Friday, May 3, 2024

MUÔN TRÙNG

Huỳnh Liễu Ngạn
 
Bến sông xưa
 
cũng hoài hủy mọc nửa vầng trăng xế
nên ngàn thu bóng mẹ lại muôn trùng
anh nghe lạnh cả phương trời viễn xứ
bởi dặm trường hoài gót mỏi mông lung
 
vẫn tà dương chết bên bờ liễu rủ
thôi mộng đầu ngây dại đến muôn sau
lòng héo úa như đêm rằm trở ngọn
người ven trời còn cách trở sông sâu
 
đưa em qua một cuộc đời dâu bể
rồi long đong như chuyện cũ của lòng
rồi mười năm con nước ròng chảy xiết
rồi hồn anh hoang phế thuở chờ mong
 
từ ước hẹn có ai về ray rứt
vàng hoa đâu thời buổi của vô cùng
đếm ngon cỏ nghe mười phương hướng vọng
cách một trời xa biệt đến lao lung
 
chừ tang thương đã lụy phiền trăm ngã
nắng quê người dọi xuống nỗi hờn căm
anh về gục bên bờ trăng cũ kỹ
gợn mây mù lang bạt chốn xa xăm.
 
1985
HLN

  

Thursday, May 2, 2024

CHIM LỆCH ĐƯỜNG BAY TỪ THUỞ ẤY*

Đặng Mai Lan
 
Nhà văn Đặng Mai Lan. Ảnh: Lucie Ngô.
 
Paris trong tôi là hình ảnh những đoạn cầu lừng lững trên sông, ngăn chia khu phố, kết nối những con đường; là những pho tượng được dựng ở mọi nơi với nhiều nhân dáng, những hình tượng rạng danh lịch-sử và nền văn-hóa của đất nước này; là ngọn tháp chọc trời cao ngất gọi mời những bước chân du khách háo hức được bước lên tầng lầu cao nhất của kỳ quan thế giới. Và có thể ai đó cũng như tôi, sẽ nhận ra cái quyến rũ đích thực không từ những song sắt lạnh lẽo kiên cố, đã được rào chắn kỹ càng để tránh mọi bất cập rủi ro. Sự quyến rũ chính là những không gian bao la hiển hiện toàn cảnh một Paris lộng lẫy. Tôi đã có dịp được làm việc bên trong ngọn tháp này và nhận ra điều đó.
 
Ngọn tháp, những nhịp cầu trên sông, những đoạn cầu ngắn dành cho xe điện băng qua phố, những pho tượng, hay những trụ đèn cổ xưa tôi hằng thấy… Tất cả là một màu xám lạnh, nhưng chúng biết vui-buồn theo không gian, thời tiết của bốn mùa.
 
Tôi đã đứng trong sương sớm nhìn Paris khoác áo sương mù. Nhìn giòng sông, nơi ven bờ có những con tàu nằm yên ngủ. Tôi đã đặt tay lên những vai cầu lạnh buốt, ngắm những làn khói mong manh lãng đãng qua bao đôi mắt đèn đêm thao thức, chờ rạng đông tiễn biệt.
 
Paris, “mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ”
 
Paris, “Mai anh về giữa bến sông Seine, anh về giữa một giòng sông trắng. Là áo sương mù hay áo em“(1) 
 
Paris, “Tuyết rơi mỏng manh buồn, ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc…” (2)
 
Paris đã đi vào thi-ca từ những năm đầu của thập niên 50. Những bài thơ được phổ nhạc đã lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia và mãi mãi. Nhưng tôi yêu Paris những ngày mưa, những chiều tan sở, ngồi trong lòng xe nhìn ra bên ngoài mây trời xám ngắt, mưa lướt thướt trên sông, trên những cây cầu. Cái vẻ đìu hiu ấy luôn cho tôi những cảm giác buồn bã, trống vắng. Tất cả mang một vẻ ảo não…như một ngày cuối năm, năm cùng tháng tận của một đời sống buồn tênh.
 
Sương mù Tour Eiffel. Photo ĐML
 
Hãy kể đến những hào nhoáng của khu thị tứ Paris, hiển hiện nơi các cửa hiệu thời trang tấp nập những du khách nước ngoài. Trong một buổi mua sắm, một du khách Trung Hoa đã có thể bỏ tiền mua những sản phẩm mà trị giá của nó bằng giá của một căn chung cư nho nhỏ. Hay còn những ai khác tôi chưa được biết. Có lẽ vì thế, nên cửa tiệm nào cũng có nhân viên bán hàng người Á-châu, thường là người Trung Hoa hay Nhật Bản. Sẽ là một ưu điểm, nếu những nhân viên này biết nói tiếng mẹ đẻ của mình.
 
Kinh tế của đất nước này có thể bị suy thoái từ một nền kỹ nghệ nào đó, nhưng thời trang thì nhất định không thể lung lay. Dù chỉ là một người thợ, tôi có chút may mắn được hòa nhập với cả trăm nhân viên trong một vài ngày làm fitting, shooting để chuẩn bị cho một đêm trình diễn thời trang, quảng cáo trên những tạp chí.
 
Được nhìn ngắm những người mẫu đi qua-đi lại dưới bao đôi mắt quan sát của những nhà thiết kế, những nhiếp ảnh gia; được cầm trong tay vài ba thứ quần áo mà tôi biết ai sẽ khoác chúng lên người cũng là một điều thú vị. Không chỉ là một diễn viên lừng danh của nền điện ảnh Pháp, hay một cô ca sĩ đến từ Hoa Kỳ trình diễn, mà phải kể đến vị “Đệ Nhất Phu Nhân”. Đệ nhất mà! Để không trùng với những trang phục mà một khách hàng giàu có nào đó có thể sẽ mua, người cố vấn thời trang của bà mệnh phụ đã yêu cầu đám thợ chúng tôi phải làm khác đi kiểu mẫu.
 
Bảo sao đã đến tuổi được nghỉ ngơi nhưng tôi vẫn cứ đi làm, đam mê với công việc!
 
