Ý
Nhi
Thu về trên phố. Tranh Lâm
Đức Mạnh
Chỉ định ghé vào tiệm sách mua mấy chiếc bao
thư và một lọ hồ dán mà ông lại lang thang giữa các quầy sách gần 2 giờ đồng hồ
để rồi cuối cùng, cầm trên tay cuốn tiểu
thuyết Đốn hạ của Thomas Bernhard, khi lướt qua quầy sách văn học, chợt
nhớ đã đọc ở đâu đó bài viết giới thiệu tác giả và tác phẩm này.
Vậy mà chiều rồi, ông nghĩ khi nhìn lên bầu
trời đang sẫm lại với những vạt mây màu xám, như sắp sửa một cơn mưa.
Vội vã rời bỏ những bậc cấp trước thềm tiệm
sách, ông rẽ trái, đi ngược lên phía ngã tư, nơi có lối sang đường rồi khi đến
con phố đối diện, ông lại đi ngược lên một đoạn để đến một ngã tư khác, hòa với
dòng người qua đường, chạm chân lên con phố nhà mình. Nhưng, ông vừa đặt bước
lên vỉa hè thì những giọt mưa đầu tiên táp vào mặt, rơi lộp bộp trên bìa cuốn Đốn
hạ.
Ngay trước mắt ông là một quán cà-phê và một
Gallery, kề vách với nhau. Quán cà phê Cloud Coffee được viết theo kiểu
fantasie rất điệu đà, màu xanh biển trên nền vàng. Gallery có một tấm biển lớn
đặt xéo ngoài tiền sảnh với hai chữ Mảnh vỡ màu đen trên nền trắng.
Dù sao, vào lúc chiều muộn, các bức tranh vẫn
thích hợp hơn một ly cà-phê.
Ông vừa
dứt ý nghĩ đã thấy mình đứng giữa một căn phòng có ánh sáng trắng đục với vài
chục bức tranh treo kín ba mặt tường.
Dù sao thì mình cũng ở trong tình thế hai chọn
một dù sao thì hai từ Mảnh vỡ cũng có sức lôi cuốn hơn mấy chữ Cloud Coffee như
đánh đố kia dù sao thì cũng chỉ là cách để tránh một cơn mưa, ông tự nhủ khi đứng
trước bức tranh đầu tiên: một chiếc giày nhà binh nằm nghiêng trên vệ cỏ ven đường.Bức
thứ 2 là một cây vĩ cầm không có archet đứng tựa vào bức tường màu xám, bức thứ
3 là một chiếc áo trong móc phơi, lơ lửng giữa khoảng không, bức thứ tư là một
chiếc khăn quàng mỏng vắt trên cành cây trụi lá, bức thứ 5 là một con diều lớn
màu đỏ nằm xoãi mình trên nền xi măng của một khoảng sân trống trải, bức tiếp
theo là một cuốn sách mà tựa sách bị chìm đi trong mảng màu tối sẫm…
Cứ như thế, vài chục bức tranh là vài chục vật
phẩm đơn lẻ nằm, đứng, bay trên những không gian, những mặt phẳng đông cứng, lạnh
lẽo.
Thay vì các chú thích mềm mại, tạo cảm hứng
cho người thưởng ngoạn thì chỉ là những chú thích tối giản, trơ trụi: giày, vĩ
cầm, áo, khăn, diều, sách…
Cảm thấy khô rát cổ, dấu hiệu của những lúc
căng thẳng, ông bỏ dở việc xem tranh, lại ngồi bên chiếc bàn kê gần cửa ra vào.
Trên mặt bàn có một cuốn sổ lớn, một cây
bút Bic và mấy tấm thiệp mời.
Ông mở cuốn sổ, lật vài ba trang. Chưa có
dòng chữ nào. Ông cầm đọc thiệp mời, sửng sốt vì giờ này, ngày này chính là lúc
khai mạc Mảnh vỡ.
