nay, tập Tôi cùng gió mùa mới tái xuất giang hồ. Trên internet, tác giả hiện ra với mái tóc dầy mềm tiêu muối bất phân, ánh mắt nghiêm nghị, nụ cười không mấy phiêu bồng khiến kẻ viết bài hiểu (hoặc cho là mình hiểu!) cuộc sống và tuổi già với quá nhiều thanh lọc, chia xa, dằn vặt, muộn phiền đã 'vứt vào cõi người ta' một gã du ca, một người kể chuyện có duyên thay vì một thiền sư vô ngôn. Bộc bạch về 'sứ mạng' làm thơ của mình, tác giả từng nói:
tôi áo rực tà dương. đi trong rừng Parkwoods
như đi qua đời sấm dội. như con chim màu đỏ vẫn hót
tôi làm thơ
cho bạn bè. cho những người cùng khổ
cho sấm dội. cho đổ vỡ. cho mây xa
tôi làm thơ và con chim mầu đỏ
hót. một mình. dưới trời mưa thưa
   Hình ảnh con chim mầu đỏ, với riêng kẻ viết bài, là một hình ảnh đẹp. Tác giả kể con chim này, không biết đích xác loại chim gì, đã đến hót trước cửa sổ nhà ông nhiều ngày, dạo mới sang Mỹ. 'Vịn' vào con chim, ông đã
cố đứng lên đi
để đừng sụp đổ
ngoài kia nắng. và gió
tôi muốn hong khô những câu thơ ẩm mốc
như Đường tăng xưa phơi kinh
hãy là một câu thơ mầu đỏ
chim là một câu thơ mầu đỏ
gió trời
đã thổi
chim hãy bay đi
và mang về cho ta. Từ miền đất khổ. Một cọng rơm mầu vàng
để ta thấy lại quê nhà
mùi đất và cỏ
… chim ơi
Về xứ hoàng hôn
Hồn ta đầy gió
   Đặc biệt đầu bài thơ có 'ghi âm' tiếng nhà thơ gọi vợ, kìa, dung, con chim màu đỏ. Về lượng thông tin, câu trọn vẹn một thông báo. Không thể ngắn hơn! Về cảm xúc, trọn vẹn một sự chia sẻ. Không thể thân hơn! Nghe cách gọi, biết chắc là vợ chồng đồng thanh đồng khí lâu năm. Cho dù theo thời gian, con chim mầu đỏ đã già, người được gọi 'kìa, dung' đã từ hoàng hôn bước vào bình minh vĩnh cửu, thì mãi mãi, tiếng gọi âu yếm kìa, dung, con chim mầu đỏ vẫn vang suốt tập thơ, suốt hành trình đời- mộng. (kẻ viết bài thử dùng giọng Huế, gọi đúng các dấu câu, thấy kìa, dung, con chim mầu đỏ là một câu rất cảm động, rất uyển súc).
   Tính ra, tròm trèm 60 năm, 'lều thơ” ông Th. nhiều lần chuyển dịch nhưng từ trong 'lều' chưa bao giờ tắt tiếng hót trung thành, xác tín của con chim thơ mầu đỏ. Đôi khi trong gió mùa xao xuyến, từ bên kia đại dương, chim cũng đặt giả thuyết Giả sử, mai về (trang 104-107)
gặp tuổi thơ ta cười dòn tan trong nắng
đuổi bắt trái sao khô bay tròn khi gió vang…
với những bức tường nghiêng và những khóm tầm xuân..
và em nữa. tất nhiên vẫn là em thời trẻ
của Sài Gòn hằng mở cửa những đêm vui…
dẫu chẳng còn ai biết đến ta. chẳng còn ai đợi cửa.
thì trọn kiếp ta xin làm người nghệ sĩ rong chơi
đi đọc thơ ta giữa những vùng bụi đỏ
    Cái giả sử ấy, may thay, cho đến giờ vẫn chỉ là giả sử! Và Th, con chim mầu đỏ, sau những cuộc tụ hội phù hoa, lại trở về hót một mình dưới trăng, mặc kẻ viết bài thay ông gọi rối rít, kìa, dung, con chim mầu đỏ… Tưởng tượng đóa phù dung của ông mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, buông lời, cuộc đời, như cuộc rượu, cuộc tình, thẩy đều từ một chữ duyên. Nhân của duyên là nghiệp. Nhân của nghiệp là mê. Dứt mê thì dứt nghiệp. Dứt nghiệp thì dứt duyên. Dứt duyên thì dứt…  Kẻ viết bài sợ quá, vội bỏ bút, bịt miệng nàng, không cho nói nữa. Vì gì thì gì chứ dứt duyên coi như hết đời. Mà hết đời thì hoa quỳ, hoa iris, hoa thạch thảo, hoa trà, hoa cúc, hoa hải đào, hoa sứ, hoa hồng… còn biết nở cho ai.

PHAN THỊ NHƯ NGỌC


Tất cả những chữ in nghiêng, đều trích trong tập “Tôi cùng gió mùa”, bản in lần đầu

No comments:

Post a Comment