Tại sao tôi lại không viết ra những gì trong cuộc sống khá linh động của mình. Viết về một kinh thành bốn mùa đầy những sắc thái thơ mộng trên những nẻo đường. Hay viết về những ngày phố đầy lửa khói bạo loạn bởi những người biểu tình chống đối, đòi cải cách xã hội, mà những cửa tiệm dành cho giới thượng lưu thường là mục tiêu cho những kẻ quá khích trút cơn phẫn nộ. Đám nhân viên chúng tôi đã trở về nhà bằng những cửa ngõ đặc biệt, ăm ắp nỗi lo. Những nam đồng nghiệp của tôi thường là người đồng-tính. Viết về cá tính, năng khiếu của họ cũng là một đề tài lý thú.
 
Và đâu phải chỉ riêng một Paris hoa lệ. Ở xứ sở này còn biết bao nét đặc trưng của những tỉnh lỵ, những thành phố tôi đã đi qua suốt mấy thập niên dài.
 
Tại sao không viết? Một bạn văn đã hỏi tôi như thế! Viết là sống, được sống trọn vẹn đời của người khác là một thử thách đầy thú vị, nhưng sống lại đời mình bằng tâm tưởng thì không gì hạnh phúc hơn. Tôi đã không thể sống khác với những suy tư, nghĩ tưởng tự tâm hồn.

Hình minh họa: David Kanigan
 
Đã hơn bốn mươi năm,
 
Chim lệch đường bay từ thuở ấy.
 
Con chim ấy là tôi, đã lệch đường bay nhưng vẫn ngoắc ngoải ngóng về phương trời cũ.
 
Đôi khi tôi cảm thấy mình lạc loài, cô đơn ở đời sống này. Tôi tìm những thứ đã chìm sâu dưới đáy biển thời gian. Dẫu có tìm thấy lại cũng chẳng là gì, chỉ là những ngoi ngóp chập chờn, biến hình biến dạng.
 
Sau gần nửa thế kỷ gặp lại nhau, Khiết nói sao tôi cứ hay nhớ về những nỗi buồn, những mất mát đã xảy ra trong đời mình mà theo anh thì nên buông, bỏ. Tôi muốn nói với anh, những gì anh đang nghiền ngẫm về cuộc sống hiện tại, con đường anh đang đi chưa thuyết phục, níu kéo được bước chân tôi. Nhưng cách sống của tôi ít nhiều, dường như cũng nằm trong những phương thức cốt lõi gọi là “chuyển hóa tâm thức” để đời sống tâm hồn được thoải mái nhẹ nhàng hơn mà anh hay nói.
 
Là một người nhạy cảm, dễ buồn, vui, giận dỗi nhưng tôi luôn chấp nhận mọi thứ mà cuộc đời trao gửi. Chấp nhận một thứ luật “bù trừ”. Tôi tin cuộc đời không có gì tuyệt đối. Được và mất thường đi với nhau. Hai sự kiện đến với tôi liền lạc và gần như trở thành một kinh nghiệm sống. Tôi hiểu những trạng thái tâm lý của mình. Nhưng tôi không tìm cách buông bỏ như Khiết khuyên. Tôi biết lấy niềm vui này đặt lên nỗi buồn kia. Tôi thủy chung tuyệt đối với quá khứ. Chỉ có trí nhớ thường phản bội, đã bôi xóa, làm mờ đi tất cả. Và tôi nghĩ, con người chỉ thực sự an nhiên khi không còn trí nhớ.
 
Tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng tôi không tin vào tri thức của mình khi bàn về lãnh vực này. Tôi sẽ đuối lý, nên tôi chỉ cười.
 
Nỗi buồn, sự đau đớn khi đứng trước cái chết của người thân, quen, là một nỗi buồn không thể sánh ví. Tôi đã đi qua những đau đớn chia lìa. Nhưng sau sự mất mát lại là những đền bù kỳ diệu. Có thể gọi đó là những hạnh-duyên như một sắp đặt trật tự của đất trời. Sau bóng tối sẽ là bình minh. Người này ra đi để lại chỗ ngồi cho người nọ. Ngẫu nhiên như nắng chan hòa sau những ngày mưa. Trong đời sống tôi, sự kiện này đã hai lần xảy ra. Và bây giờ với Khiết là lần thứ ba. Chỉ khác một điều Khiết không mới, Khiết cũ xưa như những con số đánh dấu thời gian mà chúng tôi nhẩm tính qua một tấm hình. Những  tiệm hình ngày xưa luôn in sau lưng ảnh năm tháng tấm hình được chụp. Nhưng nếu không có những ghi chú, tôi vẫn nhớ được khoảng thời gian ấy. Trí nhớ đôi khi là một ngọn đèn sáng rực, có thể rọi xuyên suốt những ngóc ngách quá khứ.
 
Khiết còn giữ được rất nhiều hình ảnh thời học trò. Đúng hơn, sau khi anh vượt biên, những kỷ niệm của riêng anh đã được gia đình anh cất giữ. Những tấm hình với nhiều khuôn mặt, dĩ nhiên tôi không thể nào biết hết, hoặc tôi đã quên. Và tôi chỉ xin anh chụp lại cho tôi tấm ảnh có sáu người ngồi trên thềm nhà của một khách sạn ở Vũng Tàu. Chúng tôi thường có những cuộc đi chơi ra khỏi thành phố. Hơn năm mươi năm, giấy đã ố vàng nhưng màu ảnh vẫn còn đậm rõ những gương mặt rạng rỡ thanh xuân. Tôi thích giữ bức hình này vì sáu người trong ảnh có tôi, bây giờ chỉ còn bốn.
 
Sau ba năm Sài Gòn đổi chủ, Tánh biến mất không một dấu vết nào để lại. Tánh mang tất cả vào lòng đại dương. Bây giờ là Ngọc Lan, người tôi vừa gặp lại ở Nam Cali chưa lâu lắm. Cái chết của bạn làm sống lại quá khứ. Từng khuôn mặt hiện ra, những khuôn mặt tuổi trẻ sáng ngời ngày ấy bây giờ ở đâu? Hẳn khi biết tin Ngọc Lan mất họ sẽ buồn như tôi. Tôi nhất định phải tìm họ.
 