Một buổi khai mạc không có chủ nhà, không có
khách, không có hoa…
Gần như ngột thở, ông tất bật rời khỏi căn
phòng.
Tiếng kèn Saxophone vọng ra từ Cloud Coffee
dường như muốn kéo ông ra khỏi một cơn mơ nhưng ông không sao nhớ ra tên người
chơi kèn cũng như tên bản nhạc.
Ông cắm cúi bước dưới hàng cây bằng lăng được
trồng dọc theo con phố thi thoảng rơi xuống những giọt mưa còn đọng lại trên
cành lá suýt chút nữa thì bỏ qua con hẻm rẽ vào nhà mình.
*
Sau giấc ngủ chập chờn, ông thức dậy lúc 4
giờ, pha một ấm trà thật đậm rồi ra balcon ngồi nhìn con phố vẻ như còn ẩm ướt
sau cơn mưa, phía xa, tháp chuông nhà thờ bật sáng chuẩn bị cho buổi lễ đầu
ngày.
Nhà thờ này nằm sát cạnh tiệm sách. Bất
giác ông nghĩ, nhà ông, tiệm sách và gallery Mảnh vỡ, là 3 đỉnh của một tam
giác cân, chiều dài mỗi cạnh, tính theo đường chim bay, sẽ vào khoảng chừng dăm
bảy trăm mét, rồi lại nhớ ra, bản quyền của phát kiến “tam giác cân” này là của
P.
Hồi đó, trong một lần đi chơi 3 người, P. bảo,
nhà tớ, nhà V. và nhà cậu là 3 đỉnh của một tam giác cân, chiều dài mỗi cạnh, nếu
tính theo đường chim bay đâu chừng dăm trăm mét.
Khoảng cách đó được tồn tại một thời gian
dài, rồi dần dà co giãn, tùy theo độ đậm nhạt của các mối quan hệ, tùy theo
tình cảm của họ với nhau. Lúc thì giữa ông và P. chỉ còn vài trăm mét, có khi
còn gần hơn thế, khi thì giữa V. và P. đang lúc rút ngắn lại chợt dài thêm ra
hàng ngàn mét…Chính vào lúc khoảng cách giữa ông và V. thu ngắn lại thành một
điểm, P. biến mất. Hơn mươi năm sau là sự ra đi của V. Cái tam giác cân ấy đã bị
xóa nhòa cùng với thân phận của mỗi người trong bọn họ.
Vào
buổi sáng tinh mơ ở một nơi cách xa chốn cũ hàng ngàn cây số, cách xa những người
bạn thuở xưa hàng mấy chục năm trời, ông lại nhớ đến câu chuyện về cái tam giác
cân ấy để rồi bỗng nhiên nhận ra, họ, cả 3 người, không ai thốt lên tiếng kêu
nào khi phải rời bỏ mối tình đầu đời.Những cuộc chia tay mới êm đềm làm sao.
Ông bật cười rồi xuýt xoa vì lạnh.
Trên
tay ông, chén trà đã nguội từ khi nào.
Khi quay vào nhà, định thay trà thì chân ông
vấp phải một vật cứng trên sàn. Đó là cuốn Đốn hạ ông bỏ rơi xuống đất từ đêm
qua, khi loay hoay mở cửa.
Lúc
cúi xuống nhặt cuốn sách, tự nhiên ông thấy tay mình run lên như vừa chạm vào một
vật thể lạ.
Mãi một lúc sau, khi đã bật sáng tất cả các
ngọn đèn, khi đã nhìn rõ cuốn sách trên tay mình, ông mới bình tĩnh tự trấn an,
ít nhất, nó sẽ kìm chân ông, giữ cho ông không vội vã vượt qua quãng đường ba bốn
trăm mét của cái cạnh tam giác oái oăm này, để nhào đến phòng tranh ấy một lần
nữa, hòng tìm ra dấu vết một… mảnh vỡ nào đó.
