Thursday, December 22, 2011




Tô Thẩm Huy dịch thơ Đỗ Phủ 

Thu Hứng

Thu đã về. Tác giả Tôi Cùng Gió Mùa bảo tôi thế, từ phương bắc Texas, nghe trong hơi gió heo may, viết cho tôi mấy giòng: Thu vàng rồi đấy, dịch Thu Hứng của Đỗ Phủ đi chứ.  Hay viết về Lý Hạ đi. 
Xin lãnh ý. 

   Bài thơ ấy - bài đầu trong tám bài Thu Hứng bát thủ của Đỗ Phủ - có một câu đọc lên tê tái cả cõi lòng: Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ - Khóm cúc hai lần nở giọt lệ ngày khác.  Ngày khác là ngày nào ?  Đỗ Phủ không nói ra, ông chỉ bảo là tha nhật - other day(s) – ngày nào khác, có thể đã qua hay chưa đến, nhưng không phải hôm nay, có thể là hôm qua, hay hôm kia, lại cũng có thể là ngày mai, hay ngày mốt, lại cũng có thể là mọi ngày chứ không riêng gì hôm nay.  Sao lại là hai lần nở ? Một lần hôm nay và một lần nào khác ?  Hai lần cúc nở, hay hai lần nhỏ lệ ?  Hai lần nhỏ lệ, hay hai lần hoà hai làm một ?  Có thể nào là giọt lệ từ một ngày cô liêu xưa cũ rón rén trở về lăn dài cùng giọt lệ hôm nay?  Không chừng lại có thể là giọt lệ của ngày mai, của ngàn sau, mượn về để khóc trước, góp cùng giọt lệ hôm nay mà tuôn rơi một lần cho đã hai con mắt ?  Còn hai con mắt khóc người lần hai ?  Nghĩa là ?  Là Chiều nay buồn cả hơn chiều hôm qua.  Là sao ? Là chiều hôm qua buồn hơn chiều hôm kia, và chiều hôm kia buồn hơn chiều hôm trước, và chiều hôm trước buồn hơn ... Là cái buồn cổ độ đổ xô về, làm cái ngày tha nhật ấy biến thành ngày hôm nay.  Một lần thử nhật cúc nở, rồi một lần tha nhật ngậm ngùi, một lần hôm nay, và một lần ngày ấy, cùng chan hòa khóc chung hai lần làm một, thì hẳn là từ nay mầu quan san sẽ thôi không còn làm buồn lòng khóm cúc nữa, mà sẽ chắp cánh theo nhau bay về cánh rừng phong thụ mỗi độ thu về.

   Xin mời Quý‎‎ Vị đến Quỳ Châu, dong thuyền trên giòng sông Dương Tử, giữa sừng sững hai vách núi kẽm Vu Giáp, nơi Sở Tương Vương xưa giao duyên với thần mây mưa trên núi Vu Sơn, để nhìn thu về mà ngậm ngùi cùng Đỗ Phủ. 

  ,   





            Thu Hứng,  Đỗ Phủ   
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm  
Vu sơn Vu giáp khí tiêu sâm             
Giang gian ba lãng kiêm thiên dõng  
Tái thượng phong vân tiếp địa âm     
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ        
Cô chu nhất hệ cố viên tâm   
Hàn y xứ xứ thôi đao xích     
Bạch đế thành cao cấp mộ châm

Thích Nghĩa:
Những hạt sưng long lanh như ngọc làm xơ xác cánh rừng phong,
Khí thu dâng mù mịt giữa hai vách núi Vu sơn.
Nơi kẽm Vu Giáp sóng nước tuôn dội, cuồn cuộn tung lên nền trời,
Trên chốn quan ải mây gió biến hóa, gầm ghì đè xuống mặt đất.
Khóm cúc hai lần nở, nhỏ những giọt lệ của ngày ấy,
Một chiếc thuyền con cột chặt chút lòng thương nhớ mảnh vườn xưa.
Nhà nhà đang dao kéo may áo, lo đỡ cái giá lạnh sắp đến,
Ngày dần tối, tiếng chày giặt đuổi nhau bên thành Bạch Đế. 

Lời quê xin góp mấy vần:

Thu Hứng
Sương buốt rừng thu, xót cánh phong,
Khí thu u uất, ngút song song.
Trường giang sóng dựng lưng trời thõng,
Biên ải mây ùn nách đất long.
Chắt lệ ngày nao vàng vọt cúc,
Neo buồm dậu cũ sắt se giòng.
Ai may giá rét len trong áo,
Gióng giả chày gieo thốn đáy lòng.
    Lại xin mời đọc một bản dịch khác, nghe đâu là của Nguyễn Công Trứ.  Chao ôi, Nguyễn Hiệp Sĩ làm thơ giữa vòm trời đất dọc ngang là vậy, sao lại còn dịch thơ Đỗ Phủ hiu hắt thế kia?  Sao tài tình không kém Phan Huy Vịnh dịch Tỳ Bà Hành thế ấy?
Lác-đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu-hắt khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm giòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình già.
Lạnh-lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch chày vang bóng ác tà.
 
Và đọc thêm bản dịch của Ngô Tất Tố:
Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may
Giòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây.
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.

Còn Thi Quỷ Lý Hạ thì xin hẹn với con chim hồng-tước nơi cánh rừng thu của Nguyễn quân một dịp khác. 

TÔ THẨM HUY
Houston, Trung Tuần tháng Mười, tiết Lập Đông, Tân Mão

No comments:

Post a Comment