Người tôi nghĩ đến đầu tiên là Út. Tên Út, nhưng trong nhóm chúng tôi, có thể nói anh là người đầu đàn, là người bày ra những chuyến đi xa, gặp gỡ. Nơi xa nhất là Tây Ninh, gần nhất là ngôi nhà xinh xinh của gia đình anh, mà anh được sở hữu một khoảng không gian rất riêng, cho phép bạn bè đến tụ tập, đàn hát những ngày nghỉ học. Ca hát, nhưng đôi khi những câu ca bỗng trở thành những lời tán tỉnh như thật, như đùa. Đắm đuối nhìn nhau nghêu ngao “Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng”(3) chưa đủ. Táo bạo hơn, có chàng dám cầm ly nước chanh của một nàng đưa lên cao, không phải để ngân nga uống ly chanh đường, uống môi em ngọt… (4), mà chỉ nheo mắt cười với nắng và mơ mộng hỏi mây rằng: môi đâu, môi đâu? Hình như đó là một tiểu tiết trong cuốn “Vòng Tay Học Trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, mà có lẽ những cô cậu học trò sinh viên ngày đó đều tò mò tìm đọc.
 
Út có tính khôi hài, dễ thân thiện. Tôi và NL thân với anh hơn những bạn khác. Nhà của hai Lan cùng một đường, chỉ cách nhau một con ngõ nhỏ. Thỉnh thoảng anh đến nhà tôi với dăm ba câu chuyện, rồi tạt sang nhà NL. Út có người anh trai giữ một chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền thời đó. Tôi nghĩ, gia đình anh có lẽ đã rời khỏi đất nước trong những ngày biến loạn. Nhưng không tìm anh, thì tôi biết tìm ai bây giờ. Đó là một cánh cửa gần nhất may ra tôi có thể mở được.
 
Và chúng tôi đã tìm thấy nhau, nghe lại giọng nói, nhìn nhau cười đùa qua màn hình điện thoại.
 
Người đi, người đến.
 
Tuần trước tôi ngồi với một người đàn ông trên một bãi cỏ, trong một không gian bao la vắng lặng. Mỗi người một góc, cả hai chúng tôi cùng xếp bằng dưới một khoảng đất trống mà diện tích đã được đánh dấu, phân chia. Một khoảng đất nhỏ hẹp nhưng sâu thẳm bên dưới là cả một kiếp người. NL đã đến đây, nằm đó, trong ngôi nhà thiên thu của đời cô chỉ vừa được đặt nền, chờ ngày xây cất.
 
Nơi chúng tôi ngồi không một bóng cây. Chỉ có bóng mát khiêm nhường của cây dù mà người đàn ông mang theo được nghiêng bên này, ngả bên kia. Anh đang cố che chắn cho tôi tránh khỏi những ánh nắng chẳng mấy dịu dàng giữa trưa khô khốc. Sự tử tế ân cần của anh làm tôi nhớ vợ anh tha thiết.
 
Tôi vuốt ve, thầm thì với những nhánh cỏ lởm chởm trên đất khô về những buổi trưa tôi ra đầu ngõ chờ bạn đến, hoặc NL đã đứng đó đợi tôi. Nắng ngày ấy cũng chẳng khác nắng bây giờ. NL thùy mị, điệu đàng hơn tôi. Nên dù đi học hoặc đi chơi bằng chiếc xe Honda Dame của nàng hay xe Yamaha của tôi, tôi vẫn là người cầm tay lái. Thuở chưa biết yêu người, tôi yêu thứ cảm giác lâng lâng cùng xe trôi vun vút trên đường. Mặc cho tóc rối, da khô, đôi bàn tay rám nắng. Nhưng NL thì không, con nhỏ khôn ghê, cứ nép sát vào lưng tôi trốn nắng. Tôi nhỏ con hơn NL, nhưng lại là người che chở nắng mưa cho bạn mình. Dẫu buồn cách mấy, người đàn ông vừa mất vợ phải cười khi nghe tôi kể công, khoe với anh những ngày tôi đã rất anh hùng, đã “hy sinh nhan sắc” cho vợ anh như thế nào.
 
Một ngày, qua bao chuyện vui-buồn của tôi và anh với người đã khuất, đủ để chúng tôi trở nên thân thiết. Trước khi trầm mình trong cơn bệnh, NL đã mơ một lần được đến Paris, nhưng chuyến tàu cuối cùng của đời cô đã cập bến quá nhanh. Tôi nói với anh, anh cũng có thể đến Paris cùng linh hồn cô ấy. Tôi sẽ đưa anh vào Giáo đường Notre-Dame, hay vào Vương cung thánh đường Sacré-Cœur trên đỉnh đồi Montmartre cầu nguyện. Đó là điều tôi mong mỏi.
 
Và bây giờ tôi đang đứng với Khiết trên một con dốc của Alum Rock Park, một công viên rộng như rừng ở miền Bắc Cali. Tôi nhìn xuống hai bên triền dốc. Cỏ chớm thu chưa vàng, những vòng xanh thoai thoải, nhấp nhô, lại làm nhớ những mùa hè ở một nơi khác. Cũng đồi dốc, suối khe, chỉ thiếu những bờ cát mỏng.
 
Ngày đó, với hai Lan nhí nhảnh hồn nhiên còn thêm một Mai Anh nghiêm trang chững chạc vì cô đã xếp áo học trò, theo đời cơm áo sớm hơn những người bạn cùng trang lứa. Giữa ba cô gái là một Út thông minh hoạt bát, luôn tạo ra những tiếng cười giòn giã; là một Tánh điển trai đa tình, ăn mặc chải chuốt, lúc nào cũng buông ra những câu nói tình tứ mặc cho người nghe (là tôi) nghĩ sao cũng được; là một Quyền hồn nhiên sôi nổi. Với những thứ mà Quyền có thời đó, nói theo ngôn ngữ thời này thì người ta sẽ gọi anh là một “thiếu gia”.
 
Mai Anh giờ lưu lạc chốn nào? Khiết còn giữ được gì trong ký ức của anh về tôi thuở đó? Tôi chỉ nhớ một anh chàng hiền lành lặng lẽ, thường tìm một góc nào đó ngồi nghe lũ bạn cười nói ồn ào. Khiết ngày xưa gầy ốm thư sinh, giờ cao to tráng kiện. Nếu tôi nói ra điều này, có thể anh sẽ dạy cho tôi một bài học làm thế nào để giữ cho “thân-tâm an lạc”.
 