Ông dự tính sẽ nhốt mình trong phòng để đọc
sách nhưng mới đọc được dăm chục trang ông đã gấp sách đặt sang bên cạnh.
Ông không thể chịu đựng nổi dòng độc thoại
ào ạt xối xả lộn xộn, chồng chéo các sự kiện, các nhân vật, các mốc thời gian,
không thể chịu đựng nổi giọng nói nghiệt ngã, bỉ báng của nhân vật đang ngồi
trên chiếc ghế bành cạnh cửa ra vào tại một sa lông nọ nói về giới trí thức, giới
nghệ sĩ thành Vienna, nước Áo.…
Ông
chợt nhớ đã đọc ở đâu đó một cuộc phỏng vấn Thomas Bernhard, người từng trả lời
thẳng thừng, càng nhiều tuổi tôi càng cay nghiệt.
Ông thấy ớn lạnh, rồi thiếp đi.
…Ông
vẫn ngồi trên chiếc ghế đá đặt đưới gốc phượng già trong vườn hoa nhỏ cạnh nhà.
Nằm lọt thỏm giữa những khối nhà bê tông,
khu vườn tựa như một ốc đảo giữa sa mạc với cỏ cây hoa lá xanh tươi và một bồn
nước được tạo hình như một đóa sen với những chiếc vòi phun xinh xắn, không ngừng
phun lên những cột nước nhỏ, trong veo, lấp lánh ánh nắng trong chiều muộn. Ấy
vậy mà, cái nơi chốn thanh bình ấy chỉ thu hút mấy ông già, mấy người khách
vãng lai, dừng chân giây lát. Cư dân quanh vườn cứ mở mắt ra là phóng xe đi tận
đẩu đâu, chiều tối về lại rúc vào những chiếc tổ bê tông của họ…
Một ai đó im lặng ngồi xuống bên ông khi
ông đang mải mê nhìn lũ chim sẻ kéo về tắm trong vũng nước đọng lại sau cơn
mưa.
Nghĩ là người hàng xóm, ông trách, sao ra
muộn thế, mặt trời sắp lặn rồi. Người đó cười khẽ, tôi ở xa lắm. Ông giật mình
quay sang, gần như ngay lập tức nhận ra Thomas Bernhard với khuôn mặt nhìn
nghiêng trên bìa gấp cuốn Đốn hạ.
Thấy ông im lặng, người kia cất lời, không
sao. Không chỉ mình ông không chịu nổi tôi. Trước ông và có thể sau ông, ở nơi
này và có thể nhiều nơi khác ,thâm chí, ngay ở đất nước tôi, nhiều người đã và
sẽ không chịu nổi tôi.
Lời phi lộ của Thomas Bernhard khiến ông cảm
thấy thoải mái, chờ đợi một cuộc trò chuyện thú vị:
- Vậy, hẳn ông biết rõ nguyên cớ của cái sự
“không chịu nổi” ấy?
- Biết chứ, (giọng ông ta gần như hào hứng),
người ta bảo tôi cay nghiệt, đáo để, thậm chí ác độc.
- Biết, sao ông vẫn chọn lối viết ấy.
- (Ông ta bật cười), vì đó là tôi, là kẻ
không chịu nổi sự giả dối, kẻ muốn lột bỏ những chiếc mặt nạ của thiên hạ.
-Nhưng nó có vẻ tàn nhẫn sao đó.
-Tôi viết bằng bút, không phải bằng
súng.Trên trang giấy, là các con chữ, không phải những viên đạn. Nếu có người cảm
thấy bị đụng chạm thì đó là vấn đề của anh ta hay vấn đề của đất nước ấy, nền
văn hóa ấy. Hồi tôi xuất bản Đốn hạ, mới 4 ngày đã bị một tay nhạc sĩ khởi kiện
và tác phẩm bị cấm phát hành một thời gian ngắn.
-Vì sao ạ.
-(cười). Anh ta nghĩ là tôi ám chỉ anh ta,bỉ
báng anh ta qua nhân vật một nhạc sĩ. Ô hay! Sao thiên hạ cứ phải vơ vào mình vậy
nhỉ.