Chúng tôi đã già! So với những ngày đầy đặn nét thanh xuân, tôi bây giờ co cụm lại như thời gian phải cạn dần đi nơi mỗi kiếp người.
 
Đường trước mặt không còn nơi đến, tôi quay về thương nhớ một thời xưa.
 
Tôi đã đứng trên cao – ngồi dưới thấp với hai người bạn thời niên thiếu. Nơi vùng đất lạ, bỗng quay quắt nhớ quê nhà. Dường như chưa bao giờ tôi nhớ Sài Gòn đến thế. Nhớ những Chủ nhật tươi hồng với bao hẹn hò háo hức. Tôi dắt xe ra khỏi nhà, lòng ngẫu nhiên vui khi nghe những câu ca được phát ra từ máy thu thanh của nhà hàng xóm. Tôi chạy xe thong dong dưới những con đường xanh lá. Khi dịu dàng trong đôi tà áo lụa, khi quần xòe rộng với áo ôm sát vai mềm, bờ lưng thon con gái. Thứ trang phục với những sắc màu, mang chút phong cách thời trang hiện đại. Tôi vẫn chưa quên thứ cảm giác mát rượi mơn man làn áo mỏng, những lọn tóc dài xác xao bay theo từng cơn gió chướng của Sài Gòn những ngày bão rớt.
 
Áo cũ, đường xưa chỉ còn trong tâm tưởng. Nhưng những đời cây trên hàng phố ấy là đời của trăm năm. Sao tôi không về, đứng dưới một rặng cây nào đó. Ngước ngóng, tìm nghe. Nghe lại tiếng chim hót cùng những tán lá trên cao, rì rào bao nỗi buồn vui của một thời hoa mộng.
 
Có con chim nào lạc hướng lại không mong được bay về phương trời cũ!
 
ĐẶNG MAI LAN
( Paris tháng 4, năm 2024)
 
* Tựa được trích từ bài thơ “Ngôn ngữ Chiều” (Ngô Nguyên Dũng)
1- Paris có gì lạ không em (Nguyên Sa – Ngô Thụy Miên)
2- Tiễn em (Cung Tầm Tưởng)
3- Biết đến thuở nào (Tùng Giang)
4- Trả lại em yêu (Phạm Duy)
 

Friday, April 26, 2024

ĐỌC EMILY DICKINSON

nguyễnxuânthiệp
 
Sweet tea with Emily Dickinson
 
chiều
ngồi đọc. emily dickinson
gặp chú ong
ngày nào
và đứa bé
đi tìm mặt trăng. trong đám lá khô
đứa bé cười vui. với nắng
chú cùng với con ong
chui vào bụi rậm. rồi ngủ. say. trong mùi
                                                      mật hoa
cho tới khi mặt trời. như trái chín. rụng
tôi phải đánh thức. gọi chú về
hê. con ong. như chiếc thuyền nhỏ. bay đi
ôi. con ong. con ong của chú bé
và những ngày vui
 
còn con ong nhỏ của tôi
em ơi
đã chết. trên cánh đồng của tóc khô. và
                                    những cây gai nhọn
NXT

 

  