- Ông có làm thơ không
-Lúc trẻ thôi. Có lẽ tôi không thích hợp với
thơ. Đúng ra, đến một chặng nào đó, thơ không còn thích hợp với tôi.
-Nghe nói nhân vật chính của ông thường ngồi
trên một chiếc ghế cố định ở quán cà-phê, ở các sa lông của giới trí thức để
“luận thiên hạ”. Vì sao lại có sự lựa chọn ấy?
-Đơn giản thôi. Ngồi ở một vị thế như vậy dễ
quan sát cái đám đông nhốn nháo ngoài kia mà không bị họ để ý. Ở đó, chẳng có gì,
chẳng có ai lọt khỏi mắt mình.
-Ông nghĩ sao về tiêu chí đánh giá một nhà
văn kiệt xuất. Tôi đọc thấy các nhà phê bình gọi ông là người khổng lồ của văn
học Đức ngữ?
- Ôi, các nhà phê bình! Họ nói những gì họ
muốn nói thôi.
Phần
mình, tôi nghĩ, nhà văn lớn là kẻ tuyệt đối đáng ghét (trong mắt người cùng thời)
vì sự không thỏa hiệp, thích quậy phá, đào xới mọi sự yên ổn mà xã hội cố gắng
duy trì, là kẻ gieo rắc nỗi bất an, gây thù chuốc oán. Sự hiểm độc, theo cách
thiên hạ gán cho tôi, đó là một trong những nét quyến rũ của tôi.
-Một sự quyến rũ chết người?
-Phải, thuốc đắng dã tật. Đó là một thành
ngữ của quê hương ông. À, mà ông là nhà văn hay nhà phê bình?
-Không. Tôi chỉ là một người thích đọc sách
thôi.
-Xin lỗi, vì sao ông chọn tôi để đọc?
-Thú thực, một phần cũng là “về hùa”với các
nhà phê bình, theo cái cách mà đám trẻ gọi là “đu trend” ấy. Người thì kêu ông
cay nghiệt, muốn phơi trần mọi thứ người lại bảo tác phẩm của ông mang chứa một
nỗi buồn mênh mông, một sự tuyệt vọng, một lời cảnh báo…Nghe thật hấp dẫn, phải
không ạ.
-Cũng chớ nên tin quá vào các nhà phê
bình.Có quá nhiều lý do để họ khen hay chê một ai đó, tâng bốc hay hạ bệ một ai
đó. Có điều, người đọc nói chung nên tìm đến cái tầng sâu nhất của tác phẩm,
cái mảnh vỡ dưới bề mặt tưởng như lành lặn của đời sống.
Ông kêu thầm “mảnh vỡ” rồi bật dậy.
Ông bạn già đang ngồi bên bàn nhìn ông cười
cười: tôi mang bàn cờ ra vườn, định mời ông một ván. Đợi mãi chẳng thấy đâu,
quay về đây, thấy cửa giả toang hoang, ông thì nằm chèo queo như một… con chó ốm,
ông tiếp lời.
Chiều hôm sau, thay vì ra vườn hoa, chơi một
vài ván cờ cùng ông bạn già như đã hứa, ông cuốc bộ trên quãng đường dăm bảy
trăm mét của con phố ken dày cây bằng lăng để đến gallery Mảnh vỡ.
Định bụng sẽ bắt đầu xem lại tất cả nhưng
khi ông bước vào đã có một người phụ nữ đang đứng trước những bức tranh đầu
tiên.
Ông đành phải đi xem ngược trở lại.
Thoạt tiên là một cuộn khói rất mảnh bay
lên từ nền ruộng trơ gốc rạ, tiếp theo là một gốc cây lớn bị cưa, phơi mặt gỗ với
những đường vân xoáy tròn, rồi một chiếc lá vừa nhuốm vàng,vẫn còn lưu ánh xanh
nằm hờ hững trên gờ tường, rồi một túp lều tranh sơ sài trên lưng chừng đồi, một
người với chiếc bóng đổ dài trong một vũng sáng, một dòng chữ viết hoa : Times
Is A River Without Banks màu nâu đỏ trên mảng xanh đậm tràn lấp khung
hình…Và, vẫn chỉ là những chú thích giản đơn đến độ lạnh lẽo cho mỗi bức tranh:
khói, gốc cây, lá, nhà, bóng, dòng chữ.
Kỳ lạ, ông kêu thầm khi cơn khô rát cổ lại
ập đến.
Ông đành quay lui về chiếc bàn kê bên cửa
ra vào.
Trên bàn không còn tấm thiệp mời nào, cuốn
sổ ghi cảm tưởng mở rộng với 2 trang trắng.Cây bút Bíc đặt ngay ngắn bên cạnh.
Từ nơi này, ông nhìn thấy người phụ nữ
đang lướt qua các bức tranh rồi dừng lại nơi bức tranh cuối cùng của dãy tranh
bên tay trái căn phòng.
Bà mặc một chiếc áo khoác đen khá dài, tóc
búi gọn sau gáy, thoáng hiện một mẩu khăn choàng màu nâu hoặc màu mận chín, hai
tay khoanh lại trước ngực.
Ý nghĩ mình đang quan sát người khác từ
phía sau khiến ông đỏ mặt vừa khi ông có cảm giác người phụ nữ thoáng quay nhìn
lại.
Bỗng dưng, ông muốn có thể nhìn thấy bức
tranh mà người phụ nữ đã dừng lại nhìn ngắm hồi lâu.
Một
cảm giác háo hức, thôi thúc đến độ ông đã toan đứng dậy.
Thế nhưng, người phụ nữ vẫn đứng đấy, bất
động như thể đã được “cố định” bằng một cách nào đó.
Mình
đã kịp dừng lại một hành động có thể gây nên tình cảnh lố bịch, ông nghĩ, khi lặng
lẽ ngồi lại bên bàn, lơ đãng nhìn ra con phố đã bắt đầu nhốn nháo vì giờ tan tầm.
Rồi, ông nhìn thấy, đúng hơn là cảm thấy,
một bóng người vừa bước ra khỏi căn phòng biến mất vào dòng người trên phố để lại
sau lưng một khoảng không trong màn sáng mờ đục.
Ông chạy ào tới chỗ bức tranh.
Đó là những hình tam giác cân lồng vào
nhau, chồng chéo, đan dệt thành một khối hình rối rắm rất lạ mắt trên nền đen.
Ông cúi xuống tìm đọc tựa đề: Tam giác cân
hay Không đề- cái tên dài nhất trong phòng tranh Mảnh vỡ.
Một cơn đau bất chợt dội thẳng vào ngực
khiến ông phải tựa mình vào một vật nào đó phía sau lưng.
Khi ông rời đi thành phố đã lên đèn.
Phải 3 ngày sau ông mới quay lại.
Chính nơi ông nhớ có một Gallery với cuộc
triển lãm Mảnh vỡ giờ đây lại là một cửa hàng bán hoa có tấm biển lớn Gánh hàng
hoa với những bó hoa, những lẵng hoa tươi tắn. Cô chủ thấp thoáng sau quầy với
chiếc váy sặc sỡ, nhiều màu, tựa hồ một bó hoa di động.
Không để ý đến vị khách đang đứng sững trước
quầy, cô cầm chiếc bình phun nước màu vàng, phun những tia nước nhỏ lên mặt
hoa, thi thoảng cúi xuống sửa lại một nhánh cây, một cánh hoa nào đó.
Nếu không có tiếng kèn Saxophone vọng ra từ
quán Cloud Coffee, hẳn ông đã không thể dời bước.
Ông
nghĩ, giờ đây, Cloud Coffee là bằng cớ duy nhất chứng minh sự tồn tại của
Gallery Mảnh vỡ, hơn thế, sư tồn tại tri giác của chính ông.