Thursday, April 25, 2024

NGUYỄN XUÂN THIỆP. NẮNG ĐÃ PHAI VÀNG TRÊN MÁI RẠ

Phạm Hiền Mây
 
Nhà thơ Phạm Hiền Mây
 
Tranh minh họa
 
1.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp sinh tại Huế, học tại Huế và Sài Gòn. Ông từng dạy học tại Mỹ Tho. Sau khi nhập ngũ năm một ngàn chín trăm sáu mươi ba, ông làm cho đài phát thanh quân đội, lần lượt từ Pleiku, Đà Lạt rồi Sài Gòn.
Ông đã có thơ đăng báo từ trước năm một ngàn chín trăm năm mươi tư. Sang Mỹ, ông xuất bản hai tập thơ: Tôi Cùng Gió Mùa và Thơ Nguyễn Xuân Thiệp.
Ông cũng viết Tản Mạn và ra sách về thể loại này, từng là chủ biên của tạp chí Phố Văn và cộng tác với nhiều tờ báo cũng như tạp chí khác ở hải ngoại.
**
Tôi biết đến Nguyễn Xuân Thiệp là nhờ nhà văn T.N. Anh là người đã giúp tôi khá nhiều trong việc “nhận diện” những nhà thơ, nhà văn, mà do hoàn cảnh địa lý, do sinh sau đẻ muộn, nên không thể biết hết.
Biết cũng như quyết định viết về Nguyễn Xuân Thiệp và một vài bài thơ của ông, còn là nhờ, tôi tình cờ đọc được bài phỏng vấn ông, do nhà thơ Triều Hoa Đại thực hiện, tôi đã cảm thấy xúc động trước những bộc bạch đơn giản, và hữu lý của ông.
Khi Triều Hoa Đại hỏi: Những gì anh viết đã vượt lên trên những đau thương và thù hận, điều đó có đúng không.
Nguyễn Xuân Thiệp trả lời: Thù hận? Hồi mới ra khỏi trại, khốn khổ và ô nhục đến cùng cực, tôi định viết một lúc bốn bài oán gọi là Tứ Đại Oán. Nhưng mới được hai bài, Trà Oán và Oán Thi Đêm Phương Nam, thì ngưng. Ngưng không phải vì cạn ý, hết hứng, mà vì tôi nghĩ, viết như vậy để làm gì?
Oán oán chập chùng. Chỉ làm tăng thêm gánh nặng cho đời ta mà thôi, chẳng khác nào gánh đá đi trong bùn vậy.
Nguyễn Xuân Thiệp kết luận: Tôi không phải là nhà tranh đấu, mà chỉ là nhà thơ!
******
2.
Thơ ông, trước hết là những lời tự sự của những năm tháng đời vui, trường lớp, tình yêu và những mộng mơ thời mới lớn: Tôi lớn lên và đi vào đời những năm sáu mươi. khi chiến tranh việt nam rực cháy những cánh rừng xa. nghe âm nhạc của các anh. please, please me. i want to hold your hand. ôi những hoàng hôn sẫm tối. bình minh trong mưa. cơn sốt của tâm hồn. thành phố cười. phượng đỏ. mái ngói buổi yêu đầu. ơi em ( Âm Nhạc The Beatles Và Những Cánh Dã Quỳ)
Thơ ông, sau nữa, là lời tự sự của những tháng năm tiếp theo, khi mà cuộc chiến tương tàn kết thúc, với những bên thắng bên thua, thắng làm vua mà thua thì làm giặc, buồn đau, thấm thía nỗi đời, thấm thía cả tình đời, tưởng chỉ dừng ở éo le, ngang trái, dè đâu, nó khốc liệt và thê thảm hơn sự tưởng tượng của người ta nhiều lắm:
cháy. trong vườn lãng quên
chiều nghiêng. đốm lửa
người tù xa lâu năm. trở về
bên mái nhà. và bờ ao
mùa thu. tàn ố
khòm lưng. nấu bát cháo ngoài hiên
nấm mộ đá ong
dế khóc
(Saigon mùa thu, 1982)
******
3.
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp hay và lạ. Tôi thích những cái hay và lạ đó ở các tác giả. Nó gần như là một sự sáng tạo. Tất nhiên, trừ những trường hợp bắt chước người khác. Điều ấy, tinh ý một chút là phát hiện ngay.
Cái lạ thứ nhứt, đó là ông không viết hoa bất kỳ một từ nào ở trong bài, kể cả tên riêng, kể cả sau những dấu chấm. Trường hợp này, ở Sài Gòn, tôi biết có ở một người, đó là nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Tôi nói tôi thích là bởi vì, tôi cũng y như vậy. Tôi rất sợ phải đọc những bài thơ mà chữ viết hoa lổm ngổm trong bài. Lắm trường hợp, chữ viết hoa còn nhiều hơn chữ viết thường, nhìn hoa cả mắt, và cứ có cái gì đó, rất khựng lại, rất khó trôi, và cả rất mệt nữa, khi phải đọc chúng.
Tôi nhớ một câu chuyện. Hôm ấy, tôi viết một bài thơ, có một người lạ, cứ nằng nặc còm vào bài tôi, thắc mắc, sao xuống hàng, đầu câu không viết hoa, sao chữ đó là địa danh, không viết hoa, sao chữ đó là thế này, thế kia, không viết hoa, bla, bla, đủ kiểu.
Trả lời các hạch hỏi, như tra vấn, như khảo thí, như bắt lỗi đó, thì không phải là nghĩa vụ của tác giả. Mà không trả lời, thì nhìn cái câu hỏi trên trang, thiệt là khó chịu. Mà block người ta, thì càng cảm thấy khó chịu hơn. Nên từ đó, tôi chỉ để chế độ bạn bè còm. Vì, đã là bạn bè, thì tất nhiên, và trước hết, phải hiểu được nhau.
Ngay cả khi, không hiểu nhau, thì đối với những người viết văn, làm thơ, soạn nhạc, vân vân và mây mây, nghĩa là, với tất cả những người làm nghệ thuật, họ thường, nhiều ít gì, cũng có những thói quen riêng, những quy tắc riêng, và, chỉ riêng họ thôi. Họ cũng chẳng ép buộc ai phải gượng gạo đọc, thế nên, bạn đọc cũng nên để cho các tác giả, họ có những tự do tuyệt đối trong sáng tác của mình.
Trở lại Nguyễn Xuân Thiệp, bài thơ sau đây, ông viết cho người bạn đã mất, là Phạm Ngọc Lư, một nhà thơ tài hoa, đặc biệt với bài Biên Cương Hành mà tôi từng đã viết bài cảm nhận. Lư cũng là một trong người bạn vong niên rất thân thiết của tôi:
chiều nay
ngồi đọc lại thơ lư
nghe sông hàn. bạt gió
hải vân quan. đá dựng
biên cương
cố lý
gió lào vẫn thổi
sao cay mắt
thơ ai
như chông xuyên thấu trời
người về lều cỏ
nghe tiếng sáo u u
vầng trăng treo trên ngọn sầu đông
cơm. với rau rừng. nước mắt
cô lái đò trên bến xưa. còn đợi
lư đã về lại phá tam giang
gởi lại vợ con, bạn bè, tấm áo, và những bài thơ
lư ơi
nằm trong cỏ rối
có nghe. thu vàng hát.
Đoạn thơ trên được trích từ trong bài Lư Đã Về Lại Phá Tam Giang. Tôi thích cái từ “về lại” của ông Thiệp đã dùng. Về lại, có nghĩa là, Phá Tam Giang, vùng sông nước ấy, chính là nơi mà Lư đã khởi đầu cuộc viễn du trong đời vừa qua của mình. Ở đoạn này, tác giả nhắc lại những từ ngữ đặc sắc, tiêu biểu nhứt mà Lư đã sử dụng để làm nên hai bài thơ tiếng tăm vang lừng của mình, đó là, Biên Cương Hành và Trở Về Phá Tam Giang.
Viết ít mà tình nhiều, đó là một nét riêng của Nguyễn Xuân Thiệp. Viết dài, kiểu như viết trường thi, có cái khó của viết dài. Nhưng viết ngắn cũng vậy. Ít chữ, mà chữ nào cũng cần thiết, chữ nào cũng tinh túy, chắt lọc, ấy mới là hay, và khó nữa, chớ không dễ dàng đâu.
******
4.
Thơ thì thường buồn, đương nhiên rồi. Nhưng buồn cũng có nhiều cấp độ lắm, như bão ấy mà. Buồn ít. Buồn nhiều. Buồn lắm. Buồn dữ dội. Buồn chỉ muốn chết. Đại loại vậy.
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp buồn, nhưng là cái buồn dễ chịu. Buồn mà dễ chịu là sao? Tức là buồn mà không đến độ cồn cào, không cấu xé, cũng không đau đớn tột cùng, khóc than hay gào thét.
Như bài này, chẳng hạn, Mùa Thu Và Bếp Lửa:
chiều mùa thu
và một bếp lửa
để về
tôi đọc thấy. trên trang văn, ngày nọ
nhưng chiều nay
thấy lạnh
hai tay. và mái tóc
tôi chợt ngộ ra
không. tôi không có một bếp lửa nào
một mái ấm nào, để trở về
mà chỉ là người hành giả
đi trên đường chiều
cô độc
một quán trọ
một ngôi chùa
bốn phương, nào thấy
thèm được vị thiền sư
tặng chiếc áo. và vầng trăng
thiền sư ơi
chiều rơi
chiều không lửa ấm.