Không chút ngần ngại, ông bước vào quán.
Quán không rộng nhưng khá sâu với những cụm
bàn ghế cách xa nhau, đủ cho những cuộc trò chuyện riêng tây.
Trong quán đã có khá đông khách, hầu hết là
những người trẻ tuổi. Nhiều người đọc hay viết gì đó trên máy tính,vài cặp nam
nữ đang rì rầm trò chuyện, xa hơn, trong góc sâu là một nhóm khá đông các chàng
trai cô gái hình như đang thảo luận một điều gì đó khá nghiêm túc nhưng không lớn
tiếng.
Các nhân viên phục vụ mặc áo thun xanh lá
cây, chạy đi chạy lại, khéo léo lách mình qua những khoảng cách nhỏ, với chiếc
khay đầy ly tách trên tay.
Hơi bối rối vì sự lạc lõng của mình, ông chọn
chỗ ngồi gần cửa ra vào, gọi một ly cà phê đen ít đường, ít đá.
Nhận ra vị khách mới, cô chủ quán tự mình
mang cà phê cho ông với nụ cười nhã nhặn, cháu mời bác.
Không để ý đến cử chỉ của cô, ông vội vã
nói như sợ lỡ mất một cơ hội, cháu ơi, cho bác hỏi.
Nhưng rồi, đúng vào lúc cần nói lên câu hỏi
của mình ông lại có cảm giác ngại ngùng, lo lắng, vừa như sợ mình sẽ trở thành
một ông già gàn dở, lẩm cẩm trước cô gái vừa như đã dự cảm về một điều không được
như ý sẽ xảy đến.
Ông do dự một chút rồi chuyển sang một câu
hỏi khác, à, bác thấy tên quán hơi lạ nên muốn hỏi cháu, vì sao lại là Cloud
Coffee.
Cô chủ quán cười khẽ, dạ, cũng không có
chi, chúng cháu nghĩ mình bắt đầu việc kinh doanh vào lúc cả xã hội, nhất là
các bạn trẻ đang sống trong bầu khí của công nghệ thông tin, Cloud trong tên
quán muốn nhắc đến thuật ngữ khoa học “điện toán đám mây” vốn quen thuộc với mọi
người thôi ạ.
Thực
ra, chúng cháu cũng phải tranh luận khá lâu mới thoát khỏi những cái tên theo lối
cũ như chớm thu, nỗi nhớ, phút đợi chờ…cuối cùng mới chốt hạ cái tên hợp thời
này bác ạ.
Thấy cô định rời đi, ông lại vội vã cất lời,
này cháu, cháu ơi.
Nhận ra sự khẩn thiết trong tiếng gọi của
ông, cô chững lại, với tay lấy chiếc ghế trống ở bàn bên cạnh rồi ngồi đối diện
với ông, dạ, cháu có thể giúp gì cho bác. Hôm nay hơi vắng khách, cháu có chút
thời gian.
Ông khúc khắc ho, hồi lâu mới cất lời, chuyện
thế này, cách nay vài ngày, bác có đến cái Gallery bên cạnh, nay không thấy nữa,
họ dọn đi từ khi nào vậy.
Cô gái mở tròn mắt nhìn ông, một cái
Gallery ạ.
Phải rồi, sát vách nhà cháu đây này.
Cô kêu to, vài vị khách gần đó quay sang
nhìn họ, không thể nào, không thể nào. Cháu mở quán này cùng lúc với quầy bán
hoa bên cạnh, cũng hơn 2 năm rồi. Cô ấy là bạn cháu. Bọn cháu vẫn đùa với nhau,
hy vọng khách mua hoa sẽ sang uống cà phê, khách uống cà phê sẽ ghé đến mua
hoa.
Ngừng một chút như chờ đợi phản ứng của
ông, cô cười, mà cháu cũng chưa khi nào bước vào một cái Gallery đâu ạ.
Nhìn thấy vẻ mặt sững sờ của ông, cô vội
nói thêm, giọng như dỗ dành, bác ơi, Cloud Coffee có mấy chi nhánh nằm rải rác ở
các quận trong thành phố. Hay bác nhầm nơi này với một quán Cloud Coffee khác,
cái quán có phòng tranh bên cạnh ấy.
Ông
nhìn cô, rồi lặp lại câu nói của cô, không thể nào, không thể nào.
Với giọng nói như bị bóp nghẹt, ông vừa lặp
lại mấy từ không thể nào không thể nào vừa lập cập bước ra khỏi quán.
Nén một tiếng thở dài, cô gái gọi với
theo, bác ơi, bác đi cẩn thận ạ.
Ông trở lại Cloud Coffee vào một buổi sáng,
khi gần như cô chủ quán đã quên cuộc gặp lần trước, bác ghé để gửi tiền ly cà
phê.
Cô cười đáp lễ, có chi đâu ạ. Để cháu pha
ly khác mời bác.
Ông đưa tay ngăn lại, bác uống chè mạn quen
rồi. Bác cũng đến để cảm ơn cháu nữa đấy.
Cháu
ấy ạ, cô hỏi lại.
Phải, là cháu, chính là nhờ được gặp cháu đấy.
Bởi vậy, bác muốn cháu là người đầu tiên nghe bác.
Ông bắt
đầu cuộc trò chuyện bằng những lời thì thầm, như chỉ nói với riêng mình, những
va đập thức tỉnh, những va đập…
Nhưng gần như ngay lập tức ông nhận ra vẻ
căng thẳng của cô gái khi cô không ngừng xoay chiếc điện thoại của mình trên mặt
bàn, xin lỗi cháu, cháu đừng lo, chẳng có chi quan trọng, chẳng có chi to tát
đâu, chỉ là vài suy nghĩ chợt lọt vào cái đầu già nua này thôi, chỉ là, bác vừa
hiểu ra cái điều tưởng là đơn giản này, tưởng là hiển nhiên này, hình như trong
suốt cuộc đời, không hiểu vô tình hay hữu ý, ta đã tự mình xóa đi mọi dấu vết,
nhằm tạo nên một bề mặt phẳng phiu, lành lặn, ta yên ổn sống với cái bề mặt ấy,
ta chường ra trước thiên hạ cái bề mặt ấy, gọi đó là một cái mặt nạ ta tự đeo
cho mình cũng chẳng ngoa đâu.
Cô gái reo lên hào hứng, như Người Dơi,
phim Batman phải không ạ.
Ông quay sang nhìn cô nhưng câu hỏi ngây
thơ của cô không làm đứt mạch suy nghĩ của ông, thế rồi, một buổi chiều nào đó
trong vô vàn buổi chiều của đời mình, chẳng biết là rủi ro hay may mắn, ta đột
nhiên nhận được một sự dẫn dắt, buộc ta hay gọi là cho phép ta cũng được, trong
giây lát, nhìn thấu suốt vào cái tầng sâu kín từng bị khỏa lấp kia, để nhìn thấy…
Ông chợt ngưng nói khi nhận ra vẻ bối rối
trong ánh mắt của cô gái.
Đặt nhẹ bàn tay gầy xanh của mình lên bàn
tay mềm mại của cô, ông nói nhỏ, mà thôi, cháu đừng nghe bác. Bác cũng mới nghiệm
ra điều này nữa, đừng bắt những người trẻ tuổi phải lắng nghe mình. Người ta
không sống bằng kinh nghiệm của người khác, cháu ạ.
Ông để tờ năm mươi ngàn xuống mặt bàn rồi rời
quán.
*
Cô chủ quán chạy vội theo, đặt vào túi ngực
ông mảnh giấy nhỏ ghi đầy đủ địa chỉ các quán Cloud Coffee nằm rải rác tại những
nơi khác trong thành phố.
Ý
NHI
SG
9/2024.