Mùa thu là mùa của heo may, là mùa trở lạnh, là mùa bắt đầu thèm, đôi khi, hơi ấm. Hơi ấm từ chiếc bếp lửa. Hơi ấm từ một vòng tay. Hơi ấm từ một câu nói. Hơi ấm từ một tình yêu. Bất kỳ. Tất cả những điều mà tôi vừa liệt kê ấy, đều được gọi chung là hơi ấm. Bếp lửa là bếp lửa thôi, hay bếp lửa là bao hàm tất cả những điều tôi vừa nói, chính là sự khác biệt giữa ngôn ngữ đời thường và thơ ca.
Thơ ca, viết một, mà bạn đọc thấy ra được hai, được ba, được bốn ý, thì đấy chính là phước lớn của người sáng tác và cũng là phúc lớn cho nền văn hóa, văn học nước nhà.
Mùa thu còn là mùa để về. Về đâu ư. Thì về nhà chớ về đâu. Về nơi ta từng ở. Về nơi có người thương. Về nơi mà từ đó ta đã ra đi. Về nơi mà ta thấy nhớ, nhớ đến đau lòng, đến quặn thắt cả ruột gan, ngày đêm, không dứt.
Tác giả không có bếp lửa, cũng chẳng có nơi để về, thế nên, tác giả thấy mình giống như một hành giả. Hành giả là những người đang học tu, giữ giới và tập khổ hạnh. Tác giả thấy mình đang như vậy đó, một hành giả cô độc, đi trên đường chiều, cái gì cũng một, chơ vơ, một quán trọ, một ngôi chùa. Bốn phương, chẳng thấy gì thêm.
Ông thèm được gặp gỡ một vị thiền sư đầy lòng thương yêu và bác ái, biết đâu, ông sẽ được tặng một chiếc áo, mặc cho đỡ lạnh, và một vầng trăng, sưởi tạm. Bởi vì.
Bởi vì, thiền sư ơi, chiều thì rơi rồi và người thì không lửa ấm.
Tôi khoái cái câu gọi của ổng, “thiền sư ơi”, kiểu như là thân thiết từ lâu, kiểu như, đúng là nơi xưa, lối xưa, ngôi chùa có vị thiền sư ấy mà, để ông về, và nay, đã gặp lại.
******
5.
Nắng Đã Phai Vàng Trên Mái Rạ - câu tựa đề này, tôi lấy ra từ một bài thơ khá dài của Nguyễn Xuân Thiệp mang tên Chiều Bên Sông Giăng.
Bài này đã được Từ Công Phụng phổ thành ca khúc mang tựa đề cùng tên và do chính nhạc sĩ thể hiện với chất giọng ấm, trầm, đầy vẻ hoài niệm xưa.
Ở trên, tôi có nhận xét, thơ Nguyễn Xuân Thiệp hay và lạ, rồi thì thơ Nguyễn Xuân Thiệp buồn mà buồn dễ chịu.
Khi đọc đến bài Chiều Bên Sông Giăng này, thì tôi thấy thêm, thơ Nguyễn Xuân Thiệp, ngoài những ưu điểm nêu trên, thơ ông còn đẹp nữa.
Ví dụ, đoạn này:
buổi chiều. kéo gỗ. bên bờ sông giăng
ta đọc bài cổ thi
câu nhớ. câu quên. lời tan trong gió
lòng ta ơi. mãi không yên
nghìn năm. cơn đau. sóng vỗ.
chiều bên sông giăng. và ta
chiều động giấc mơ ngàn
hồn ta theo trăm cây gỗ lớn
gập ghềnh lối voi đi. trâu kéo. mưa nguồn
giăng giăng bến cát
trắng trời lau thưa
mắt gỗ vàng. và mắt ta. qua thế kỷ
đã thấy vết chàm in sậm mặt người
buổi chiều bên sông giăng
chờ một vầng trăng mọc
chưa kịp nhìn trăng. trở gót ta về
hẹn với khoang thuyền khuya nay
hẹn cùng dòng sông. và bè gỗ
đón cho ta vầng trăng
một thời ngủ mê trong cơn sốt đỏ
giấc mơ ta ơi còn lại chiều nay
Đẹp ở chỗ, con người giờ đây, với biết bao là vần xoay thế cuộc, với biết bao là dâu biển đổi thay, vậy mà vẫn cảm ra được nỗi xót xa, khi thấy mình nhớ nhớ quên quên câu thơ cổ.
Thơ cổ, có phải đâu chỉ là thơ cổ. Nếu ý thơ có thế thôi, thì phải bận lòng chi. Thơ cổ còn có nghĩa là chuyện xưa, người xưa, cảnh vật xưa, thời thế xưa, tình cảm xưa, là tất cả và tất cả, từng có, từng hiện diện, mà nay, đã lùi vào dĩ vãng.
Đẹp còn ở chỗ, con người nhìn ra được, buổi chiều đang tàn dần. Sự tàn dần, sự rã tan ấy, đã động vào giấc mơ ngàn, là giấc mơ đưa hồn về xuôi, nơi những mặt người vẫn đương còn sậm in màu thế kỷ.
Đẹp còn ở chỗ, con người biết mình đương ở đỉnh tàn rồi, như buổi chiều vậy đó, nhưng vẫn níu, vẫn nuối. Kịp không, chờ một vầng trăng mọc, vì lỡ hẹn rồi với khoang thuyền khuya nay, hẹn cả với dòng sông và bè gỗ nữa. Cho ta đón lần cuối này thôi, bởi vì, ta chỉ còn lại, mỗi một buổi chiều nay.
Ngôn ngữ đẹp, tất nhiên rồi, sẽ tạo nên những hình ảnh đẹp. Đẹp như thế nào ư? Đẹp rất đỗi tự nhiên, hoang sơ mà ngập tràn mỹ lệ, như chuyến bè, như vầng trăng, như khoang thuyền, như quán dốc, như hồn xưa, như voi thiêng, như quan san rùng rùng vó ngựa, như cuộc diễu hành qua cõi đá vàng, như dặm trường sa mạc, như trời đại nạn, như mảnh xác xơ, như nguyễn du, như đỗ phủ, như lòng ta trái khô rơi mấy mùa.
Như Nắng Đã Phai Vàng Trên Mái Rạ.
Như Chiều Bên Sông Giăng!
******
6.
Tôi cảm ra, tôi giống nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp ở khá nhiều nét. Không chỉ là chuyện rất hạn chế các dấu câu và không thích viết hoa trong thơ thì tôi còn thấy, tôi giống ông ở chỗ, ít tự giới thiệu về mình.
Trên mạng, dù ông là một người làm thơ từ trước năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, nhưng rất ít các thông tin về ông. Tôi cũng vậy, phỏng vấn nào về nhân thân, tôi cũng cười trừ và xin cho qua, hoặc nếu có, tôi cũng chỉ cung cấp gọi là đôi ba dòng cho có lệ.
Tại sao ư? Dạ, vì thấy đó không phải là điều cần thiết cho cuộc đời và cho người khác. Người ta, còn biết bao việc phải lo, phải quan tâm. Ai hơi đâu đi nhớ nơi sanh chốn đẻ của mình; hơi đâu nhớ thấp cao, mập ốm của mình; hơi đâu nhớ những vui buồn, được mất của mình, mà phải dài dòng kể lể.
**
Tiểu luận gia Đặng Tiến từng viết rất rõ trong bài nhận định và đánh giá nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, có tựa đề Đọc Thơ Nguyễn Xuân Thiệp, như sau: Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp là một tâm linh trong sáng gởi đến trần giới trầm luân những dòng thơ thanh thoát [...]. Tôi bị mê hoặc ngay bởi dòng thác hình ảnh, âm vang hư hư thực thực, cuồn cuộn băng băng vì thơ Thiệp như nước Hoàng Hà [...]. Nay được biết Thiệp là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam, tôi phục quá, bởi những lời lẽ cao khoát, tình nghĩa thâm sâu, tự tại, độ lượng.
Nhà phê bình văn học Đặng Tiến tiếp tục khẳng định: Thơ Nguyễn Xuân Thiệp có nhiều câu, thường song đôi, xuất sắc, kết hợp chất uyên bác (nghĩa là không mới) với sức sáng tạo tân kỳ; lưng vốn cá nhân dồi dào được đầu tư đắc thế vào nguồn sống dân tộc đông phương và tây học, tạo ra vòm ánh sáng vừa kỳ diệu vừa duy lý. Tri thức và trí thức không khuất lấp mầu nhiệm của ngôn ngữ; giác quan và ảo mộng nương nhau, nuôi nhau [...].
Sau cùng, Đặng Tiến kết luận: uyên bác, đủ sức mạnh tinh thần, kiến thức rộng rãi, xúc cảm sâu xa, Nguyễn Xuân Thiệp là một bậc tài hoa nhưng lại không sử dụng thơ để biểu diễn tài hoa. Ngược lại, Nguyễn Xuân Thiệp lại có ý thức dùng tài hoa như một phương tiện để phục vụ lý tưởng nghệ thuật và nhân đạo.
******
Tôi sẽ còn quay trở lại với Nguyễn Xuân Thiệp và thơ của ông, vì thú thật với các bạn, khi tôi mở mục lục thơ Nguyễn Xuân Thiệp trên trang văn học nghệ thuật của nhà thơ Phạm Cao Hoàng, tôi đã không chọn những bài hay nhứt của Nguyễn Xuân Thiệp để viết về, mà tôi lấy thơ, theo kiểu, theo số thứ tự, từ trên xuống.
Và khi nhìn lại dòng mục lục, tôi thấy nó còn dài dằng dặc, nghĩa là tôi biết, sẽ có một ngày, tôi lại một lần nữa, viết về Nguyễn Xuân Thiệp và thơ của ông.
Phần kết thúc này, tôi muốn ví von tiếng thơ của Nguyễn Xuân Thiệp, là tiếng của một loài chim quý, và:
bay suốt nghìn năm hót một lần!
(Ánh Trăng - 1980)
Sài Gòn 15.04.2024
PHẠM HIỀN MÂY

 

  

CHIỀU BÊN SÔNG GIĂNG

nguyễnxuânthiệp
          
 Sông Giăng. Nghệ Tĩnh
 
Bên bờ sông Babylon        
           Ta ngồi ta khóc
                         (Psalm 137)
 
1.
buổi chiều bên sông giăng
ta ngồi ta hát
khúc hát buồn chia đôi
một nửa. theo dòng sông
một nửa. vương bãi bờ
dòng sông thì mãi trôi đi
riêng mình ta dừng lại
 
buổi chiều. chở cát bên bờ sông giăng
ta ngồi ta khóc
trông về phương nam
ngọn gió hoan châu. rào rào cát chạy
nghìn dặm. bóng chim bay. nước sóng sánh bờ
những tấm lưới giăng qua ngày rộng
chiều lên
chiếc thuyền ai đỏ lửa
và vệt khói mờ trong mắt ta
dưới trời xưa. cuộc động quan. có phai
                                                 vàng. nát đá
giọt lệ nào rơi. chiều nay
ta xót ta. thân dã tràng. xe cát
biển đông. sóng dội. xô bờ
nỗi oan khiên một thời không bóng vang
 
buổi chiều. vớt sỏi. dưới lòng sông giăng
ta cười trong tiếng sóng
ai kia. đưa ta lên rừng
ai kia. đưa ta ra đầu ngọn suối
tượng đài ngươi đọ được với thời gian
tiếng cười ta
đánh thức. lớp cuội mòn. chiều nay
bia đá nghìn năm. bồi hồi. xao động
nói gì với mai sau
nói gì với các thị trấn bên bờ nước biếc
một tiếng cười dài. vang vọng. hư không
 
buổi chiều. kéo gỗ. bên bờ sông giăng
ta đọc bài cổ thi
câu nhớ. câu quên. lời tan trong gió
lòng ta ơi. mãi không yên
nghìn năm. cơn đau. sóng vỗ
chiều bên sông giăng. và ta
chiều động giấc mơ ngàn
hồn ta theo trăm cây gỗ lớn
gập ghềnh lối voi đi. trâu kéo. mưa nguồn
giăng giăng bến cát
những ngày qua. nằm dưới cơn mưa cố lũy
trắng trời lau thưa
mắt gỗ vàng. và mắt ta. qua thế kỷ
đã thấy vết chàm. in sậm mặt người
buổi chiều bên sông giăng
chờ một vầng trăng mọc
chưa kịp nhìn trăng. trở gót ta về
hẹn với khoang thuyền khuya nay
hẹn cùng dòng sông. và bè gỗ
đón cho ta vầng trăng
một thời ngủ mê trong cơn sốt đỏ
giấc mơ ta ơi còn lại chiều nay
 
2.
chiều tháng ba. sấm động
ta kẻ cuối cùng rời bãi sông giăng
bước mỏi. trèo lên quán dốc
nhìn nước. nhìn trời. trời nước mang mang
hồn xưa chợt hiện
voi thiêng nghìn cỗ. bằng ngàn
rú gầm
ngả rạp. rừng trâm hương
quan san
quan san
rùng rùng vó ngựa
chớp ánh lửa nguồn
ta gọi ai
ai gọi ta
những cõi người thất lạc
này tiền kiếp của ta ơi
thức dậy
thức dậy. cuộc diễu hành qua cõi đá vàng
ta thấy ta đi. trên dặm trường sa mạc
ta thấy ta đi. tận cuối rừng lau
theo ta. đám dân du mục đói nghèo
đã khuất dưới trời đại nạn
ta thấy ta đi giữa rừng tuyết ủng
áo rũ bạc màu trăm mảnh xác xơ
mặt mũi gầy nhom
đâu cô bé chăn dê cho ta bầu sữa
hồi sinh. giữa giấc. càng đau
lá bối chép kinh đã tàn ánh lửa
riêng một góc đời chưa rạng chiêm bao
 
chiều sông giăng
tháng ba ù ù sấm động
những tấm lưới phơi giờ xếp lại
thuyền về bến xa
ai thổi lên cho ta chiếc còi vỏ ốc
âm thanh khuất cuối bãi ngàn
năm năm đời ta ngọt bùi chẳng biết
đường đi. mỗi bước. một dài
lán cỏ. giường tre. cơn mơ đã mỏi
đợi một tiếng gà mòn giấc canh khuya
năm năm. những chíếc roi. quất ngược
cửa hiện thời búa bổ. ngày rơi
 
chiều bên sông giăng
tháng ba bồi hồi sấm động
màu ráng trời rớt xuống hồn ta
cháy đỏ
những vệt sầu cổ thi
này hiền sĩ xưa ơi. cuộc lãng du ai
       quên nỗi đói nghèo. ngày lại ngày
       dắt lũ chó vàng đi săn chồn cáo. bước
       chân qua chín mươi chín ngọn non
       hồng
chiều đang gọi qua truông
về chưa. về chưa
tháng ba. quanh trời. sấm động
chiều nghi xuân. u uất. màu mây
ai xưa. múa con dao dài. chặt giang đốn
          củi. ngày ngày theo ông vượn vào
          hang sâu. nhặt trái gấm ăn xót dạ.
          hồn xanh đắm giạt mây ngàn
ngày về chết bãi sông tương
tràng an ơi. san sát bờ lau sậy xa
thơ ai. chảy máu bầu trời
 
ôi nguyễn du. đỗ phủ
tôi nay cùng đường
dừng lại bên sông
hái ngọn rau lang. chiều reo. mệt lả
gọi cùng mây nước trôi đi
 
chiều bên sông giăng
tháng ba đi trong tiếng sấm
lòng ta. trái khô rơi. mấy mùa
nắng đã phai vàng trên mái rạ
tháng ba ơi
đâu tiếng gà đầu thôn cỏ đưa hơi ấm nồng
gió lên rồi. gió lên
gió trên những đường dây giăng qua
                                              trời rộng
mùa này khua rộn sắc âm
giục giã
chiều. theo cánh chim quen. bay vòng
                                       qua biển bắc
tìm một cành biếc trong mưa
biển cũng bồn chồn như lòng ta mở
                                   ra khi chiều tối
chiều sông giăng
ai trên đường về nón lá tả tơi
hứng những giọt mưa đầu mùa rơi qua
                                              đồng nội
mang trong nếp áo
dư vang sấm động
thôi hãy về. khêu cao ngọn đèn che gió.
                                              qua khuya
bởi trời tháng ba nơi đây chẳng còn  chút lửa
người đi. dấu cỏ. mịt mờ cầu sương
 
tháng ba ơi
bông nhãn đã tàn
bông muối rụng dày trên mặt đất
lòng ta. chùm bông giẻ. chiều nay
phai rũ
quê nhà có còn áo phơi
hay đã bay lên trời.tắt nắng
thoảng mùi nhựa thông trong ký ức
mùi hương ấu thời
hương những đồng cỏ cháy ban trưa
tuổi nhỏ ta về dưới mái tranh gió thổi
nụ cười trong mơ
thôi đã tắt hết. sắc màu. mùi hương. ánh sáng
đêm nay áo mỏng thân gầy
nằm nghe. chớp bể mưa nguồn. về tự
                                            sông giăng
dưa muối quê người lòng ta càng xót
em dưới trời cố quận
có cùng nghe. sấm dội. chiều đi qua
 
3.
hẹn mùa sau hái bông giẻ vàng
thả trôi theo dòng nước sông giăng
mùi hương ngái tự trong lòng đất
bao năm rồi không tan
của ta. một chút tình hoang dại
của thể kỷ này. một nỗi sầu vang
gửi tặng em. tặng đời u uất
một chiều nào chết bến sông giăng
 
NGUYỄN XUÂN THIỆP
Nghệ Tĩnh, 1980